Paris, Pháp
 
CUỘC ĐIỀU TRA VỤ TỰ TỨ TRÊN THÁP EIFFEL.
Cuộc thẩm vấn diễn ra tại sở Cảnh sát Reuilly trên phố Henard, Quận mười hai.
Hai thám tử André Belmondo và Pierre Marais mở đầu buổi hỏi cung người quản lý tháp Eiffel.
Thứ Hai, 6 tháng năm.
Thời gian 10 giờ sáng
Đối tượng: René Pascal.
Belmondo: ông Pascal, chúng tôi có đủ lý lẽ xác định là Mark Harris, nạn nhân được cho là té ngã từ trên đài quan sát tháp Eiffel đã bị giết chết.
Pascal: Bị giết chết? Mà sao… Tôi được nghe báo cáo là tai nạn do…
Marais: Làm sao chung quanh có bao lơn che chắn cao khỏi đầu người nạn nhân có thể té ngã xuống đất được?
Belmondo: Chúng tôi có đủ lý lẽ xác minh đây không phải là một vụ tự tử. Bởi ông ta đã chuẩn bị sắp xếp nghỉ cuối tuần với vợ, là Kelly một người mẫu.
Pascal: Tôi thật đau buồn, thưa quý ông, nhưng mà tôi chẳng hiểu… sao lại mời tôi đến đây.
Marais: Chúng tôi muốn làm sáng tỏ vụ việc buổi tối nhà hàng đóng cửa lúc mấy giờ?
- Pascal: Đúng mười giờ. Đêm đó có bão, nhà hàng vắng khách phải đóng cửa sớm…
Marais: Cầu thang máy ngừng chạy từ lúc nào?
Pascal: Thường chạy tới nửa đêm mới ngừng, đêm đó thấy không còn khách và người tham quan, tới mười giờ khoá máy.
Belmondo: Luôn cả thang máy chạy lên đài quan sát?
Pascal: Vâng. Tất cả thang máy đều khoá.
Marais: Vậy có thể đi cầu thang bộ từ dưới lên tới nơi được chứ.
Pascal: Không được. Tối đó mọi cửa đều khoá. Tôi không thể hiểu vì sao tai nạn xảy ra. Nếu…
Belmondo: Chuyện đó tôi sẽ nói ra đây. Nạn nhân Harris bị xô ngã từ trên cao xuống. Chúng tôi đã lên tới nơi xem xét hiện trường tại chỗ rào chắn nơi xảy ra tai nạn còn dấu xây xát, lớp cất ximăng bám dính vô dưới đế giầy nạn nhân Harris chính là lớp ximang bị bong tróc ngay tại chỗ rào chắn đài quan sát. Nếu cửa tầng dưới đã khoá, thang máy ngừng hoạt động nạn nhân không làm sao lên tới nơi ngay lúc nửa đêm?
Pascal: Tôi không biết. Không có cầu thang máy…thì làm sao… làm sao đi lên đó được.
Marais: Nhưng mà cầu thang máy còn hoạt động thì mới đưa ông Harris lên tới trên đài quan sát. Luôn cả thủ phạm… có thể vài ba tên… rồi bọn chúng quay trở xuống.
Belmondo: Ta có thể nghi cho kẻ lạ mặt cho chạy cầu thang máy.
Pascal: Không có chuyện đó. Người gác cầu thang máy thường trực tại phòng máy, buổi tối dùng khoá đặc biệt.
Marais: Có mấy chìa khoá tất cả?
Pascal: Có ba chìa. Tôi giữ một, hai chìa kia được cất giữ tại đây.
Belmondo: Ông xác định rõ cầu thang máy đóng cửa lúc mười giờ tối chứ?
Pascal: Vâng.
Marais: Ai chịu trách nhiệm tại chỗ?
Pascal: Toth. Gérard Toth.
Marais: Cho tôi gặp đương sự.
Pascal: Tôi cũng muốn gặp.
