Paris, Pháp
 
CUỘC ĐIỀU TRA VỤ TỰ TỨ TRÊN THÁP EIFFEL.
Cuộc thẩm vấn diễn ra tại sở Cảnh sát Reuilly trên phố Henard, Quận mười hai.
Hai thám tử André Belmondo và Pierre Marais mở đầu buổi hỏi cung người quản lý tháp Eiffel.
Thứ Hai, 6 tháng năm.
Thời gian 10 giờ sáng
Đối tượng: René Pascal.
Belmondo: ông Pascal, chúng tôi có đủ lý lẽ xác định là Mark Harris, nạn nhân được cho là té ngã từ trên đài quan sát tháp Eiffel đã bị giết chết.
Pascal: Bị giết chết? Mà sao… Tôi được nghe báo cáo là tai nạn do…
Marais: Làm sao chung quanh có bao lơn che chắn cao khỏi đầu người nạn nhân có thể té ngã xuống đất được?
Belmondo: Chúng tôi có đủ lý lẽ xác minh đây không phải là một vụ tự tử. Bởi ông ta đã chuẩn bị sắp xếp nghỉ cuối tuần với vợ, là Kelly một người mẫu.
Pascal: Tôi thật đau buồn, thưa quý ông, nhưng mà tôi chẳng hiểu… sao lại mời tôi đến đây.
Marais: Chúng tôi muốn làm sáng tỏ vụ việc buổi tối nhà hàng đóng cửa lúc mấy giờ?
- Pascal: Đúng mười giờ. Đêm đó có bão, nhà hàng vắng khách phải đóng cửa sớm…
Marais: Cầu thang máy ngừng chạy từ lúc nào?
Pascal: Thường chạy tới nửa đêm mới ngừng, đêm đó thấy không còn khách và người tham quan, tới mười giờ khoá máy.
Belmondo: Luôn cả thang máy chạy lên đài quan sát?
Pascal: Vâng. Tất cả thang máy đều khoá.
Marais: Vậy có thể đi cầu thang bộ từ dưới lên tới nơi được chứ.
Pascal: Không được. Tối đó mọi cửa đều khoá. Tôi không thể hiểu vì sao tai nạn xảy ra. Nếu…
Belmondo: Chuyện đó tôi sẽ nói ra đây. Nạn nhân Harris bị xô ngã từ trên cao xuống. Chúng tôi đã lên tới nơi xem xét hiện trường tại chỗ rào chắn nơi xảy ra tai nạn còn dấu xây xát, lớp cất ximăng bám dính vô dưới đế giầy nạn nhân Harris chính là lớp ximang bị bong tróc ngay tại chỗ rào chắn đài quan sát. Nếu cửa tầng dưới đã khoá, thang máy ngừng hoạt động nạn nhân không làm sao lên tới nơi ngay lúc nửa đêm?
Pascal: Tôi không biết. Không có cầu thang máy…thì làm sao… làm sao đi lên đó được.
Marais: Nhưng mà cầu thang máy còn hoạt động thì mới đưa ông Harris lên tới trên đài quan sát. Luôn cả thủ phạm… có thể vài ba tên… rồi bọn chúng quay trở xuống.
Belmondo: Ta có thể nghi cho kẻ lạ mặt cho chạy cầu thang máy.
Pascal: Không có chuyện đó. Người gác cầu thang máy thường trực tại phòng máy, buổi tối dùng khoá đặc biệt.
Marais: Có mấy chìa khoá tất cả?
Pascal: Có ba chìa. Tôi giữ một, hai chìa kia được cất giữ tại đây.
Belmondo: Ông xác định rõ cầu thang máy đóng cửa lúc mười giờ tối chứ?
Pascal: Vâng.
Marais: Ai chịu trách nhiệm tại chỗ?
Pascal: Toth. Gérard Toth.
Marais: Cho tôi gặp đương sự.
Pascal: Tôi cũng muốn gặp.
Marais: Ông muốn nói sao?
