Paris, Pháp
 
CUỘC ĐIỀU TRA VỤ TỰ TỨ TRÊN THÁP EIFFEL.
Cuộc thẩm vấn diễn ra tại sở Cảnh sát Reuilly trên phố Henard, Quận mười hai.
Hai thám tử André Belmondo và Pierre Marais mở đầu buổi hỏi cung người quản lý tháp Eiffel.
Thứ Hai, 6 tháng năm.
Thời gian 10 giờ sáng
Đối tượng: René Pascal.
Belmondo: ông Pascal, chúng tôi có đủ lý lẽ xác định là Mark Harris, nạn nhân được cho là té ngã từ trên đài quan sát tháp Eiffel đã bị giết chết.
Pascal: Bị giết chết? Mà sao… Tôi được nghe báo cáo là tai nạn do…
Marais: Làm sao chung quanh có bao lơn che chắn cao khỏi đầu người nạn nhân có thể té ngã xuống đất được?
Belmondo: Chúng tôi có đủ lý lẽ xác minh đây không phải là một vụ tự tử. Bởi ông ta đã chuẩn bị sắp xếp nghỉ cuối tuần với vợ, là Kelly một người mẫu.
Pascal: Tôi thật đau buồn, thưa quý ông, nhưng mà tôi chẳng hiểu… sao lại mời tôi đến đây.
Marais: Chúng tôi muốn làm sáng tỏ vụ việc buổi tối nhà hàng đóng cửa lúc mấy giờ?
- Pascal: Đúng mười giờ. Đêm đó có bão, nhà hàng vắng khách phải đóng cửa sớm…
Marais: Cầu thang máy ngừng chạy từ lúc nào?
Pascal: Thường chạy tới nửa đêm mới ngừng, đêm đó thấy không còn khách và người tham quan, tới mười giờ khoá máy.
Belmondo: Luôn cả thang máy chạy lên đài quan sát?
Pascal: Vâng. Tất cả thang máy đều khoá.
Marais: Vậy có thể đi cầu thang bộ từ dưới lên tới nơi được chứ.
Pascal: Không được. Tối đó mọi cửa đều khoá. Tôi không thể hiểu vì sao tai nạn xảy ra. Nếu…
Belmondo: Chuyện đó tôi sẽ nói ra đây. Nạn nhân Harris bị xô ngã từ trên cao xuống. Chúng tôi đã lên tới nơi xem xét hiện trường tại chỗ rào chắn nơi xảy ra tai nạn còn dấu xây xát, lớp cất ximăng bám dính vô dưới đế giầy nạn nhân Harris chính là lớp ximang bị bong tróc ngay tại chỗ rào chắn đài quan sát. Nếu cửa tầng dưới đã khoá, thang máy ngừng hoạt động nạn nhân không làm sao lên tới nơi ngay lúc nửa đêm?
Pascal: Tôi không biết. Không có cầu thang máy…thì làm sao… làm sao đi lên đó được.
Marais: Nhưng mà cầu thang máy còn hoạt động thì mới đưa ông Harris lên tới trên đài quan sát. Luôn cả thủ phạm… có thể vài ba tên… rồi bọn chúng quay trở xuống.
Belmondo: Ta có thể nghi cho kẻ lạ mặt cho chạy cầu thang máy.
Pascal: Không có chuyện đó. Người gác cầu thang máy thường trực tại phòng máy, buổi tối dùng khoá đặc biệt.
Marais: Có mấy chìa khoá tất cả?
Pascal: Có ba chìa. Tôi giữ một, hai chìa kia được cất giữ tại đây.
Belmondo: Ông xác định rõ cầu thang máy đóng cửa lúc mười giờ tối chứ?
Pascal: Vâng.
Marais: Ai chịu trách nhiệm tại chỗ?
Pascal: Toth. Gérard Toth.
Marais: Cho tôi gặp đương sự.
Pascal: Tôi cũng muốn gặp.
Marais: Ông muốn nói sao?
Pascal: Toth tối hôm đó không đi làm. Tôi đến nhà tìm, không nghe thấy ai lên tiếng, tôi hỏi thăm chủ nhà mới hay Toth đã dọn đi nơi khác.