Marais: Ông muốn nói sao?
Pascal: Toth tối hôm đó không đi làm. Tôi đến nhà tìm, không nghe thấy ai lên tiếng, tôi hỏi thăm chủ nhà mới hay Toth đã dọn đi nơi khác.
Marais: Không để lại địa chỉ sao?
Pascal: Không. Hắn đã cuốn gói cao chạy xa bay từ lúc nào.
°°°
- Cao chạy xa bay? Có phải ta vừa nhớ lại nhà ảo thuật đại tài Houdini hay là một tên gác cầu thang quỷ quyệt?
Người vừa lên tiếng là ngài Tổng thư ký Renaud, chỉ huy Tổng hành dinh cơ quan Interpol. Ông nhỏ người tính năng động hoạt bát, tuổi trạc năm muơi có thâm niên hai mươi năm phục vụ trong ngành Cảnh sát Renaud ngồi chủ toạ phiên họp trong phòng họp lớn tại Tổng hành dinh bảy tầng lầu Trụ sở Cảnh sát quốc tế một nơi thanh lọc tất cả mọi nguồn tin cho 126 đơn vị cảnh sát thuộc bảy mươi tám nước: Trụ sở nằm trong khu phố St. Cloud, khoảng mười cây số về hướng tây Paris được điều hành do một lực lượng thám tử từng phục vụ trong Sở an ninh Pháp và Sở cảnh sát Paris.
Quanh bàn họp mười hai nhân viên đã có mặt đầy đủ. Cuộc thẩm vấn thám tử Belmondo vừa diễn ra trước một giờ.
Ngài tổng thư ký chua chát lên tiếng:
- Vậy là anh và thám tử Marais không thể thu thập được một manh mối nào vì sao nạn nhân bị giết chết tại một nơi khó có thể xâm nhập vô được, hơn nữa bọn sát thủ cũng khó mà len lỏi vô rồi thoát ra ngoài trót lọt hay sao? Các anh… báo cáo có vậy thôi sao?
- Tôi và Marais đã đối chứng với nhiều người…
- Thôi được. Anh có thể ra về!
- Thưa ngài, tuân lệnh!
Mọi người nhìn theo nhà thám tử vừa bị một trận te tua. Có người bảo;
- Thế đấy, đến anh ta cũng phải chịu thua.
Ngài tổng thư ký quay lại bàn họp:
- Trong lúc thẩm vấn, các anh có ai nghe nhắc… tới một nhân vật tên là Prima?
Mọi người chăm chú hồi lâu, rồi lắc đầu - không, Prima là nhân vật thế nào?
- Chúng ta chưa biết được. Cái tên được viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy còn sót lại trong túi áo jacket nạn nhân ở New York. Trong vụ nầy có liên quan tới một đầu mối, ngài thở ra.
- Các bạn, chúng ta đang gặp một việc nan giải, một bài toán còn ẩn số. Tôi đã phục vụ trong ngành mười lăm năm, từng điều tra nhiều vụ giết người hàng loạt, bọn tội phạm quốc tế, tội bạo hành, tội giết cha, và nhiều vụ có thể đoán ra được thủ phạm. -Ông dừng lại. - Trong từng ấy thời gian chưa lúc nào gạp một vụ như vừa qua. Tôi gởi một bản THÔNG BÁO đến cơ quan điều tra ở New York.
°°°
Manhattan New York.
Frank Bigley, chỉ huy một đơn vị thám tử ở Manhattan đang xem xét tờ trình của Tổng thư ký Renaud gởi tới vừa lúc hai thám tử Earl Greenburg và Robert Praegitzer bước vô.
- Thưa sếp cần gặp?
- Vâng, mời các anh ngồi.
Hai người kéo ghế ngồi.
Sếp Bigley, đưa ra một trang giấy.
