Paris, Pháp
 
CUỘC ĐIỀU TRA VỤ TỰ TỨ TRÊN THÁP EIFFEL.
Cuộc thẩm vấn diễn ra tại sở Cảnh sát Reuilly trên phố Henard, Quận mười hai.
Hai thám tử André Belmondo và Pierre Marais mở đầu buổi hỏi cung người quản lý tháp Eiffel.
Thứ Hai, 6 tháng năm.
Thời gian 10 giờ sáng
Đối tượng: René Pascal.
Belmondo: ông Pascal, chúng tôi có đủ lý lẽ xác định là Mark Harris, nạn nhân được cho là té ngã từ trên đài quan sát tháp Eiffel đã bị giết chết.
Pascal: Bị giết chết? Mà sao… Tôi được nghe báo cáo là tai nạn do…
Marais: Làm sao chung quanh có bao lơn che chắn cao khỏi đầu người nạn nhân có thể té ngã xuống đất được?
Belmondo: Chúng tôi có đủ lý lẽ xác minh đây không phải là một vụ tự tử. Bởi ông ta đã chuẩn bị sắp xếp nghỉ cuối tuần với vợ, là Kelly một người mẫu.
Pascal: Tôi thật đau buồn, thưa quý ông, nhưng mà tôi chẳng hiểu… sao lại mời tôi đến đây.
Marais: Chúng tôi muốn làm sáng tỏ vụ việc buổi tối nhà hàng đóng cửa lúc mấy giờ?
- Pascal: Đúng mười giờ. Đêm đó có bão, nhà hàng vắng khách phải đóng cửa sớm…
Marais: Cầu thang máy ngừng chạy từ lúc nào?
Pascal: Thường chạy tới nửa đêm mới ngừng, đêm đó thấy không còn khách và người tham quan, tới mười giờ khoá máy.
Belmondo: Luôn cả thang máy chạy lên đài quan sát?
Pascal: Vâng. Tất cả thang máy đều khoá.
Marais: Vậy có thể đi cầu thang bộ từ dưới lên tới nơi được chứ.
Pascal: Không được. Tối đó mọi cửa đều khoá. Tôi không thể hiểu vì sao tai nạn xảy ra. Nếu…
Belmondo: Chuyện đó tôi sẽ nói ra đây. Nạn nhân Harris bị xô ngã từ trên cao xuống. Chúng tôi đã lên tới nơi xem xét hiện trường tại chỗ rào chắn nơi xảy ra tai nạn còn dấu xây xát, lớp cất ximăng bám dính vô dưới đế giầy nạn nhân Harris chính là lớp ximang bị bong tróc ngay tại chỗ rào chắn đài quan sát. Nếu cửa tầng dưới đã khoá, thang máy ngừng hoạt động nạn nhân không làm sao lên tới nơi ngay lúc nửa đêm?
Pascal: Tôi không biết. Không có cầu thang máy…thì làm sao… làm sao đi lên đó được.
Marais: Nhưng mà cầu thang máy còn hoạt động thì mới đưa ông Harris lên tới trên đài quan sát. Luôn cả thủ phạm… có thể vài ba tên… rồi bọn chúng quay trở xuống.
Belmondo: Ta có thể nghi cho kẻ lạ mặt cho chạy cầu thang máy.
Pascal: Không có chuyện đó. Người gác cầu thang máy thường trực tại phòng máy, buổi tối dùng khoá đặc biệt.
Marais: Có mấy chìa khoá tất cả?
Pascal: Có ba chìa. Tôi giữ một, hai chìa kia được cất giữ tại đây.
Belmondo: Ông xác định rõ cầu thang máy đóng cửa lúc mười giờ tối chứ?
Pascal: Vâng.
Marais: Ai chịu trách nhiệm tại chỗ?
Pascal: Toth. Gérard Toth.
Marais: Cho tôi gặp đương sự.
Pascal: Tôi cũng muốn gặp.
Marais: Ông muốn nói sao?
Pascal: Toth tối hôm đó không đi làm. Tôi đến nhà tìm, không nghe thấy ai lên tiếng, tôi hỏi thăm chủ nhà mới hay Toth đã dọn đi nơi khác.
Marais: Không để lại địa chỉ sao?
Pascal: Không. Hắn đã cuốn gói cao chạy xa bay từ lúc nào.