Pascal: Toth tối hôm đó không đi làm. Tôi đến nhà tìm, không nghe thấy ai lên tiếng, tôi hỏi thăm chủ nhà mới hay Toth đã dọn đi nơi khác.
Marais: Không để lại địa chỉ sao?
Pascal: Không. Hắn đã cuốn gói cao chạy xa bay từ lúc nào.
°°°
- Cao chạy xa bay? Có phải ta vừa nhớ lại nhà ảo thuật đại tài Houdini hay là một tên gác cầu thang quỷ quyệt?
Người vừa lên tiếng là ngài Tổng thư ký Renaud, chỉ huy Tổng hành dinh cơ quan Interpol. Ông nhỏ người tính năng động hoạt bát, tuổi trạc năm muơi có thâm niên hai mươi năm phục vụ trong ngành Cảnh sát Renaud ngồi chủ toạ phiên họp trong phòng họp lớn tại Tổng hành dinh bảy tầng lầu Trụ sở Cảnh sát quốc tế một nơi thanh lọc tất cả mọi nguồn tin cho 126 đơn vị cảnh sát thuộc bảy mươi tám nước: Trụ sở nằm trong khu phố St. Cloud, khoảng mười cây số về hướng tây Paris được điều hành do một lực lượng thám tử từng phục vụ trong Sở an ninh Pháp và Sở cảnh sát Paris.
Quanh bàn họp mười hai nhân viên đã có mặt đầy đủ. Cuộc thẩm vấn thám tử Belmondo vừa diễn ra trước một giờ.
Ngài tổng thư ký chua chát lên tiếng:
- Vậy là anh và thám tử Marais không thể thu thập được một manh mối nào vì sao nạn nhân bị giết chết tại một nơi khó có thể xâm nhập vô được, hơn nữa bọn sát thủ cũng khó mà len lỏi vô rồi thoát ra ngoài trót lọt hay sao? Các anh… báo cáo có vậy thôi sao?
- Tôi và Marais đã đối chứng với nhiều người…
- Thôi được. Anh có thể ra về!
- Thưa ngài, tuân lệnh!
Mọi người nhìn theo nhà thám tử vừa bị một trận te tua. Có người bảo;
- Thế đấy, đến anh ta cũng phải chịu thua.
Ngài tổng thư ký quay lại bàn họp:
- Trong lúc thẩm vấn, các anh có ai nghe nhắc… tới một nhân vật tên là Prima?
Mọi người chăm chú hồi lâu, rồi lắc đầu - không, Prima là nhân vật thế nào?
- Chúng ta chưa biết được. Cái tên được viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy còn sót lại trong túi áo jacket nạn nhân ở New York. Trong vụ nầy có liên quan tới một đầu mối, ngài thở ra.
- Các bạn, chúng ta đang gặp một việc nan giải, một bài toán còn ẩn số. Tôi đã phục vụ trong ngành mười lăm năm, từng điều tra nhiều vụ giết người hàng loạt, bọn tội phạm quốc tế, tội bạo hành, tội giết cha, và nhiều vụ có thể đoán ra được thủ phạm. -Ông dừng lại. - Trong từng ấy thời gian chưa lúc nào gạp một vụ như vừa qua. Tôi gởi một bản THÔNG BÁO đến cơ quan điều tra ở New York.
°°°
Manhattan New York.
Frank Bigley, chỉ huy một đơn vị thám tử ở Manhattan đang xem xét tờ trình của Tổng thư ký Renaud gởi tới vừa lúc hai thám tử Earl Greenburg và Robert Praegitzer bước vô.
- Thưa sếp cần gặp?
- Vâng, mời các anh ngồi.
Hai người kéo ghế ngồi.
Sếp Bigley, đưa ra một trang giấy.
