Paris, Pháp
 
CUỘC ĐIỀU TRA VỤ TỰ TỨ TRÊN THÁP EIFFEL.
Cuộc thẩm vấn diễn ra tại sở Cảnh sát Reuilly trên phố Henard, Quận mười hai.
Hai thám tử André Belmondo và Pierre Marais mở đầu buổi hỏi cung người quản lý tháp Eiffel.
Thứ Hai, 6 tháng năm.
Thời gian 10 giờ sáng
Đối tượng: René Pascal.
Belmondo: ông Pascal, chúng tôi có đủ lý lẽ xác định là Mark Harris, nạn nhân được cho là té ngã từ trên đài quan sát tháp Eiffel đã bị giết chết.
Pascal: Bị giết chết? Mà sao… Tôi được nghe báo cáo là tai nạn do…
Marais: Làm sao chung quanh có bao lơn che chắn cao khỏi đầu người nạn nhân có thể té ngã xuống đất được?
Belmondo: Chúng tôi có đủ lý lẽ xác minh đây không phải là một vụ tự tử. Bởi ông ta đã chuẩn bị sắp xếp nghỉ cuối tuần với vợ, là Kelly một người mẫu.
Pascal: Tôi thật đau buồn, thưa quý ông, nhưng mà tôi chẳng hiểu… sao lại mời tôi đến đây.
Marais: Chúng tôi muốn làm sáng tỏ vụ việc buổi tối nhà hàng đóng cửa lúc mấy giờ?
- Pascal: Đúng mười giờ. Đêm đó có bão, nhà hàng vắng khách phải đóng cửa sớm…
Marais: Cầu thang máy ngừng chạy từ lúc nào?
Pascal: Thường chạy tới nửa đêm mới ngừng, đêm đó thấy không còn khách và người tham quan, tới mười giờ khoá máy.
Belmondo: Luôn cả thang máy chạy lên đài quan sát?
Pascal: Vâng. Tất cả thang máy đều khoá.
Marais: Vậy có thể đi cầu thang bộ từ dưới lên tới nơi được chứ.
Pascal: Không được. Tối đó mọi cửa đều khoá. Tôi không thể hiểu vì sao tai nạn xảy ra. Nếu…
Belmondo: Chuyện đó tôi sẽ nói ra đây. Nạn nhân Harris bị xô ngã từ trên cao xuống. Chúng tôi đã lên tới nơi xem xét hiện trường tại chỗ rào chắn nơi xảy ra tai nạn còn dấu xây xát, lớp cất ximăng bám dính vô dưới đế giầy nạn nhân Harris chính là lớp ximang bị bong tróc ngay tại chỗ rào chắn đài quan sát. Nếu cửa tầng dưới đã khoá, thang máy ngừng hoạt động nạn nhân không làm sao lên tới nơi ngay lúc nửa đêm?
Pascal: Tôi không biết. Không có cầu thang máy…thì làm sao… làm sao đi lên đó được.
Marais: Nhưng mà cầu thang máy còn hoạt động thì mới đưa ông Harris lên tới trên đài quan sát. Luôn cả thủ phạm… có thể vài ba tên… rồi bọn chúng quay trở xuống.
Belmondo: Ta có thể nghi cho kẻ lạ mặt cho chạy cầu thang máy.
Pascal: Không có chuyện đó. Người gác cầu thang máy thường trực tại phòng máy, buổi tối dùng khoá đặc biệt.
Marais: Có mấy chìa khoá tất cả?
Pascal: Có ba chìa. Tôi giữ một, hai chìa kia được cất giữ tại đây.
Belmondo: Ông xác định rõ cầu thang máy đóng cửa lúc mười giờ tối chứ?
Pascal: Vâng.
Marais: Ai chịu trách nhiệm tại chỗ?
Pascal: Toth. Gérard Toth.
Marais: Cho tôi gặp đương sự.
Pascal: Tôi cũng muốn gặp.
Marais: Ông muốn nói sao?
Pascal: Toth tối hôm đó không đi làm. Tôi đến nhà tìm, không nghe thấy ai lên tiếng, tôi hỏi thăm chủ nhà mới hay Toth đã dọn đi nơi khác.
Marais: Không để lại địa chỉ sao?
Pascal: Không. Hắn đã cuốn gói cao chạy xa bay từ lúc nào.
°°°
- Cao chạy xa bay? Có phải ta vừa nhớ lại nhà ảo thuật đại tài Houdini hay là một tên gác cầu thang quỷ quyệt?