Marais: Không để lại địa chỉ sao?
Pascal: Không. Hắn đã cuốn gói cao chạy xa bay từ lúc nào.
°°°
- Cao chạy xa bay? Có phải ta vừa nhớ lại nhà ảo thuật đại tài Houdini hay là một tên gác cầu thang quỷ quyệt?
Người vừa lên tiếng là ngài Tổng thư ký Renaud, chỉ huy Tổng hành dinh cơ quan Interpol. Ông nhỏ người tính năng động hoạt bát, tuổi trạc năm muơi có thâm niên hai mươi năm phục vụ trong ngành Cảnh sát Renaud ngồi chủ toạ phiên họp trong phòng họp lớn tại Tổng hành dinh bảy tầng lầu Trụ sở Cảnh sát quốc tế một nơi thanh lọc tất cả mọi nguồn tin cho 126 đơn vị cảnh sát thuộc bảy mươi tám nước: Trụ sở nằm trong khu phố St. Cloud, khoảng mười cây số về hướng tây Paris được điều hành do một lực lượng thám tử từng phục vụ trong Sở an ninh Pháp và Sở cảnh sát Paris.
Quanh bàn họp mười hai nhân viên đã có mặt đầy đủ. Cuộc thẩm vấn thám tử Belmondo vừa diễn ra trước một giờ.
Ngài tổng thư ký chua chát lên tiếng:
- Vậy là anh và thám tử Marais không thể thu thập được một manh mối nào vì sao nạn nhân bị giết chết tại một nơi khó có thể xâm nhập vô được, hơn nữa bọn sát thủ cũng khó mà len lỏi vô rồi thoát ra ngoài trót lọt hay sao? Các anh… báo cáo có vậy thôi sao?
- Tôi và Marais đã đối chứng với nhiều người…
- Thôi được. Anh có thể ra về!
- Thưa ngài, tuân lệnh!
Mọi người nhìn theo nhà thám tử vừa bị một trận te tua. Có người bảo;
- Thế đấy, đến anh ta cũng phải chịu thua.
Ngài tổng thư ký quay lại bàn họp:
- Trong lúc thẩm vấn, các anh có ai nghe nhắc… tới một nhân vật tên là Prima?
Mọi người chăm chú hồi lâu, rồi lắc đầu - không, Prima là nhân vật thế nào?
- Chúng ta chưa biết được. Cái tên được viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy còn sót lại trong túi áo jacket nạn nhân ở New York. Trong vụ nầy có liên quan tới một đầu mối, ngài thở ra.
- Các bạn, chúng ta đang gặp một việc nan giải, một bài toán còn ẩn số. Tôi đã phục vụ trong ngành mười lăm năm, từng điều tra nhiều vụ giết người hàng loạt, bọn tội phạm quốc tế, tội bạo hành, tội giết cha, và nhiều vụ có thể đoán ra được thủ phạm. -Ông dừng lại. - Trong từng ấy thời gian chưa lúc nào gạp một vụ như vừa qua. Tôi gởi một bản THÔNG BÁO đến cơ quan điều tra ở New York.
°°°
Manhattan New York.
Frank Bigley, chỉ huy một đơn vị thám tử ở Manhattan đang xem xét tờ trình của Tổng thư ký Renaud gởi tới vừa lúc hai thám tử Earl Greenburg và Robert Praegitzer bước vô.
- Thưa sếp cần gặp?
- Vâng, mời các anh ngồi.
Hai người kéo ghế ngồi.
Sếp Bigley, đưa ra một trang giấy.
- Đây là bản THÔNG BÁO sáng nay Interpol vừa gởi tới. Ông đọc to: "Cách nay sáu năm một nhà khoa học Nhật, Akira Iso đã treo cổ tự tử tại phòng riêng trong một khách sạn ở Tokyo. Cuộc điều tra cho thấy sức khoẻ ông Iso rất tốt, vừa được đề bạt lên một chức vụ cao hơn giữa lúc tinh thần phấn chấn".