- Đây là bản THÔNG BÁO sáng nay Interpol vừa gởi tới. Ông đọc to: "Cách nay sáu năm một nhà khoa học Nhật, Akira Iso đã treo cổ tự tử tại phòng riêng trong một khách sạn ở Tokyo. Cuộc điều tra cho thấy sức khoẻ ông Iso rất tốt, vừa được đề bạt lên một chức vụ cao hơn giữa lúc tinh thần phấn chấn".
- Ở bên Nhật? Nhưng mà có liên quan gì…
- Tôi đọc tiếp. "Cách đây ba năm, một nhà khoa học Thuỵ Sĩ, Madeleine Smith, ba mươi hai tuổi, tự tử bằng cách mở bình gaz tại nhà riêng ở Zurich. Bà đang mang thai và dự tính làm đám cưới với người cha đứa bé còn trong bụng. Nhân chứng -bạn bè cho biết bà chưa bao giờ được sung sướng như lúc ấy". Ông ngước nhìn hai nhân viên thám tử.
- Cách đây ba hôm một nhân vật ở thành phố Berlin tên là Sonja Vebrugge chết trong bồn tắm. Ngay trong đêm hôm đó, Mark Harris một người Mỹ té lộn nhào từ trên đài quan sát tháp Eiffel xuống đất. Ngày hôm sau một công dân Canada tên là Gary Reynolds chết trong một tai nạn máy bay đụng vô sườn núi ngoại ô thành phố Denver.
Greenburg và Praegitzer chăm chú nghe đọc, chưa hết bàng hoàng.
- Và mới hôm qua, các anh phát hiện xác chết nạn nhân Richard Stevens tấp vô bờ sông East River.
Earl Greenburg nhìn theo sếp, kinh ngạc.
- Mấy vụ đó liên quan gì đến chúng tôi?
Sếp Bigley lặng lẽ nói.
- Tất cả những cải chết được nhận dạng như nhau.
Greenburg nhìn sâu vô mắt ông:
- Sao? Để tôi nghĩ lại xem. Một người Nhật cách đây sáu năm, người Thuỵ sĩ ba năm, mới đây vài bữa một người Đức, người Canada và hai người Mỹ. - Gã ngồi lặng thinh một lúc. - Mấy vụ nầy có liên quan gì với nhau?
Sếp Bigley đưa qua Greenburg bản THÔNG BÁO của cơ quan Interpol. Greenburg vừa đọc tròn xoe mắt.
Gã ngước nhìn chậm rãi nói:
- Interpol nghi cho viện nghiên cứu Kingsley International đứng đằng sau mấy vụ nầy sao? Một trò cười.
Praegitzer lên tiếng:
- Thưa sếp, chúng tôi vừa nhắc tới tên tuổi một cơ quan nghiên cứu tầm cỡ thế giới.
- Tất cả nạn nhân là những người có liên quan cơ quan KIG, do Tanner Kingsley đứng đầu; Chủ tịch Uỷ ban khoa học của Tổng thống, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Uỷ ban chính sách quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc. Tôi muốn đề nghị cậu và Greenburg nên có một cuộc trao đổi với Kingsley.
- Vâng.
- Nầy Earl…
- Sếp bảo sao?
- Nên dè dặt và dò dẫm từng bước.
°°°
Năm phút sau, Earl Greenburg gặp thư ký Ric của Kingsley trên máy, gã quay qua Praegitzer
- Mười giờ sáng thứ ba ta tới điểm hẹn. Ngài Kingsley đang có mặt ra điều trần tại một Uỷ ban quốc hội ở Washington…
°°°
Washington, D.C
Tại buổi điều trần của Uỷ ban môi trường Thượng viện ở Washington, D.C, một hội đồng gồm sáu vị Thượng nghị sĩ và ba mươi quan khách tham dự một nhóm phóng viên lắng nghe Tanner Kingsley đọc bản điều trần.