Người vừa lên tiếng là ngài Tổng thư ký Renaud, chỉ huy Tổng hành dinh cơ quan Interpol. Ông nhỏ người tính năng động hoạt bát, tuổi trạc năm muơi có thâm niên hai mươi năm phục vụ trong ngành Cảnh sát Renaud ngồi chủ toạ phiên họp trong phòng họp lớn tại Tổng hành dinh bảy tầng lầu Trụ sở Cảnh sát quốc tế một nơi thanh lọc tất cả mọi nguồn tin cho 126 đơn vị cảnh sát thuộc bảy mươi tám nước: Trụ sở nằm trong khu phố St. Cloud, khoảng mười cây số về hướng tây Paris được điều hành do một lực lượng thám tử từng phục vụ trong Sở an ninh Pháp và Sở cảnh sát Paris.
Quanh bàn họp mười hai nhân viên đã có mặt đầy đủ. Cuộc thẩm vấn thám tử Belmondo vừa diễn ra trước một giờ.
Ngài tổng thư ký chua chát lên tiếng:
- Vậy là anh và thám tử Marais không thể thu thập được một manh mối nào vì sao nạn nhân bị giết chết tại một nơi khó có thể xâm nhập vô được, hơn nữa bọn sát thủ cũng khó mà len lỏi vô rồi thoát ra ngoài trót lọt hay sao? Các anh… báo cáo có vậy thôi sao?
- Tôi và Marais đã đối chứng với nhiều người…
- Thôi được. Anh có thể ra về!
- Thưa ngài, tuân lệnh!
Mọi người nhìn theo nhà thám tử vừa bị một trận te tua. Có người bảo;
- Thế đấy, đến anh ta cũng phải chịu thua.
Ngài tổng thư ký quay lại bàn họp:
- Trong lúc thẩm vấn, các anh có ai nghe nhắc… tới một nhân vật tên là Prima?
Mọi người chăm chú hồi lâu, rồi lắc đầu - không, Prima là nhân vật thế nào?
- Chúng ta chưa biết được. Cái tên được viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy còn sót lại trong túi áo jacket nạn nhân ở New York. Trong vụ nầy có liên quan tới một đầu mối, ngài thở ra.
- Các bạn, chúng ta đang gặp một việc nan giải, một bài toán còn ẩn số. Tôi đã phục vụ trong ngành mười lăm năm, từng điều tra nhiều vụ giết người hàng loạt, bọn tội phạm quốc tế, tội bạo hành, tội giết cha, và nhiều vụ có thể đoán ra được thủ phạm. -Ông dừng lại. - Trong từng ấy thời gian chưa lúc nào gạp một vụ như vừa qua. Tôi gởi một bản THÔNG BÁO đến cơ quan điều tra ở New York.
°°°
Manhattan New York.
Frank Bigley, chỉ huy một đơn vị thám tử ở Manhattan đang xem xét tờ trình của Tổng thư ký Renaud gởi tới vừa lúc hai thám tử Earl Greenburg và Robert Praegitzer bước vô.
- Thưa sếp cần gặp?
- Vâng, mời các anh ngồi.
Hai người kéo ghế ngồi.
Sếp Bigley, đưa ra một trang giấy.
- Đây là bản THÔNG BÁO sáng nay Interpol vừa gởi tới. Ông đọc to: "Cách nay sáu năm một nhà khoa học Nhật, Akira Iso đã treo cổ tự tử tại phòng riêng trong một khách sạn ở Tokyo. Cuộc điều tra cho thấy sức khoẻ ông Iso rất tốt, vừa được đề bạt lên một chức vụ cao hơn giữa lúc tinh thần phấn chấn".
- Ở bên Nhật? Nhưng mà có liên quan gì…
- Tôi đọc tiếp. "Cách đây ba năm, một nhà khoa học Thuỵ Sĩ, Madeleine Smith, ba mươi hai tuổi, tự tử bằng cách mở bình gaz tại nhà riêng ở Zurich. Bà đang mang thai và dự tính làm đám cưới với người cha đứa bé còn trong bụng. Nhân chứng -bạn bè cho biết bà chưa bao giờ được sung sướng như lúc ấy". Ông ngước nhìn hai nhân viên thám tử.