- Ở bên Nhật? Nhưng mà có liên quan gì…
- Tôi đọc tiếp. "Cách đây ba năm, một nhà khoa học Thuỵ Sĩ, Madeleine Smith, ba mươi hai tuổi, tự tử bằng cách mở bình gaz tại nhà riêng ở Zurich. Bà đang mang thai và dự tính làm đám cưới với người cha đứa bé còn trong bụng. Nhân chứng -bạn bè cho biết bà chưa bao giờ được sung sướng như lúc ấy". Ông ngước nhìn hai nhân viên thám tử.
- Cách đây ba hôm một nhân vật ở thành phố Berlin tên là Sonja Vebrugge chết trong bồn tắm. Ngay trong đêm hôm đó, Mark Harris một người Mỹ té lộn nhào từ trên đài quan sát tháp Eiffel xuống đất. Ngày hôm sau một công dân Canada tên là Gary Reynolds chết trong một tai nạn máy bay đụng vô sườn núi ngoại ô thành phố Denver.
Greenburg và Praegitzer chăm chú nghe đọc, chưa hết bàng hoàng.
- Và mới hôm qua, các anh phát hiện xác chết nạn nhân Richard Stevens tấp vô bờ sông East River.
Earl Greenburg nhìn theo sếp, kinh ngạc.
- Mấy vụ đó liên quan gì đến chúng tôi?
Sếp Bigley lặng lẽ nói.
- Tất cả những cải chết được nhận dạng như nhau.
Greenburg nhìn sâu vô mắt ông:
- Sao? Để tôi nghĩ lại xem. Một người Nhật cách đây sáu năm, người Thuỵ sĩ ba năm, mới đây vài bữa một người Đức, người Canada và hai người Mỹ. - Gã ngồi lặng thinh một lúc. - Mấy vụ nầy có liên quan gì với nhau?
Sếp Bigley đưa qua Greenburg bản THÔNG BÁO của cơ quan Interpol. Greenburg vừa đọc tròn xoe mắt.
Gã ngước nhìn chậm rãi nói:
- Interpol nghi cho viện nghiên cứu Kingsley International đứng đằng sau mấy vụ nầy sao? Một trò cười.
Praegitzer lên tiếng:
- Thưa sếp, chúng tôi vừa nhắc tới tên tuổi một cơ quan nghiên cứu tầm cỡ thế giới.
- Tất cả nạn nhân là những người có liên quan cơ quan KIG, do Tanner Kingsley đứng đầu; Chủ tịch Uỷ ban khoa học của Tổng thống, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Uỷ ban chính sách quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc. Tôi muốn đề nghị cậu và Greenburg nên có một cuộc trao đổi với Kingsley.
- Vâng.
- Nầy Earl…
- Sếp bảo sao?
- Nên dè dặt và dò dẫm từng bước.
°°°
Năm phút sau, Earl Greenburg gặp thư ký Ric của Kingsley trên máy, gã quay qua Praegitzer
- Mười giờ sáng thứ ba ta tới điểm hẹn. Ngài Kingsley đang có mặt ra điều trần tại một Uỷ ban quốc hội ở Washington…
°°°
Washington, D.C
Tại buổi điều trần của Uỷ ban môi trường Thượng viện ở Washington, D.C, một hội đồng gồm sáu vị Thượng nghị sĩ và ba mươi quan khách tham dự một nhóm phóng viên lắng nghe Tanner Kingsley đọc bản điều trần.
Tanner Kingsley, trong độ tuổi bốn mươi, cao lớn điển trai, đôi mắt xanh sắc sảo, thông minh khuôn mặt với chiếc mũi dọc dừa, chiếc cằm cương nghị trông như hình tượng tạc in trên đồng tiền.
Chủ tịch Uỷ ban, Thượng nghị sĩ Pauline Mary Van Luven, nhân vật thể lực khoác một tư cách đầy vẻ tự tin. Bà nhìn qua Tanner dõng dạc lên tiếng mời ông Kingsley phát biểu.
Tanner gật:
- Cám ơn bà Thượng nghị sĩ. Ông quay qua phía các thành viên Uỷ ban mở đầu; với giọng nói sôi nổi.
- Trong khi một số các nhà hoạt đông chính trị của chúng ta loay hoay với những sự kiện trái đất ấm dần lên và hiện tượng hiệu ứng nhà kính, lỗ được chứ?