Tanner Kingsley, trong độ tuổi bốn mươi, cao lớn điển trai, đôi mắt xanh sắc sảo, thông minh khuôn mặt với chiếc mũi dọc dừa, chiếc cằm cương nghị trông như hình tượng tạc in trên đồng tiền.
Chủ tịch Uỷ ban, Thượng nghị sĩ Pauline Mary Van Luven, nhân vật thể lực khoác một tư cách đầy vẻ tự tin. Bà nhìn qua Tanner dõng dạc lên tiếng mời ông Kingsley phát biểu.
Tanner gật:
- Cám ơn bà Thượng nghị sĩ. Ông quay qua phía các thành viên Uỷ ban mở đầu; với giọng nói sôi nổi.
- Trong khi một số các nhà hoạt đông chính trị của chúng ta loay hoay với những sự kiện trái đất ấm dần lên và hiện tượng hiệu ứng nhà kính, lỗ được chứ?
- Con Angel thuộc về tôi. Ông đem biếu cho tôi, phải không?
Mark dừng lại nghẹn họng.
- Ờ, nhưng mà em đã nói…
- Tôi muốn thoả thuận với ông, Harris. Tôi được giữ con chó Angel, còn ông có thể lui tới tự nhiên.
Nghĩ ngợi một lúc mặt mày sáng rỡ gã nói:
- Vậy là em vừa nói tôi có thể… em muốn cho tôi…
Kelly nói:
- Sao không gác lại chuyện đó để tối nay tính?
Nàng có ngờ đâu chính nàng đang là đích ngắm của bọn sát thủ.

Dịch giả : Trạch Thiên
Chương 25

Báo xuất bản buổi sáng loan cùng một cái tin như nhau. Một đợt hạn hán ở nước Đức làm thiệt mang gần một trăm người, thiệt hại mùa màng lên tới hàng triệu đô-la.
Tanner nhấn nút gọi Kathy.
- Gửi bài nầy tới văn phòng thượng nghị sĩ Van Luven, ghi chú thêm: "Báo cáo hiện tượng trái đất ấm dần lên. Trân trọng kính chào…"
Khách sạn Wilton Hotel dành riêng mấy bà khác xa khách sạn Mandarin. Một toà nhà năm tầng lộng lẫy xây theo lối hiện đại. Lối đi vô cổng có mái che màu xanh mát mẻ.
Tại bàn tiếp tân Kelly và Diane đứng chờ đăng ký khai tên giả. Người nữ tiếp viên quầy giao chìa khoá cho Kelly.
- Phòng 424. Bà có mang theo hành lý?
- Không, chúng tôi…
- Hành lý chúng tôi thất lạc. - Diane nói xen vô. - Chốc nữa chồng tôi đến đây đưa đi. Bà có thể cho ông lên trên phòng để…
Người nữ tiếp tân lắc đầu.
- Không thể được, nội quy không cho phép các ông lên phòng.
- Thì ra vậy? - Diane nhìn Kelly cười trừ.
- Bà muốn gặp các ông dưới nầy…
- Không sao. Nếu không gặp được đành chịu.
°°°
Phòng 424 được bố trí đẹp mắt, phòng khách bày một ghế sofa, bàn ghế đầy đủ, tủ đứng, buồng ngủ hai giường đôi.
Diane nhìn quanh:
- Đẹp quá nhỉ?
Kelly nói mỉa.
- Ta muốn đi tới đâu nữa mai được ghi vô sách kỷ lục Guinness… nửa tiếng đồng hồ một khách sạn?
- Bà có chương trình nào mới lạ hơn?
- Chả có gì, - Kelly khinh khỉnh nói - Khác nào trò đùa mèo vờn chuột, ta là lũ chuột.
- Kể cũng lạ, bọn người phục vụ cho cơ sở nghiên cứu khoa học hàng đầu thế giới bày trò săn đuổi đòi lấy mạng hai người, - Diane nói.
- Thôi, đừng nghĩ tới nữa.