- Đây là bản THÔNG BÁO sáng nay Interpol vừa gởi tới. Ông đọc to: "Cách nay sáu năm một nhà khoa học Nhật, Akira Iso đã treo cổ tự tử tại phòng riêng trong một khách sạn ở Tokyo. Cuộc điều tra cho thấy sức khoẻ ông Iso rất tốt, vừa được đề bạt lên một chức vụ cao hơn giữa lúc tinh thần phấn chấn".
- Ở bên Nhật? Nhưng mà có liên quan gì…
- Tôi đọc tiếp. "Cách đây ba năm, một nhà khoa học Thuỵ Sĩ, Madeleine Smith, ba mươi hai tuổi, tự tử bằng cách mở bình gaz tại nhà riêng ở Zurich. Bà đang mang thai và dự tính làm đám cưới với người cha đứa bé còn trong bụng. Nhân chứng -bạn bè cho biết bà chưa bao giờ được sung sướng như lúc ấy". Ông ngước nhìn hai nhân viên thám tử.
- Cách đây ba hôm một nhân vật ở thành phố Berlin tên là Sonja Vebrugge chết trong bồn tắm. Ngay trong đêm hôm đó, Mark Harris một người Mỹ té lộn nhào từ trên đài quan sát tháp Eiffel xuống đất. Ngày hôm sau một công dân Canada tên là Gary Reynolds chết trong một tai nạn máy bay đụng vô sườn núi ngoại ô thành phố Denver.
Greenburg và Praegitzer chăm chú nghe đọc, chưa hết bàng hoàng.
- Và mới hôm qua, các anh phát hiện xác chết nạn nhân Richard Stevens tấp vô bờ sông East River.
Earl Greenburg nhìn theo sếp, kinh ngạc.
- Mấy vụ đó liên quan gì đến chúng tôi?
Sếp Bigley lặng lẽ nói.
- Tất cả những cải chết được nhận dạng như nhau.
Greenburg nhìn sâu vô mắt ông:
- Sao? Để tôi nghĩ lại xem. Một người Nhật cách đây sáu năm, người Thuỵ sĩ ba năm, mới đây vài bữa một người Đức, người Canada và hai người Mỹ. - Gã ngồi lặng thinh một lúc. - Mấy vụ nầy có liên quan gì với nhau?
Sếp Bigley đưa qua Greenburg bản THÔNG BÁO của cơ quan Interpol. Greenburg vừa đọc tròn xoe mắt.
Gã ngước nhìn chậm rãi nói:
- Interpol nghi cho viện nghiên cứu Kingsley International đứng đằng sau mấy vụ nầy sao? Một trò cười.
Praegitzer lên tiếng:
- Thưa sếp, chúng tôi vừa nhắc tới tên tuổi một cơ quan nghiên cứu tầm cỡ thế giới.
- Tất cả nạn nhân là những người có liên quan cơ quan KIG, do Tanner Kingsley đứng đầu; Chủ tịch Uỷ ban khoa học của Tổng thống, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Uỷ ban chính sách quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc. Tôi muốn đề nghị cậu và Greenburg nên có một cuộc trao đổi với Kingsley.
- Vâng.
- Nầy Earl…
- Sếp bảo sao?
- Nên dè dặt và dò dẫm từng bước.
°°°
Năm phút sau, Earl Greenburg gặp thư ký Ric của Kingsley trên máy, gã quay qua Praegitzer
- Mười giờ sáng thứ ba ta tới điểm hẹn. Ngài Kingsley đang có mặt ra điều trần tại một Uỷ ban quốc hội ở Washington…
°°°
Washington, D.C
Tại buổi điều trần của Uỷ ban môi trường Thượng viện ở Washington, D.C, một hội đồng gồm sáu vị Thượng nghị sĩ và ba mươi quan khách tham dự một nhóm phóng viên lắng nghe Tanner Kingsley đọc bản điều trần.
Tanner Kingsley, trong độ tuổi bốn mươi, cao lớn điển trai, đôi mắt xanh sắc sảo, thông minh khuôn mặt với chiếc mũi dọc dừa, chiếc cằm cương nghị trông như hình tượng tạc in trên đồng tiền.