°°°
- Cao chạy xa bay? Có phải ta vừa nhớ lại nhà ảo thuật đại tài Houdini hay là một tên gác cầu thang quỷ quyệt?
Người vừa lên tiếng là ngài Tổng thư ký Renaud, chỉ huy Tổng hành dinh cơ quan Interpol. Ông nhỏ người tính năng động hoạt bát, tuổi trạc năm muơi có thâm niên hai mươi năm phục vụ trong ngành Cảnh sát Renaud ngồi chủ toạ phiên họp trong phòng họp lớn tại Tổng hành dinh bảy tầng lầu Trụ sở Cảnh sát quốc tế một nơi thanh lọc tất cả mọi nguồn tin cho 126 đơn vị cảnh sát thuộc bảy mươi tám nước: Trụ sở nằm trong khu phố St. Cloud, khoảng mười cây số về hướng tây Paris được điều hành do một lực lượng thám tử từng phục vụ trong Sở an ninh Pháp và Sở cảnh sát Paris.
Quanh bàn họp mười hai nhân viên đã có mặt đầy đủ. Cuộc thẩm vấn thám tử Belmondo vừa diễn ra trước một giờ.
Ngài tổng thư ký chua chát lên tiếng:
- Vậy là anh và thám tử Marais không thể thu thập được một manh mối nào vì sao nạn nhân bị giết chết tại một nơi khó có thể xâm nhập vô được, hơn nữa bọn sát thủ cũng khó mà len lỏi vô rồi thoát ra ngoài trót lọt hay sao? Các anh… báo cáo có vậy thôi sao?
- Tôi và Marais đã đối chứng với nhiều người…
- Thôi được. Anh có thể ra về!
- Thưa ngài, tuân lệnh!
Mọi người nhìn theo nhà thám tử vừa bị một trận te tua. Có người bảo;
- Thế đấy, đến anh ta cũng phải chịu thua.
Ngài tổng thư ký quay lại bàn họp:
- Trong lúc thẩm vấn, các anh có ai nghe nhắc… tới một nhân vật tên là Prima?
Mọi người chăm chú hồi lâu, rồi lắc đầu - không, Prima là nhân vật thế nào?
- Chúng ta chưa biết được. Cái tên được viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy còn sót lại trong túi áo jacket nạn nhân ở New York. Trong vụ nầy có liên quan tới một đầu mối, ngài thở ra.
- Các bạn, chúng ta đang gặp một việc nan giải, một bài toán còn ẩn số. Tôi đã phục vụ trong ngành mười lăm năm, từng điều tra nhiều vụ giết người hàng loạt, bọn tội phạm quốc tế, tội bạo hành, tội giết cha, và nhiều vụ có thể đoán ra được thủ phạm. -Ông dừng lại. - Trong từng ấy thời gian chưa lúc nào gạp một vụ như vừa qua. Tôi gởi một bản THÔNG BÁO đến cơ quan điều tra ở New York.
°°°
Manhattan New York.
Frank Bigley, chỉ huy một đơn vị thám tử ở Manhattan đang xem xét tờ trình của Tổng thư ký Renaud gởi tới vừa lúc hai thám tử Earl Greenburg và Robert Praegitzer bước vô.
- Thưa sếp cần gặp?
- Vâng, mời các anh ngồi.
Hai người kéo ghế ngồi.
Sếp Bigley, đưa ra một trang giấy.
- Đây là bản THÔNG BÁO sáng nay Interpol vừa gởi tới. Ông đọc to: "Cách nay sáu năm một nhà khoa học Nhật, Akira Iso đã treo cổ tự tử tại phòng riêng trong một khách sạn ở Tokyo. Cuộc điều tra cho thấy sức khoẻ ông Iso rất tốt, vừa được đề bạt lên một chức vụ cao hơn giữa lúc tinh thần phấn chấn".
- Ở bên Nhật? Nhưng mà có liên quan gì…
- Tôi đọc tiếp. "Cách đây ba năm, một nhà khoa học Thuỵ Sĩ, Madeleine Smith, ba mươi hai tuổi, tự tử bằng cách mở bình gaz tại nhà riêng ở Zurich. Bà đang mang thai và dự tính làm đám cưới với người cha đứa bé còn trong bụng. Nhân chứng -bạn bè cho biết bà chưa bao giờ được sung sướng như lúc ấy". Ông ngước nhìn hai nhân viên thám tử.