- Cách đây ba hôm một nhân vật ở thành phố Berlin tên là Sonja Vebrugge chết trong bồn tắm. Ngay trong đêm hôm đó, Mark Harris một người Mỹ té lộn nhào từ trên đài quan sát tháp Eiffel xuống đất. Ngày hôm sau một công dân Canada tên là Gary Reynolds chết trong một tai nạn máy bay đụng vô sườn núi ngoại ô thành phố Denver.
Greenburg và Praegitzer chăm chú nghe đọc, chưa hết bàng hoàng.
- Và mới hôm qua, các anh phát hiện xác chết nạn nhân Richard Stevens tấp vô bờ sông East River.
Earl Greenburg nhìn theo sếp, kinh ngạc.
- Mấy vụ đó liên quan gì đến chúng tôi?
Sếp Bigley lặng lẽ nói.
- Tất cả những cải chết được nhận dạng như nhau.
Greenburg nhìn sâu vô mắt ông:
- Sao? Để tôi nghĩ lại xem. Một người Nhật cách đây sáu năm, người Thuỵ sĩ ba năm, mới đây vài bữa một người Đức, người Canada và hai người Mỹ. - Gã ngồi lặng thinh một lúc. - Mấy vụ nầy có liên quan gì với nhau?
Sếp Bigley đưa qua Greenburg bản THÔNG BÁO của cơ quan Interpol. Greenburg vừa đọc tròn xoe mắt.
Gã ngước nhìn chậm rãi nói:
- Interpol nghi cho viện nghiên cứu Kingsley International đứng đằng sau mấy vụ nầy sao? Một trò cười.
Praegitzer lên tiếng:
- Thưa sếp, chúng tôi vừa nhắc tới tên tuổi một cơ quan nghiên cứu tầm cỡ thế giới.
- Tất cả nạn nhân là những người có liên quan cơ quan KIG, do Tanner Kingsley đứng đầu; Chủ tịch Uỷ ban khoa học của Tổng thống, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Uỷ ban chính sách quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc. Tôi muốn đề nghị cậu và Greenburg nên có một cuộc trao đổi với Kingsley.
- Vâng.
- Nầy Earl…
- Sếp bảo sao?
- Nên dè dặt và dò dẫm từng bước.
°°°
Năm phút sau, Earl Greenburg gặp thư ký Ric của Kingsley trên máy, gã quay qua Praegitzer
- Mười giờ sáng thứ ba ta tới điểm hẹn. Ngài Kingsley đang có mặt ra điều trần tại một Uỷ ban quốc hội ở Washington…
°°°
Washington, D.C
Tại buổi điều trần của Uỷ ban môi trường Thượng viện ở Washington, D.C, một hội đồng gồm sáu vị Thượng nghị sĩ và ba mươi quan khách tham dự một nhóm phóng viên lắng nghe Tanner Kingsley đọc bản điều trần.
Tanner Kingsley, trong độ tuổi bốn mươi, cao lớn điển trai, đôi mắt xanh sắc sảo, thông minh khuôn mặt với chiếc mũi dọc dừa, chiếc cằm cương nghị trông như hình tượng tạc in trên đồng tiền.
Chủ tịch Uỷ ban, Thượng nghị sĩ Pauline Mary Van Luven, nhân vật thể lực khoác một tư cách đầy vẻ tự tin. Bà nhìn qua Tanner dõng dạc lên tiếng mời ông Kingsley phát biểu.
Tanner gật:
- Cám ơn bà Thượng nghị sĩ. Ông quay qua phía các thành viên Uỷ ban mở đầu; với giọng nói sôi nổi.
- Trong khi một số các nhà hoạt đông chính trị của chúng ta loay hoay với những sự kiện trái đất ấm dần lên và hiện tượng hiệu ứng nhà kính, lỗ được chứ?
- Con Angel thuộc về tôi. Ông đem biếu cho tôi, phải không?
Mark dừng lại nghẹn họng.
- Ờ, nhưng mà em đã nói…
- Tôi muốn thoả thuận với ông, Harris. Tôi được giữ con chó Angel, còn ông có thể lui tới tự nhiên.
Nghĩ ngợi một lúc mặt mày sáng rỡ gã nói:
- Vậy là em vừa nói tôi có thể… em muốn cho tôi…
Kelly nói:
- Sao không gác lại chuyện đó để tối nay tính?
Nàng có ngờ đâu chính nàng đang là đích ngắm của bọn sát thủ.