Chủ tịch Uỷ ban, Thượng nghị sĩ Pauline Mary Van Luven, nhân vật thể lực khoác một tư cách đầy vẻ tự tin. Bà nhìn qua Tanner dõng dạc lên tiếng mời ông Kingsley phát biểu.
Tanner gật:
- Cám ơn bà Thượng nghị sĩ. Ông quay qua phía các thành viên Uỷ ban mở đầu; với giọng nói sôi nổi.
- Trong khi một số các nhà hoạt đông chính trị của chúng ta loay hoay với những sự kiện trái đất ấm dần lên và hiện tượng hiệu ứng nhà kính, lỗ được chứ?
- Con Angel thuộc về tôi. Ông đem biếu cho tôi, phải không?
Mark dừng lại nghẹn họng.
- Ờ, nhưng mà em đã nói…
- Tôi muốn thoả thuận với ông, Harris. Tôi được giữ con chó Angel, còn ông có thể lui tới tự nhiên.
Nghĩ ngợi một lúc mặt mày sáng rỡ gã nói:
- Vậy là em vừa nói tôi có thể… em muốn cho tôi…
Kelly nói:
- Sao không gác lại chuyện đó để tối nay tính?
Nàng có ngờ đâu chính nàng đang là đích ngắm của bọn sát thủ.

Dịch giả : Trạch Thiên
Chương 17

Andrew ngồi trong văn phòng nhìn vào tập sách mỏng do Uỷ ban giải Nobel tặng ghi chú dòng chữ: "Vì lợi ích chung chúng tôi chờ ông tại đích đến". Một số hình ảnh trong buổi trao giải tại nhà hát lớn Stockholm, cử toạ vỗ tay tán thưởng các tác giả bước lên bục nhận giải thưởng từ tay nhà vua Carl XVI Gustav, Thuỵ Điển.
Nay mai ta sẽ tới được đích, Andrew nghĩ.
Cánh cửa vừa mở, Tanner bước vô trong:
- Chúng ta có việc nầy cần bàn.
Andrew để tập sách qua một bên:
- Sao, Tanner?
Tanner hít vô một hơi:
- Tôi mới vừa nói chuyện nhân danh KIG cam kết hợp tác với quân đội làm một cuộc thử nghiệm sắp tới.
- Cậu làm sao?
- Thử nghiệm phương pháp làm lạnh. Phải cần có anh hợp tác.
Andrew lắc đầu.
- Không thể, ta không muốn can dự vô việc đó, Tanner. Công tác nầy không nằm trong lĩnh vực của cơ sở.
- Việc nầy không dính dáng tiền bạc, Andrew. Nó thuộc về công tác quốc phòng của nước Mỹ, của quân đội. Anh phái biết phục vụ cho đất nước.
Vì lợi ích chung. Họ đang cần tới anh.
Tanner ngồi lại thêm cả tiếng đồng hồ thuyết phục. Cuối cùng Andrew đồng ý.
- Được, phải coi đây như là một lần nữa thôi ta đi ra ngoài lĩnh vực chuyên môn, Tanner, cậu đồng ý chứ?.
Tanner nhấc máy gọi Paula. Nàng lắng nghe.
- Anh mới vừa về, sắp tới sẽ nhận một công tác quan trọng, lúc nào xong sẽ gọi cho em. Thương lắm.
°°°
Hai chuyên viên quân đội trình bày tóm tắt cho Andrew về công tác tiến triển tốt đẹp mới đây. Andrew đang còn do dự, nghe qua phần trình bày dự án sắp tới, Andrew chú ý hơn. Nếu mọi vướng mắc được giải quyết coi như đã vượt qua bước đầu.
Một giờ sau, Andrew ngồi nhìn chiếc xe quân sự lái thẳng vô cổng cơ sở KIG, theo sau là hai xe chở đầy lính. Ông bước ra cổng đón ngài đại tá chỉ huy toán lính.