- Nói dễ hơn làm. Đem mấy cái đầu ở cơ sở KIG ra làm món chả trứng phải to bằng một bang Kansas. Ờ ta nên nghĩ lại kỹ. - Kelly cau mày nói:
- Ta cần trang bị một món vũ khí, bà biết bắn không?
- Không.
- Khỉ thật. Tớ cũng chả biết.
- Không sao. Không cần súng.
- Bà có học võ Karaté?
- Không, nhưng mà có tham gia trổ tài tranh luận trong trường học. - Diane nghiêm giọng nói.
- Tôi có thể thuyết phục bọn chúng từ bỏ ý định giết người.
- Khá lắm.
Diane bước tới bên cửa sô nhìn dòng xe xuôi ngược trên phố. Bất chợt nàng trố mắt há hốc mồm. Kêu một tiếng:
- Chao ôi!
Kelly vội chạy tới:
- Sao vậy? Bà nhìn thấy ai?
Diane miệng mồm khô khốc:
- Một… một gã đàn ông vừa đi ngang qua, trông mặt mũi giống Richard. Ngay tức thì. Tôi… - Nàng quay mặt lại.
Kelly ra mặt bực bội:
- Bà chờ tôi tìm người trổ tài bắt ma quỷ giùm cho.
Diane toan buột miệng nói, nghĩ sao bỏ đi.
- Để được gì? Ta sẽ đi khỏi chỗ nầy thôi - nàng nghĩ.
Kelly đứng nhìn Diane, ngẫm nghĩ:
- Sao bà không chịu lấy cọ ra vẽ vời cho qua chuyện.
°°°
Flint liên lạc trên máy di động với Tanner khí sắc bừng bừng:
- Tha tội cho tôi, thưa ngài Kingsley. Bọn chúng vừa bỏ đi khỏi khách sạn Mandarin. Bọn chúng đã biết trước?
Tanner giận xanh mặt.
- Hai con quỷ cái muốn chơi xỏ ta một vố đây? Chơi ta à? Ta ra lệnh cho cậu quay về. - Ông đập máy xuống bàn.
°°°
Andrew nằm nghỉ trên chiếc ghế sofa trong văn phòng, tâm trí hướng về bục sân khấu tại nhà hát lớn Stockholm. Quan khách vỗ tay chúc mừng.
- Andrew! Andrew!
Quan khách đồng thanh hô to, âm vang tiếng gọi dội lại khắp nhà hát. Bước chân lên bục tai còn nghe tiếng vỗ tay như sấm lúc nhận giải thưởng từ tay nhà vua Thuỵ Điển Carl XVI Gustav.
Lúc giơ tay ra nhận giải Nobel, ông nghe một tiếng chửi đổng.
- Andrew, quân khốn kiếp… lại đến đây.
Hình ảnh nhà hát lớn Stoekholm mờ nhạt dần, Andrew đang ở trong văn phòng nghe Tanner gọi tên.
Hắn đang cần nhờ ta, Andrew thích thú nghĩ.
Ông ngồi dậy bước qua bên văn phòng người em trai.
- Có tôi đây! - Andrew lên tiếng.
- Vâng, nghe rồi. - Tanner quát - Ngồi xuống đó.
Andrew kéo ghế ngồi.
- Tôi có mấy điều muốn nói lại cho anh. Chia rẽ để chinh phục. - Gã lên mặt vênh váo.
- Tôi biết là Diane Stevens nghi cho mafia giết chồng bà, và Kelly Harris đang còn phân vân liệu có một nàng tên là Olga. Anh nghe rõ chưa?
Andrew hờ hững đáp.
- Ứ.
Tanner bước tới vỗ vai người anh.
- Anh là người có tài nghĩ ra sáng kiến. Tôi có mấy việc trước giờ chưa nói ra với ai. Tôi muốn nói ra hết bởi anh quá ngốc nghếch chả hiểu gì.
Ông nhìn sâu vô hai mắt Andrew lờ đờ.