Dịch giả : Trạch Thiên
Chương 24

Mandarin Hotel là một khách sạn rẻ tiền hai tầng lầu nằm ngay trung tâm khu phố Tàu. Cách khu phố Mott Street không bao xa.
Kelly và Diane vừa bước xuống xe taxi, Diane nhìn qua bên kia thấy tấm bảng áp phích quảng cáo cỡ lớn hình ảnh Kelly mặc bộ đồ ngủ xinh đẹp trên tay cầm lọ nước hoa. Diane ngạc nhiên nhìn theo:
- Bà đấy hở?
- Bà nhìn lầm, - Kelly nói - Vì mưu sỉnh tôi phải làm, Stevens. Tôi không phải vậy đâu!
Ngắm nhìn lại mình, Kelly bước vô bên trong khách sạn, Diane dùng dằng bước theo sau.
Người nhân viên tiếp tân đang ngồi đọc báo bên trong quầy.
- Chúng tôi cần một phòng ở lại qua đêm, Diane nói.
Anh chàng ngước nhìn hai khách hàng ăn mặc lịch sự, rồi nói lớn tiếng.
- Ở lại đây? - Gã đứng lên. - Dạ có - Gã nhìn bề ngoài khách hàng. - Ở đây giá phòng một trăm đô-la.
Kelly há hốc mồm:
- Một trăm…
Diane nói xen vô:
- Vậy cũng được.
- Quý bà trả tiền trước.
Diane mở ví rút mấy tấm giấy bạc đưa ra.
- Bàn giao ngay chìa khoá.
- Phòng số mười, đi thẳng rồi rẽ bên trái. Hai bà có hành lý?
- Tý nữa sẽ mang tới đây, Diane nói.
- Quý khách cần gì gọi máy hỏi Ling.
Kelly nói:
- Ling hở?
- Vâng, tên người bồi phòng.
Kelly ngẩn ngơ nhìn lại thì ra.
Khách trọ bước đi ngang qua dãy hành lang đèn mờ.
- Bà trả tiền nhiều vậy, Kelly nói.
- Một nơi ta cần ẩn náu đáng giá là bao nhiêu.
- Tôi thấy chỗ nầy cũng chưa phải yên, - Kelly nói.
- Thì cứ vậy đi đã rồi tính sau. Cậu chớ lo đã có ông Kingsley lo.
Đến trước cửa phòng số mười, Diane lấy chìa ra mở bước vô nhìn căn phòng trống trải bốc mùi dường như lâu ngày không có khách trọ. Phòng hai giường tấm dra trải nhàu nhò, hai chiếc ghế cũ kỹ bên chiếc bàn trầy xước lỗ chỗ.
Kelly đứng nhìn quanh.
- Phòng nhỏ hẹp trông chả ra hồn, chắc là không người lo dọn dẹp, sờ tay lên chiếc gối bụi bay đầy.
- Bao lâu Ling mới đi qua chỗ nầy?
- Ta chỉ ở một đêm, - Diane nói cho nàng yên tâm.
- Tôi phải gọi ông Kingsley!
Kelly nhìn theo Diane bấm số máy ghi trên tấm danh thiếp Tanner Kingsley đưa hôm nọ.
Người nghe nhấc máy:
- Tanner Kingsley tôi nghe.
Diane thở ra một hơi.
- Chào ông Kingsley, tôi là Diane Stevens, xin ông cảm phiền, có bà Harris với tôi đang cần nhờ ông một việc. Bọn xấu đang rình rập đòi giết hai chúng tôi, vậy là sao. Chúng tôi cần tìm chỗ ẩn nấp.
- Cám ơn bà Stevens, bà cứ nghỉ ngơi cho khoẻ. Chúng tôi biết rõ vụ nầy do ai cầm đầu. Bà không lo bị quấy rầy nữa đâu. Từ nay tính mạng hai bà đảm bảo an toàn.
Diane nhắm hai mắt lại. Lạy chúa, nàng nghĩ:
- Ông có thể cho biết là ai…
- Lúc nào gặp nhau tôi sẽ cho bà hay. Bà cứ ở một chỗ. Trông vòng nửa giờ nữa sẽ có người tới đón.
- Nghĩa là…
Máy bị cắt ngang. Diane buông máy nhìn Kelly, mặt mày hớn hở.
- Tin vui! Vậy là mọi chuyện đã được giải quyết!
- Ông ta nói sao?
- Ông ta biết rõ hết vụ nầy do ai cầm đầu, từ nay ta cứ yên tâm.