- Chúng tôi đã sẵn sàng, Ngài Kingsley. Nhờ ông chỉ huy.
- Chúng tôi sẽ lo việc đó; - Andrew nói. - Cho hàng xuống xe chúng tôi lo liệu.
- Tuân lệnh. - Ngài đại tá quay qua chỗ hai binh sĩ đứng sau xe - Cho hàng xuống. Nhớ cẩn thận, rất là cẩn thận.
Hai chiến sĩ leo vô trong xe xê dịch dần dần một chiếc thùng sắt được niêm kín ra bên ngoài.
Thoáng chốc chiếc thùng sắt được hai chuyên viên đưa vô bên trong phòng thí nghiệm dưới sự giám sát theo dõi của Andrew.
- Đặt trên bàn thật nhẹ tay. - Ông để mắt nhìn theo - Khá lắm.
- Chỉ cần một người làm cũng xong, nhẹ thổi, một người theo xe vừa nói.
- Cậu không tin sao, nặng lắm mà, - Andrew nói.
Cả hai nhìn theo, lóng ngóng:
- Ủa?
Andrew lắc đầu:
- Thôi kệ.
°°°
Hai chuyên viên hoá học Perry Stanford và Harvey Walker được điều tới hợp tác với Andrew.
- Tất cả được trang bị quần áo bảo hộ khi làm công tác - Chờ tôi thay đồ, - Andrew nói. - Trở ra ngay.
Ông bước ra ngoài đi tới chỗ cửa đóng kín mở ra.
Bên trong chứa đồ trang bị mặt nạ chống hơi độc, bao tay, kính che mắt, giầy trang bị đặc biệt.
Andrew bước vô lấy bộ đồ bảo hộ, Tanner chạy tới chúc ông hoàn thành công tác.
Andrew trở lại phòng thí nghiệm.
Stanford và Walker đã chờ sẵn. Cả ba niêm kín căn phòng ngăn chặn hơi thoát ra bên ngoài, chốt cửa bảo đảm an toàn. Tất cả cùng nôn nóng chờ đợi.
- Xong cả chứ?
Stanford gật.
- Sẵn sàng? - Walker nhìn lại - Sẵn sàng. Mặt nạ đâu?
Cả hai đeo mặt nạ chống hơi độc.
- Ta làm đi. Andrew nói. Ông nhẹ tay nhấc chiếc nắp thùng sắt lên. Bên trong chứa sáu lọ nhỏ được bảo vệ kỹ nhiều lớp lót.
- Cẩn thận nhé, ông nhắc.
- Mấy lọ nầy có độ lạnh 222 độ dưới không? Tiếng nói bị nghẻn sau lớp mặt nạ.
Stanford và Walker nhìn theo Andrew nhẹ tay nhấc từng lọ nhỏ mở nút. Nghe hơi xì ra tạo một lớp sương mù bao quanh bên trong gian phòng như có độ ẩm.
- Được đấy! - Andrew nói - Nào, trước tiên ta phải làm là…
Chợt ông trợn mắt, nấc nghẹn, mặt mũi tái nhợt. Ông nhấp môi không nói được.
Stanford và Walker nhìn qua hoảng hốt, Andrew bước chệnh choạng ngã xuống sàn. Walker vội đậy nút chai đóng nắp thùng lại. Stanford vụt chạy tới nhấn nút quạt máy thông bớt khí lạnh ra bên ngoài.
Chờ thông gió, hai chuyên gia thí nghiệm vội chạy tới mở cửa đưa Andrew ra bên ngoài. Vừa lúc đó Tanner từ đằng xa nhìn thấy mặt mũi hoảng hốt.
Gã vụt chạy về phía hai người đang đứng nhìn xuống chỗ người anh.
- Chuyện quái gì thế nầy?
Stanford đáp:
- Chúng tôi gặp sự cố và…
- Sự cố ra sao? - Tanner la hét om sòm như người mất trí - Các ông làm sao mà anh tôi thế nầy? Tất cả mọi người từ trong ùa ra xúm quanh.