- Con Angel thuộc về tôi. Ông đem biếu cho tôi, phải không?
Mark dừng lại nghẹn họng.
- Ờ, nhưng mà em đã nói…
- Tôi muốn thoả thuận với ông, Harris. Tôi được giữ con chó Angel, còn ông có thể lui tới tự nhiên.
Nghĩ ngợi một lúc mặt mày sáng rỡ gã nói:
- Vậy là em vừa nói tôi có thể… em muốn cho tôi…
Kelly nói:
- Sao không gác lại chuyện đó để tối nay tính?
Nàng có ngờ đâu chính nàng đang là đích ngắm của bọn sát thủ.

Dịch giả : Trạch Thiên
Chương 29

Kathy Ordonez bước vô văn phòng Tanner Kingsley trên tay cầm xấp báo xuất bản buổi sáng:
- Lại có tin đồn tổn thất nữa. Nàng đưa cho gã xấp báo. Hàng tít lớn trên trang báo: Sương mù gây xáo trộn các thành phố lớn ở Đức; tất cả sân bay đóng cửa; sự tổn thất về người tăng cao.
Kathy lên tiếng.
- Có nên gởi cho Thượng Nghị sĩ Van Luven một bản?
- Có Gửi ngay đi. - Tanner nghiêm giọng nói.
Kathy vội bước trở ra.
Tanner liếc nhìn đồng hồ đeo tay nhếch mép cười, nghĩ ra ngay: Quả bom sắp tới giờ phát nổ. Hai con quỷ cái phải chịu đền tội.
Người thư ký nhắn vô máy nội bộ;
- Thưa ông Kingsley, Thượng Nghị sĩ Van Luven đang giữ máy. Ông muốn gặp không?
- Có. - Tanner nhấc máy. - Tanner Kingsley tôi nghe.
- Ô, ông Kingsley. Thượng nghị sĩ Van Luven đây.
- Chào bà!
- Tôi và các trợ lý vừa có dịp đi qua đây nếu ngài thấy không có gì trở ngại tôi có thể đến thăm tại nơi làm việc được chứ?
- Được! - Tanner vui mừng đáp.
- Tốt. Chúng tôi đến nơi ngay.
Tanner nhấn nút gọi.
- Tôi đang bận tiếp khách yêu cầu ngưng tất cả các cuộc gọi tới.
Chợt gã nhớ ra cách nay mấy tuần tin cáo phó đăng trên báo chồng bà Thượng nghị sĩ là ngài Edmon Barclay mới qua đời vì bệnh tim. Ta sẽ nói lời chia buồn với bà.
°°°
Mười lăm phút sau, Thượng nghị sĩ Van Luven cùng với hai trợ lý xinh đẹp đã tới nơi.
Tanner đứng lên đón chào:
- Rất hân hạnh được đón tiếp.
Thượng nghị sĩ Van Luven gật:
- Đây là hai trợ lý, Corinne Murphy và Karolee Trost!
Tanner tươi cười;
- Vâng, rất hân hạnh được gặp lại cả hai. - Gã quay qua bà Thượng nghị sĩ - Tôi được tin chồng bà vừa qua đời, tôi xin thành thật chia buồn.
Thượng nghị sĩ Van Luven gật.
- Cám ơn ông. Ông ấy lâm bệnh nặng đã lâu, mới cách nay mấy tuần…
Bà gượng cười.
- Tôi muốn nói là thông tin về trái đất ấm dần lên tôi vừa mới nhận được đáng lưu ý hơn nữa.
- Cám ơn bà!
- Ông có thể cho biết các hoạt động hiện nay ra sao?
- Vâng. Bà muốn được tận mắt nhìn thấy các hoạt động trong bao lâu? Chúng tôi đã có sẵn chương trình tham quan trong năm ngày hoặc bốn ngày hoặc có thể là một tiếng rưỡi đồng hồ.
Corinne Murphy chợt cười.
- Một cuộc tham quan năm ngày thì hay hơn…
Van Luven chặn ngang.
- Chúng tôi muốn đi vòng xem chừng một tiếng rưỡi đồng hồ.
- Rất hân hạnh - Tại cơ sở KIG có bao nhiêu nhân viên cả thảy? - Van Luven hỏi.