- Không nghe, không biết, không nói.
Tanner đổi ra giọng nghiêm trọng:
- Chúng ta còn một việc cần giải quyết. Hai người đàn bà mất tích. Bọn chúng biết ta đang truy đuổi, đòi mạng, nên tìm mọi cách lẩn trốn. Chạy đi đâu hở Andrew?
Andrew ngồi nhìn người em trai.
- Tôi… Tôi chả biết gì.
Có hai cách để lý giải. Một là dựa theo phương pháp Descartes, đúng lôgíc, từng bước một. Ta thử tìm cho ra lẽ.
Andrew lờ đờ nhìn lại nói:
- Dù cậu có nói thế nào…
Tanner lê bước lui tới:
- Bọn chúng lo sợ cho tính mạng nên không dám trở lại căn hộ nơi Stevens ở… ta cho bao vây bên ngoài. Kelly Harris không có ai thân thiết ở Mỹ, cô ta sống ở Paris bao lâu nay không dám tin cậy vô ai lo cho mình. - Ông nhìn người anh - Anh có chịu theo tôi không?
Andrew chớp chớp mắt:
- Ờ, có, Tanner.
- Nghe đây. Liệu Diane phải nhờ cậy bạn bè giúp đỡ? Tôi không cho vậy đâu, chẳng khác nào leo lên lưng cọp. Có thể bọn chúng đã tới cảnh sát khai báo, làm vậy mấy tay mật thám họ cười cho. Vậy thì bọn chúng sẽ nghĩ mưu tính kế nào đây. - Ông nhắm mắt lại nghĩ ngợi một lúc mới nói ra - tất nhiên bọn chúng phải nhớ ra mấy chỗ sân bay, nhà ga, bến xe buýt, ở mọi nơi ta đều cho tai mắt theo dõi. Ta còn nhớ chỗ nào nữa?
- Tôi… Tôi… cậu muốn cho thế nào cũng được, Tanner.
- Bọn chúng chỉ còn một nơi ẩn náu trong khách sạn thôi, Andrew. Một nơi an toàn. Khách sạn cỡ nào mới được? Bọn chúng đang tìm đường thoát thân. Trong cơn lao đao vì số phận. Cho nên không kể là khách sạn hạng nào, mọi nơi đều có quan hệ với tổ chức của chúng ta, không khéo sẽ bị lộ tẩy. Không nơi nào được cho là an toàn. Cậu còn nhớ vụ Sonja Verbrugge ở Berlin? Ta tìm ra tung tích nhờ theo dõi tin nhắn trên Internet.
Nàng tìm trọ khách sạn Artemisia Hotel dành riêng cho mấy bà tưởng đâu là an toàn. Đấy, tôi vừa nghĩ tới chuyện hai con quỷ cái Stevens và Harris sẽ làm theo y như vậy. Ta còn nghĩ ra được điểm nào khác hơn?
Ông nhìn qua người anh trai. Andrew hai mắt nhắm lại. Ông vừa chợp mắt buồn ngủ. Trong cơn tức giận Tanner nhào tới tát vô mặt một cái.
Andrew giật nẩy mình:
- Cái gì vậy…?
- Tôi nói anh phải lắng nghe chứ, đồ ngu.
- Tôi… xin lỗi Tanner. Tôi mới vừa…
Tanner chỉ tay về phía dàn máy tính.
- Nhìn đây, ta sẽ theo dõi có bao nhiêu khách sạn dành cho mấy bà ở Manhattan.
Tanner lướt nhanh trên internet cho in ra mấy bản. Ông đọc to lên:
- Khách sạn El Carmelo Centro Mana. Parkside Evangeline, Wilton Hotel dành cho mấy bà. Ông ngước nhìn lên mật mày hớn hở.
- Ta suy đoán theo lôgíc của phương pháp Descartes bọn chúng phải ở lại đó, Andrew. Nào ta xem thử dựa vô công nghệ nào giúp ta tìm ra được.