- Gọi 911 ngay?
Thôi đừng. Không kịp nữa rồi. Lấy xe đưa ngay đến bệnh viện.
Sau hai mươi phút, Andrew đã được đưa vô bệnh viện St. Vincent's Hospital ở Manhattan. Nằm trên giường đeo mặt nạ thở oxy, tay chuyền nước biển. Hai bác sĩ theo dõi.
Tanner bồn chồn bước đi lui tới:
- Các ông phải lo tìm cho ra vì sao anh tôi bị nạn, ngay lúc nầy!
Một bác sĩ lên tiếng.
- Ông Kingsley, yêu cầu ông ra ngoài.
- Không, - Tanner quát. - Tôi phải ở lại đây với anh tôi. Gã bước tới bên giường Andrew trong cơn hôn mê, nắm tay lắc lắc.
- Gắng lên anh ơi. Tỉnh dậy đi, mọi người đang chờ anh.
Ông nằm im bất động.
Tanner nước mắt ràn rụa.
- Anh sẽ khoẻ thôi.
- Đừng lo. Chúng ta sẽ mời bác sĩ chuyên môn lo cho anh, anh sẽ khoẻ lại thôi. Gã quay qua bác sĩ.
- Tôi muốn đặt một phòng riêng có y tá chăm sóc thường xuyên, đặt thêm một giường nữa. Tôi ở lại đây.
- Ông Kingsley, chúng tôi còn phải khám chưa xong!
Tanner đập lại một câu:
- Tôi chờ ngoài nầy!
°°°
Andrew được đưa xuống tầng dưới chụp MRI và CAT, cho xét nghiệm máu. Bệnh nhân được xét nghiệm kỹ, cho chụp PET. Sau đó được đưa qua phòng do bà bác sĩ khám.
Tanner ngồi đợi ở dãy ghế bên ngoải. Thoáng thấy bác sĩ từ trong bước ra Tanner nhảy dựng lên.
- Anh tôi sẽ được chữa khoẻ chứ, thưa bác sĩ?
Bác sĩ lưỡng lự:
- Chúng tôi sẽ chuyển lên Viện quân Y Walter Reed ở Washington khám lại, thiệt tình mà nói chúng tôi không dám lạc quan.
- Bác sĩ nói sao vậy? - Tanner lại quát tháo. - Chắc chắn sẽ phải khoẻ thôi. Anh tôi ở trong phòng thí nghiệm mới có mấy phút!
Bác sĩ định lên tiếng trách, ông thoáng thấy Tanner rưng rưng nước mắt.
°°°
Tanner đi theo chuyến bay chở bệnh nhân về Washington. Ngồi trên máy bay gã luôn miệng thì thầm an ủi người anh.
- Bác sĩ bảo đảm anh sẽ khoẻ thôi… sẽ tiêm thuốc cho anh khoẻ… Anh cần phải nghỉ ngơi một thời gian. Tanner vòng tay qua người anh.
- Anh phải khoẻ lại để đi qua Thuỵ Điển nhận giải Nobel.
°°°
Ba bữa sau, Tanner ở lại ngủ trên chiếc ghế bố xếp bên cạnh giường bệnh nhân đã được phép của bác sĩ. Lúc Tanner đang ngồi chờ ở phòng đợi quân y viện Walter Reed một bác sĩ điều trị bước tới gần bên.
- Anh tôi ra sao? Tanner hỏi - Liệu có…
Thoáng thấy nét mặt bác sĩ biến sắc.
- Vậy là sao.
- Tôi thấy ông còn yếu lắm, may ra thì có thể cứu sống. Dù đó là loại gas thử nghiệm nhưng rất độc hại.
- Chúng tôi có thể mời bác sĩ ngoại…
- Không thể làm gì khác hơn. Có thể chất độc đã thấm vô tế bào não trạng.