- Có khoảng 2.000 nhân viên. Cơ sở KIG đặt văn phòng tại hơn một chục nước trên thế giới.
Corinne Murphy và Karolee Trost nghe thấy khâm phục.
- Nội trong toà nhà nầy có 500 nhân viên đang làm việc, được phân ra hai khu vực hành chính và nghiên cứu. Các nhà khoa học làm việc tại đây đã được thử trắc nghiệm chỉ số thông minh tối thiểu là 160.
Corinne Murphy thốt một tiếng:
- Tại đây có lắm nhân tài!
Van Luven có vẻ khó chịu.
- Quý vị bước qua đây, - Tanner nói.
Bà Van Luven cùng hai trợ lý Murphy và Trost bước theo Tanner qua lối cửa hông tới một toà nhà bên cạnh. Nơi đây được bố trí một dàn máy móc kỹ thuật tân kỳ lạ mắt.
Van Luven bước tới bên một cỗ máy trông lạ mắt lên tiếng hỏi:
- Máy nầy dùng làm gì?
- Đây là máy quang phổ ký, thưa bà nghị sĩ. Máy sẽ chuyển tiếng nói thành những ký tự. Máy có thể phân biệt được hàng ngàn giọng nói khác nhau.
Trost cau mày hỏi:
- Làm sao nhận ra được?
Nó hoạt động như thế nầy. Khi nhấc điện thoại lên nghe một người bạn gọi tới ta nhận ra ngay giọng nói quen thuộc như từ lâu đã in vô trong đầu. Chúng tôi cho máy hoạt động dựa theo quy trình đó. Bộ phận lọc tiếng cho phép hoạt động trên một dải tần số nhất định đài truyền vô máy thu băng để phân biệt giọng nói riêng từng người.
Cuộc tham quan kết thúc tại một nơi trưng bày máy móc khổng lồ, những dàn kính hiển vi cực nhỏ, phòng thí nghiệm hoá chất được phân chia ra nhiều đơn vị mỗi nơi trang bị một bản đen ghi lại nhiều ký hiệu bí mật là nơi làm việc của hơn một chục nhà khoa học, có những chỗ làm việc chỉ trơ trọi một nhà khoa học cặm cụi tìm cách giải một phương trình bí ẩn.
Tới một toà nhà tường xây gạch đơn sơ bên ngoài khoá hai lần khoá.
Van Luven hỏi:
- Trong nầy là gì?
- Đây là bộ phận nghiên cứu cấp nhà nước. Chúng tôi rất tiếc không tiếp đón khách tham quan.
°°°
Thời gian tham quan được hai tiếng. Lúc vừa kết thúc, Tanner đưa đoàn tham quan trở về lại văn phòng.
- Mong quý vị hài lòng về chuyến đi nầy. - Tanner nói.
- Một chuyến đi thú vị - Van Luven đáp.
- Thật là thú vị, - Corinne Murphy tươi cười, liếc nhìn qua Tanner.
- Tôi thích lắm, Karolee Trost nói.
Tanner quay qua Van Luven:
- Vậy thì đã đến lúc bà có thể thảo luận với mấy vị đồng nghiệp về hiện tượng trái đất ấm dần lên được chứ?
Bà Thượng nghị sĩ chỉ nói lấp lửng:
- Vâng.
- Bà có thể cho biết lúc nào thuận lợi nhất.
- Không phải chỉ là chuyện ước đoán, ông Kingsley. Cần phải dành nhiều thời gian thảo luận, tôi sẽ báo ông biết sau.
Tanner gượng cười.
- Cám ơn, cám ơn bà đã quá bước đến thăm.
Gã đứng nhìn mọi người ra về.
Cánh cửa vừa khép lại, Kathy Ordonez nhắn trên máy nội bộ;
- Ông Kingsley, bà Saida Hernandez đang muốn được gặp. Việc khẩn nhưng mà ông đã dặn ngưng các cuộc gọi.
- Cho tôi nói chuyện ngay đi, - Tanner nói.
Saida Hernandez là tay sai gã ra lệnh tới chỗ khách sạn Adams để gài bom.
- Máy số một.