- Cách đây ba hôm một nhân vật ở thành phố Berlin tên là Sonja Vebrugge chết trong bồn tắm. Ngay trong đêm hôm đó, Mark Harris một người Mỹ té lộn nhào từ trên đài quan sát tháp Eiffel xuống đất. Ngày hôm sau một công dân Canada tên là Gary Reynolds chết trong một tai nạn máy bay đụng vô sườn núi ngoại ô thành phố Denver.
Greenburg và Praegitzer chăm chú nghe đọc, chưa hết bàng hoàng.
- Và mới hôm qua, các anh phát hiện xác chết nạn nhân Richard Stevens tấp vô bờ sông East River.
Earl Greenburg nhìn theo sếp, kinh ngạc.
- Mấy vụ đó liên quan gì đến chúng tôi?
Sếp Bigley lặng lẽ nói.
- Tất cả những cải chết được nhận dạng như nhau.
Greenburg nhìn sâu vô mắt ông:
- Sao? Để tôi nghĩ lại xem. Một người Nhật cách đây sáu năm, người Thuỵ sĩ ba năm, mới đây vài bữa một người Đức, người Canada và hai người Mỹ. - Gã ngồi lặng thinh một lúc. - Mấy vụ nầy có liên quan gì với nhau?
Sếp Bigley đưa qua Greenburg bản THÔNG BÁO của cơ quan Interpol. Greenburg vừa đọc tròn xoe mắt.
Gã ngước nhìn chậm rãi nói:
- Interpol nghi cho viện nghiên cứu Kingsley International đứng đằng sau mấy vụ nầy sao? Một trò cười.
Praegitzer lên tiếng:
- Thưa sếp, chúng tôi vừa nhắc tới tên tuổi một cơ quan nghiên cứu tầm cỡ thế giới.
- Tất cả nạn nhân là những người có liên quan cơ quan KIG, do Tanner Kingsley đứng đầu; Chủ tịch Uỷ ban khoa học của Tổng thống, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Uỷ ban chính sách quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc. Tôi muốn đề nghị cậu và Greenburg nên có một cuộc trao đổi với Kingsley.
- Vâng.
- Nầy Earl…
- Sếp bảo sao?
- Nên dè dặt và dò dẫm từng bước.
°°°
Năm phút sau, Earl Greenburg gặp thư ký Ric của Kingsley trên máy, gã quay qua Praegitzer
- Mười giờ sáng thứ ba ta tới điểm hẹn. Ngài Kingsley đang có mặt ra điều trần tại một Uỷ ban quốc hội ở Washington…
°°°
Washington, D.C
Tại buổi điều trần của Uỷ ban môi trường Thượng viện ở Washington, D.C, một hội đồng gồm sáu vị Thượng nghị sĩ và ba mươi quan khách tham dự một nhóm phóng viên lắng nghe Tanner Kingsley đọc bản điều trần.
Tanner Kingsley, trong độ tuổi bốn mươi, cao lớn điển trai, đôi mắt xanh sắc sảo, thông minh khuôn mặt với chiếc mũi dọc dừa, chiếc cằm cương nghị trông như hình tượng tạc in trên đồng tiền.
Chủ tịch Uỷ ban, Thượng nghị sĩ Pauline Mary Van Luven, nhân vật thể lực khoác một tư cách đầy vẻ tự tin. Bà nhìn qua Tanner dõng dạc lên tiếng mời ông Kingsley phát biểu.
Tanner gật:
- Cám ơn bà Thượng nghị sĩ. Ông quay qua phía các thành viên Uỷ ban mở đầu; với giọng nói sôi nổi.
- Trong khi một số các nhà hoạt đông chính trị của chúng ta loay hoay với những sự kiện trái đất ấm dần lên và hiện tượng hiệu ứng nhà kính, lỗ được chứ?
- Con Angel thuộc về tôi. Ông đem biếu cho tôi, phải không?
Mark dừng lại nghẹn họng.
- Ờ, nhưng mà em đã nói…
- Tôi muốn thoả thuận với ông, Harris. Tôi được giữ con chó Angel, còn ông có thể lui tới tự nhiên.