Kelly thở ra một hơi dài.
- Khá lắm. Vậy là tôi có thể về Paris lập lại cuộc đời. Nửa giờ nữa sẽ có người tới đón.
Kelly nhìn quanh gian phòng bẩn thỉu thật khó mà bỏ đi được, nàng nói mỉa.
Diane quay lại nói giọng hờ hững.
- Kể cũng lạ.
- Lạ sao nhỉ?
- Trở về lại chốn xưa không còn Richard. Tôi nghĩ phải tính làm sao để mà…
- Thì đừng làm. - Kelly quát khiến nàng giật thót. - Đừng cho tôi về lại đó kẻo rồi lại cô đơn. Tôi không dám mơ tới ngày đó. Với tôi Mark là tất cả, là lẽ sống không thể thiếu vắng.
Diane nhìn khuôn mặt Kelly đờ đẫn, ngẫm nghĩ chẳng khác nào một pho tượng đá… khoe bên ngoài một vẻ đẹp lạnh lùng.
Kelly nhìn lại và ngồi xuống giường quay lưng về phía Diane. Nàng nhắm nghiền mắt cố quên hết nỗi đau trong lòng… vơi đi… vơi dần…
°°°
Kelly đang dạo bước trên bờ sông với Mark nói năng đủ thứ chuyện, và chưa bao giờ nàng tìm thấy được những giây phút thoải mái bên anh như lúc nầy.
Nàng quay qua Mark.
- Tối mai sẽ có cuộc triển lãm tranh, anh có thích mấy…
- À rất tiếc Kelly. Tối mai anh bận việc.
Kelly bất chợt thấy máu ghen nổi lên:
- Thì bận hẹn người khác vậy? Nàng cố giữ vẻ mặt bình thản.
- À không. Anh chỉ có một mình, tối hôm đó có tiệc lớn… Anh nhìn thấy Kelly biến sắc. - Anh… dự tiệc do các nhà khoa học chiêu đãi. Em sẽ thấy nhàm chán.
- Em à?
- Anh nghĩ vậy thôi. Ngồi lại nghe họ nói những chuyện thấy quá xa lạ với em.
- Em có thể nghe hiểu được hết, Kelly nói, muốn động lòng tự ái.
- Anh thử mời em một bữa. À thiệt tình anh không đám…
- Em dư sức hiểu. Anh giữ tự nhiên.
Anh thở ra một hơi:
- Thôi được - Anatripsology. Malacostracology… Aneroidograph… - Term ag.
- Chao ôi, Kelly hết hồn - mấy thứ chữ nghĩa đó…
- Anh biết em không thích nghe nhắc làm gì, anh…
- Anh nghĩ bậy. Em thích chứ. Bởi vì anh cũng thích, Kelly nghĩ.
°°°
Buổi yến tiệc chiêu đãi tại khách sạn Prince de Galles được xem như là một sự kiện trọng đại. Bên trong gian phòng lớn chứa ba trăm thực khách có cả nhiều quan chức tai to mặt lớn. Một thượng khách ngồi ở dãy bàn phía trên gần bên Mark và Kelly là một nhân vật tư cách diện mạo sáng sủa.
- Tôi là Sam Meadows. - Ông tự giới thiệu với Kelly. - Tôi được nghe nói nhiều về bà.
- Tôi cũng được nghe nói nhiều về ngài, -Kelly đáp - Nhờ Mark tôi được biết ông là một người thầy và bạn thân thiết.
Sam Meadows tươi cười:
- Tôi rất vinh dự là bạn của Mark, một người có cá tính đặc biệt. Tôi được cộng tác với ông một thời gian dài. Một người chịu khó…
Mark, nghe nói chới với.
- Mời ông dùng rượu vang - anh nói xen vô.
Người dẫn chương trình đứng trên sân khấu, buổi phát biểu bắt đầu. Mark đã tiên liệu trước buổi tiệc hôm nay chẳng mấy thích thú cho Kelly. Các giải thưởng được phân phát, và Kelly nhìn thấy người nhận đang phát biểu bằng thứ tiếng Swahili. Chỉ cần nhìn thấy nét mặt Mark hớn hở Kelly hài lòng.
Nhìn quanh trên bàn đã được dọn dẹp tươm tất, vị Chủ tịch Viện khoa học Pháp đứng trên sân khấu, mở đầu bằng những lời khen ngợi thành tựu khoa học do nước Pháp đã đóng góp năm vừa qua, và không chờ đến lúc kết thúc buổi phát biểu, ông giơ cao bức tượng vàng xướng tên Mark Harris. Vừa nghe Kelly hiểu ngay Mark là cây đinh trong buổi tiệc tối hôm nay.