Tanner nhấc máy, đinh ninh là tin vui
- Mọi chuyện ổn cả chứ, Saida?
- Dạ không, ông tha tội cho tôi, ông Kingsley.
Ông nghe thấy được nỗi sợ hãi trong giọng nói người bên kia.
- Bọn chúng đã bỏ đi.
Tanner lặng người đi một lúc:
- Bọn chúng làm sao?
- Thưa ông bọn chúng đã ra đi trước giờ bom nổ. Nhân viên bảo vệ nhìn thấy bọn chúng đứng ngoài phòng khách sạn.
Tanner dằn máy xuống bàn. Gã nhấn nút gọi máy cho Flint và Carballo vô trình diện. Trong chốc lát Harry Flint và Vince Carballo đã có mặt tại văn phòng.
Tanner xoay ghế qua, trong cơn tức giận cùng mình:
- Hai con quỷ cái lại chuồn đi mất lần nữa, ta tha cho bọn bây lần nầy nữa thôi. Hiểu gì chưa? Ta sẽ chỉ ra chỗ bọn chúng đang ở đâu và lao ngay tới đó. Muốn hỏi gì thêm?
Flint nhìn qua Carballo.
- Dạ không!
Tanner nhấn nút màn hình điện tử chiếu sáng tấm bản đồ thành phố.
- Bọn chúng còn giữ tấm danh thiếp trong người, ta còn theo dõi được…
Hai tên tay sai nhìn theo những đốm đèn sáng trên màn hình vô tuyến. Tanner nhấn nút tiếp theo, đốm sáng không còn di chuyển nữa.
Tanner nghiến chặt hàm răng.
- Bọn chúng đã quăng tấm danh thiếp!
Mặt mũi đỏ bừng, xoay qua Flint và Carballo.
- Ta muốn khử hết bọn chúng nội ngày hôm nay!
lint nghe thấy chới với nhìn lại Tanner.
- Nếu không tìm thấy dấu vết làm sao chúng tôi có thể…
Tanner cắt ngang:
- Cậu có nghĩ là ta dễ dàng làm ngơ cho một kẻ muốn qua mặt ta sao? Bọn chúng còn giữ chiếc điện thoại di động trong người thì ta còn tìm ra dấu vết được.
- Ông còn giữ số máy điện thoại di động bọn chúng đó chứ? - Flint kinh ngạc hỏi lại.
Tanner không bận tâm trả lời, đưa mắt theo đõi trên bản đồ.
- Lúc nầy bọn chúng đã tách ra hai nơi gã nhấn qua nút khác. Ta coi thử Diane Stevens đang ở đâu?
Tanner bấm nút cho số.
Đốm sáng trên tấm bản đồ di chuyển chầm chậm, dừng lại trên đường phố Manhattan, quét qua lại mấy chỗ khách sạn, shop, quầy mua sắm. Tới đây đốm sáng dừng lại tại một cửa hiệu bên ngoài treo bảng "Cửa hàng của mọi người". Diane Stevens đang đứng trong quầy hàng.
Tanner nhấn qua nút khác.
- Ta dò tìm còn Kelly Harris đang ở đâu?
Tanner khởi động lại từ đầu. Những đốm sáng chớp chớp di chuyển một nơi khác.
Mọi cặp mắt tập trung vô vùng ánh sáng đang thu hẹp lại dần tại một điểm trên đường phố nhiều cửa hàng quần áo, nhà hàng ăn uống, hiệu buôn tạp hoá, trạm xe buýt. Đốm sáng khoanh vùng rồi dừng lại trước một toà nhà đồ sộ còn mở cửa đón khách.
- Kelly Harris đang đứng tại bến xe buýt. - Tanner vội nói. - Ta phải tóm cho được bọn chúng càng sớm càng tốt.
- Làm sao được, - Carballo hỏi. - Bọn chúng đang ở bên kia xa cách nơi đây. Ta vừa tới nơi bọn chúng đã lẩn đi mất.
Tanner quay lại.
- Tới đây! - gã chỉ lối đi qua phòng bên cạnh, Flint và Carballo bước theo sau. Nơi đây trang bị một hàng máy nghe lớn, máy vi tính, bảng số điện tử chớp chớp đủ thứ ánh đèn màu phía trên giá kê một chiếc máy với hơn một chục đĩa CD và DVD. Tanner dò tìm lấy ra một đĩa gài sẵn tên "Diane Stevens" đút vô máy.