Tanner bước tới chỗ treo bức tranh trên tường phía sau nhấn nút, một mảng tường nhích qua một bên màn hình vô tuyến hiện ra tấm bản đồ thành phố Manhattan.
- Anh nhìn vô đây nhớ ra chứ, Andrew. Anh biết sử dụng và thành thạo hơn nữa kia. Đây là hệ thống định vị toàn cầu. Nhờ vậy ta có thể xác định vị trí từng người hiện có mặt trên hành tinh nầy. Anh nhớ ra chứ?
Andrew gật, cố giữ tỉnh táo.
- Lúc mấy bà vừa rời khỏi đây, tôi đưa cho mỗi người một tấm danh thiếp. Trong có gài một con bọ chip máy tính nhỏ xíu bằng một hạt cát. Nó thu và phát tín hiệu vệ tinh, khi mở máy định vị ta sẽ xác định vị trí hai người đó đang ở chỗ nào? Anh hiểu chứ?
Andrew nói:
- À, Tôi… tôi hiểu, Tanner.
Tanner nhìn lại trên màn hình, nhấn thêm một nút khác. Một chấm sáng vừa lóe lên trên bản đồ chỉ xuống vạch bên dưới, dừng lại một khu vực khoanh vùng nhỏ xíu, lan rộng ra xa hơn. Một chấm màu đỏ chạy dài theo vạch tên đường phố chiếu sáng tên bảng hiệu từng nơi.
Tanner giơ tay chỉ lên.
- Đây là phố West Four- teenth Street. Chấm sáng màu đỏ lần theo tới phía trước - Nhà hàng Tequila nhà thuốc tây… Bệnh viện Saint Vincent… Banana Republic.: nhà thờ Đức Bà Guadalupe. Đèn tín hiệu dừng lại, chợt thấy mặt mũi Tanner hớn hở nói.
- Và đây là khách sạn Wilton Hotel dành cho mấy bà. Lối suy đoán của tôi hoàn toàn hợp logíc Tôi đoán đúng, anh thấy chưa?
Andrew liếm môi:
- À, cậu đoán đúng…
Tanner nhìn lại:
- Anh đi được rồi đó!
Gã móc điện thoại di động ra bấm máy:
- Nầy Flint, bọn chúng đang ở tại khách sạn Wilton Hotel, phố West Thirty - Fourth Street. Gã tắt máy. Vừa ngước mắt gã nhìn thấy Andrew còn đứng trước cửa.
- Sao anh lại đứng đó? Tanner bồn chồn hỏi:
- Liệu tôi có thể đi ngay… cậu biết chứ… qua Thuỵ Điển, để nhận giải Nobel?
- Làm sao được, Andrew. Chuyện đó đã qua bảy năm nay.
- À vậy đó! - Andrew bỏ đi về chỗ văn phòng.
Tanner ngồi vô bàn nhớ lại chuyện bảy năm trước.
Trong một chuyến đi qua Thuỵ Sĩ cách nay ba năm. Do một cú điện thoại gọi tới…
°°°
Gã đang tính toán nát óc giải đáp cho ra một vụ sai sót trong tiếp liệu chợt nghe máy nội bộ reo.
- Ở bên Zurich gọi cho ông, Kingsley.
- Tôi bận việc quá… không sao. Để tôi gặp nói chuyện với họ. Gã nhấc máy - Alô, Tanlier vừa lắng nghe mặt mũi sa sầm. Gã nhọc nhằn nói. - Tôi hiểu… bà nói thiệt tình chứ?… Ô, không sao, tôi lo được.
Gã nhấn máy nội bộ:
- Cô Ordonez, dặn phi công chuẩn bị chiếc Challenger. Tôi sẽ qua Zurich, đi hai người.