Tanner cau mày:
- Liệu không có cách nào chữa cho… cho bệnh tình của anh tôi?
Bác sĩ ngậm ngùi nói:
- Ông Kingsley, hiện bác sĩ quân y viện chưa thể định danh được chứng bệnh là gì, ông muốn biết liệu có cách chữa? Không còn cách nào khác tôi e là nạn nhân… có thể không nhận ra mình là ai?
Tanner đứng lặng người một chỗ hai bàn tay nắm chặt lại mặt mày tái nhợt.
- Bệnh nhân đã tỉnh lại được. Ông có thể vô thăm trong chốc lát.
Tanner bước vô nhìn thấy Andrew đã mở mắt được ông nhìn tới phía trước, hai mắt trân trân.
Chuông điện thoại reo Tanner bước tới nhấc máy.
- Ngài đại tá Barton gọi.
- Tôi lấy làm hối tiếc sự việc vừa qua xảy tới cho…
- Ông mắc dịch, ông bảo đảm anh tôi không có việc gì
- Tôi không rõ vừa xảy ra chuyện gì, nhưng mà tôi dám chắc…
Tanner buông máy xuống, nghe người anh lên tiếng gã quay lại.
- Ta… ta đang ở đâu? - Andrew nói thều thào.
- Anh đang ở tại quân y viện Walter Reed, ở Washington.
- Sao? Ai đau ốm vậy?
- Anh nằm đó, Andrew.
- Mà sao vậy?
- Tai nạn đang lúc thử nghiệm.
- Ta không nhớ…
- Không sao, anh đừng lo. Anh sẽ được bác sĩ lo chăm sóc. Có em đây.
Tanner nhìn theo Andrew nhắm mắt lại. Gã nhìn người anh nằm trên giường một lần nữa bước trở ra.
°°°
Paula gởi bó hoa đến bệnh viện.
Tanner định gọi cho nàng, người thư ký ngăn lại:
- À bà ấy đã gọi tới đây, bà phải đi ra phố, lúc về nhà bà sẽ gọi lại. Bà nhờ nhắn lại giùm nhớ ông.
Tuần lễ sau, Andrew và Tanner đã có mặt tại New York. Tai nạn xảy đến cho Andrew, khắp nơi cơ sở KIG đều biết, không có ông liệu cơ sở nghiên cứu có thể còn tồn tại? Nếu thông tin lọt ra bên ngoài, uy tín của công ty sẽ chịu ảnh hưởng.
Chuyện không thành vấn đề, Tanner nghĩ. Ta sẽ vận dụng nâng lên hàng cơ sở nghiên cứu tầm cỡ thế giới. Ta sẽ ban cho Princess hơn cả những gì nàng mong đợi. Trong vòng vài năm…
Thư ký riêng nhắn qua Tanner.
- Một người lái xe đang chờ gặp ông, Kingsley.
Tanner quá bất ngờ.
- Cho vào đây.
Người lái xe mặc đồng phục bước vô, trên tay cầm chiếc phong bì.
- Ông là Tanner Kingsley?
- Vâng.
- Tôi được yêu cầu mang đến giao tận tay ông.
Gã giao thư cho Tanner rồi bước ra.
Tanner nhìn chiếc phong bì nhếch mép cười, nét chữ Paula. Nàng muốn dành cho gã một chút ngạc nhiên.
Nhanh tay, gã giở ra xem, nội dung viết: "Chuyện không thành, anh yêu. Ngay lúc nầy em đang cần hơn cả những gì anh đã hứa, nên em đã chịu lấy người khác thoả mãn yêu cầu của em. Mối tình của anh và em trước sau như một. Em biết là anh không thể tin được, sở dĩ em phải làm điều đó là vì lợi ích cho hai chúng ta".
Tanner mặt mũi sa sầm, mắt chăm chăm nhìn lá thư hồi lâu bàn tay hờ hững ném xuống sọt rác, Vinh quang về tay ta quá chậm.