Gã kể cho đàn em nghe. Đây là máy nhận dạng giọng nói. Stevens và Harris đã được ghi lại giọng nói vô đây Chỉ cần nhấn nút mỗi khi ta nói ra được nhập vô ăn khớp với giọng nói ta muốn. Tanner lấy một chiếc máy điện thoại di động nhấn số máy.
Một thoáng ngập ngừng:
- Alô! Đúng là giọng nói Kelly.
- Kelly! Rất vui mừng gặp lại cậu! - Tanner đang nói - tiếng nói được nhập vô máy khớp với giọng nói của Diane Stevens.
- Diane? Cậu nghe rõ chứ. Tôi đang chuẩn bị ra tới đó.
Flink và Carballo vừa nghe thấy ngạc nhiên.
- Cậu tính về đâu vậy, Kelly?
- Qua Chicagô, đến mai lại về quê nhà O'Hare.
- Kelly, cậu khoan đi lúc nầy.
Một thoáng im lặng.
- Sao vậy?
- Tôi vừa mới phát hiện được chuyện trước đây.
- Tôi biết ai là thủ phạm giết chồng bọn mình, lý do tại sao
- Ôi lạy chúa làm sao… cậu nói thiệt không đấy?
- Chắc chắn. Tôi có đủ bằng chứng đây!
- Diane, vậy thì còn gì hơn nữa.
- Tôi hiện đang ở tại khách sạn Delmont Hotel, dãy A. Tôi sẽ đi lên tới Sở FBI. Cậu nên đi cùng với tôi, nếu cậu muốn về nhà lúc nầy, tôi hiểu là…
- Không, chưa! Tôi… tôi muốn làm sáng tỏ mọi việc trước lúc Mark ra đi còn để lại.
Flint và Carballo lắng nghe từng câu chữ. Còn nghe được phía sau là tiếng loa trên máy báo chuyến xe đi Chicago.
- Tôi sẽ đi cùng với cậu, Diane. Cậu đang ở khách sạn Delmont Hotel?
- Ờ, ở phố Tám - Sáu, dãy A
- Tôi đi đây. Hẹn gặp lại.
Cuộc đối thoại tới đó là hết.
Tanner quay nhìn Carballo và Flint:
- Ta đã giải quyết được một nửa. Còn một nửa kia phải tính toán cho gọn.
Carballo và Tanner đứng nhìn theo Flint vội vã bước ra ngoài.
Carballo lên tiếng.
- Ông muốn bọn tôi phải làm gì đây thưa ông Kingsley?
- Lưu ý giùm Saida Hernandez
°°°
Đứng bên trong dãy nhà A, Flint quyết tâm phen nầy không để lọt mất cơ hội lần chót. Hắn đã được nghe chuyện Tanner sa thải mấy tay thợ vụng. Ta không phái vậy, Flint vừa nghĩ. Hắn rút súng ra kiểm tra lại, siết chặt ống hãm thanh. Hắn lặng lẽ chờ đợi con mồi chỉ có thế thôi.
Cách khách sạn Delmont Hotel mấy dãy phố, Kelly Harris đang ngồi trên chiếc xe taxi đầu óc quay cuồng vui mừng sắp được gặp lại Diane như đã dặn trước.
Tôi biết ai là thủ phạm giết chồng bọn mình… Tôi đã có đủ bằng chứng đây nầy. Mark, em sẽ báo thù cho anh, những gì bọn chúng đã ám hại anh, nàng nghĩ.
Diane đang nôn nóng bồn chồn. Cơn ác mộng đã qua. Dù sao Kelly đã tìm thấy được bằng chứng ai là thủ phạm đứng đàng sau âm mưu đòi giết hai người.
Em muốn anh phải tự hào vì em, Richard. Em cảm thấy được gần gũi bên anh, và...
Diane chợt tỉnh lại vừa nghe tiếng người lái xe taxi nói.
- Tới nơi rồi. Thưa bà. Đây là Delmont Hotel.