Ông tỏ ra khiêm nhường với nàng đề nghị nàng không nên tới đó, nàng nghĩ thầm nhìn Mark đang bước lên bục giữa tiếng vỗ tay của quan khách.
- Tôi không nghe ông ấy nói gì về chuyện nầy! - Kelly nói với Sam Meadows.
Meadows tủm tỉm cười:
- Mark là vậy. - Ông nhìn theo Kelly một lúc… - Bà biết là ông yêu bà tha thiết lắm không. Ông đòi cưới bà cho được. Ngưng một lúc Meadows nói tiếp. - Tôi nghĩ bà không làm cho ông thất vọng.
Nghe vậy, Kelly thấy chột dạ. Nàng không thể lấy Mark. Ông là một người bạn chân thành, nhưng nàng đã tính chuyện thương yêu gì đâu. Nàng đã làm gì? Nàng không muốn để ông thất vọng thà đừng gặp nhau nữa. Ta không thể thoả mãn được những gì cho một người đàn ông đang mong đợi. Nàng biết nói gì…
°°°
- Bà nghe thấy tôi nói gì chưa?
Diane quát vô bên tai khiến Kelly tỉnh cơn mê.
Gian phòng khiêu vũ rực rỡ tan theo giấc mộng, nhìn lại thấy mình nằm bên trong căn phòng tồi tàn ở khách sạn, bên cạnh một người bạn đồng hành không hẹn mà gặp.
- Gì vậy?
Diane hối hả:
- Tanner Kingsley sẽ cho người đến đón trong nửa giờ nữa.
- Bà nói thiệt. Vậy là…
- Không nghe ông ta hỏi thăm ta đang ở đâu.
- Ông ta tưởng là đang còn ở lại nhà cậu.
- Không, tôi đã báo cho ông ta bọn mình đi tìm nơi nương thân.
Hai người lặng thinh, chợt Kelly xì ra một tiếng thở dài!
- Ôi! Cả hai đưa mắt nhìn theo chiếc đồng hồ để ở đầu giường.
°°°
Người nhân viên tiếp tân ngước nhìn Flint bước vô khách sạn Mandarin Hotel.
- Ông cần gì ạ? - Nhìn thấy Flint nhếch mép cười gã lịch sự đáp lại.
- Vợ tôi đi cùng người bạn mới tới đây đăng ký ở lại. Vợ tôi người tóc vàng, còn người kia tóc đen. Ở phòng số mấy…
- Phòng số mười nhưng ông không thể lên đó. Ông cần gọi máy…
Flint chĩa khẩu súng ngắn Ruger nòng 45 gắn ống hãm thanh gí vô trước trán anh chàng nhân viên. Flint xô ngã người kia, nhào tới đi thẳng vô trong tay lăm le khẩu súng. Lên tới trên phòng số mười, hắn lùi lại lấy trớn nhào tới húc vai, cửa bật tung hắn bước vô trong.
Bên trong trống trơn, Flint nghe thấy tiếng vòi nước chảy trong buồng tắm cửa khoá. Hắn bước tới đẩy cửa ra. Vòi nước chảy xiết, tấm màn che thấy lay động.
Flint nhắm bắn bốn phát vô tấm màn, không nghe thấy gì hắn giơ tay kéo phăng qua một bên.
Không còn ai bên trong.
°°°
Bên trong quán ăn bên kia dãy phố, Diane và Kelly ngồi nhìn chiếc xe Flint vừa lái tới, hắn bước xuống đi vô trong.
- Lạy chúa, Kelly nói.
- Chính hắn đòi bắt tôi đi theo.
Hai người ngồi chờ xem. Flint bước trở ra xe sau ít phút, nụ cười trên môi, mặt mũi nhìn bặm trợn.
Kelly nhìn qua Diane:
- Ta thoát được một cửa ải. Giờ tính chạy đâu?
- Ta bỏ đây đi thôi - Đi đâu? Bọn chúng bủa vây khắp nơi, nhà, trạm xe buýt…
Diane ngẫm nghĩ một hồi.
- Tôi nhớ ra một nơi bọn chúng khó vô tới được - Để tôi nghĩ coi. Chỉ có ngồi trên phi thuyền bay.