°°°
Madeleine Smith đang ngồi chờ bên trong một nhà hàng thuộc hạng cao cấp ở Zurich. Nàng độ tuổi ba mươi, khuôn mặt trái xoan, tóc cắt ngắn nước da trắng trẻo. Nàng đang có thai. Tanner bước về phía bàn, Madeleine Smith nhìn thấy liền đứng lên.
Tanner Kingsley chìa tay ra;
- Mời bà ngồi tự nhiên.
Gã ngồi xuống nhìn qua.
- Rất hân hạnh gặp ông! - Bà nói giọng Thuỵ Sĩ nghe êm tai. Mới nghe qua lần đầu tôi ngỡ đùa.
- Sao?
- Vâng, là một nhân vật quan trọng như ông lặn lội qua đây để gặp tôi, thật tôi khống dám mơ.
Tanner nhếch mép cười.
- Chuyến đi tôi sắp kể ra đây. Bởi tôi được nghe nói bà là một nhà khoa học nổi tiếng, Madeleine. Tôi có thể gọi thân mật là Madeleine được chứ?
- Ồ không sao, ngài Kingsley.
- Ở cơ sở KIG chúng tôi kính trọng nhân tài. Bà có thể về giúp cho chúng tôi, Madeleine. Bà làm việc cho Tập đoàn Công nghệ Tokyo được bao lâu?
- Bảy năm.
- À bảy là con số may mắn, tôi muốn đề nghị bà vô một chức vụ tại cơ sở KIG với mức lương gấp đôi hiện tại, được bố trí nhà ở riêng…
- Chao ôi, thưa ngài Kingsley! - Bà mỉm cười.
- Bà thích không, Madeleine?
- À tôi thích lắm? Nhưng mà lúc nầy thì chưa thể được!
Tanner mặt mày biến sắc.
- Bà nói sao?
- Vâng, tôi sắp có chồng và đang có thai…
Tanner cười mỉm:
- Có sao đâu, chuyện đó chúng tôi có thể giải quyết được.
Madeleine Smith nói:
- Còn một lý do tôi không thể bỏ đi được. Tôi đang thực hiện một dự án trong phòng thí nghiệm, sắp đến công đoạn cuối cùng.
- Madeleine, cái dự án bà vừa nêu tôi không thấy có gì đáng nói. Tôi mong bà chấp nhận lời đề nghị. Nói đúng ra tôi có thể sắp xếp đưa bà và vị hôn phu cùng đi. - Gã nhếch mép cười. - Cho phép tôi được gọi là chồng chưa cưới… qua Mỹ cùng một chuyến bay với tôi.
- Ông có thể đợi hoàn thành xong dự án tôi sẽ đi. Sáu tháng, cũng có khỉ một năm.
Tanner không nói gì:
- Bà nói thiệt lúc nầy chưa thể bỏ đi được sao?
- Không phải vậy. Bởi tôi phụ trách chủ trì dự án đang làm nửa chừng, bỏ đi làm sao được? Bà chợt nảy ra một ý. - Qua năm tới ông thấy sao…?
Tanner cười mỉm:
- Được quá.
- Xin lỗi cũng vì tôi mà chuyến đi nầy ông phải về không.
Tanner thân mật nói:
- Không phải là uổng công đâu! Tôi muốn qua đây là để gặp bà cho biết.
Bà ngượng đỏ mặt;
- Ông thiệt là tử tế.
- Nhân tiện đây, tôi mang cho bà một món quà.
- Chiều nay lúc sáu giờ tôi có nhờ người mang quà tới. Tên anh ta là Harry Flint.
Sáng hôm sau, xác chết của Madeleine Smith được phát hiện dưới sàn nhà. Bếp gas không khoá, bên trong căn hộ mùi khí đốt lan toả khắp nơi.
°°°
Tanner vừa mới hoàn hồn trở lại. Quá thật Flint đã không làm cho ông thất vọng. Đến lượt Diane Stevens và Kelly Harris sẽ đền tội, phải diệt bọn chúng thì kế hoạch mới tiến lên được.