Nghĩ ngợi một lúc mặt mày sáng rỡ gã nói:
- Vậy là em vừa nói tôi có thể… em muốn cho tôi…
Kelly nói:
- Sao không gác lại chuyện đó để tối nay tính?
Nàng có ngờ đâu chính nàng đang là đích ngắm của bọn sát thủ.

Dịch giả : Trạch Thiên
Chương 34

Ra phố Lexington Avenue. Diane vẫy tay gọi xe taxi.
- Ta đi về đâu?
- Ra sân bay La Guardia.
Kelly nhìn Diane, chưa hiểu gì.
- Cậu không tính chuyện bọn chúng theo dõi cả ở sân bay?
- Chắc là có lẽ…
- Còn cậu… - Kelly nói lầm bầm. - Cậu đã nghĩ mưu, phải không?
Diane vỗ vỗ tay Kelly một cái.
- Thì đấy.
°°°
Bên trong nhà ga sân bay La Guardia, Kelly bước theo Diane tới quầy vé hãng Alitalia Airlines.
Nhân viên trong quầy lên tiếng.
- Chào quý bà, quý bà cần hỏi việc gì?
Diane mỉm cười.
- Có, tôi đặt hai vé đi Los Angeles.
- Bà muốn đi chuyến mấy giờ?
- Chuyến nào sớm nhất. Tên đây, Diane Stevens và Kelly Harris.
Kelly nhìn qua nhíu mày.
Nhân viên nhìn lên bảng chuyến bay:
- Chuyến bay tới lúc hai giờ mười lăm.
- Được! Diane nhìn theo Kelly.
Kelly cười gượng gạo:
- Khá lắm.
Bà trả tiền thẻ hay tiền mặt?
- Tiền mặt, - Diane móc tiền đưa ra.
Kelly vộỉ nói.
- Sao ta không bật tín hiệu báo cho Kingsley biết ta đang ở đâu?
Diane đáp: - Cậu lo chi mấy việc đó?
Vừa đi ngang qua quầy vé hãng American Airlines, Diane nhìn vô nhân viên quầy vé.
- Chúng tôi cần đặt trước hai vé đi Miami sau chuyến bay nầy.
- Được chứ? Nhân viên quầy nhìn lên bảng chuyến bay:
- Chuyến bay sắp tới còn ba tiếng nữa.
- Được, tên chúng tôi là Diane Stevens và Kelly Harris.
Kelly nhắm mắt lại.
- Trả thẻ hay tiền mặt?
- Tiền mặt.
Diane trả tiền nhận hai vé.
Vừa đi khỏi, Kelly vội nói.
- Có phải ta tính xa hơn bọn chúng, những nhà thiên tài? Chuyện nầy không lừa được đứa bé mười tuổi.
Diane vừa bước ra cổng sân bay.
Kelly vụt chạy theo:
- Cậu bỏ đi đâu vậy?
- Ta phải đi…
- Đừng lo. Tôi thấy không cần biết lý do tại sao.
Bên ngoải bãi đậu xe một dãy xe taxi chở khách.
Thấy hai người bước ra ngoài, một chiếc rời bến tới ngay trước cổng ra vô. Diane và Kelly bước vô xe.
- Quý bà muốn đi đâu?
- Ra sân bay Kennedy.
Kelly vội nói ngay: - Liệu bọn chúng có phải bối rối vì ta. Giá mà ta kiếm ra được một món vũ khí phòng thân.
- Ta kiếm đâu cho được một khẩu súng cối?
Xe taxi gài số, Diane nghiêng người tới trước nhìn thấy tấm thẻ khắc tên Mario Silva phía trên hộp đồng hồ xe.
- Nầy ông Silva, ông có thể lái ra sân bay né tránh xe sau theo dõi được không?
Nhìn vô gương thấy ông nhếch mép cười:
- Vậy là mấy bà lên đúng xe rồi đó.
Ông nhấn ga cho xe tăng tốc độ quẹo cua chữ U gắt. Qua khúc quẹo đầu tiên ông rẽ qua nửa chừng tấp vô con đường hẻm.
Hai người khách ngồi nhìn qua kính chiếu hậu, không thấy chiếc nào bám theo.
Mario Silva cười thích thú:
- OK.
- OK, Kelly nói.
Nửa tiếng sau Mario Silva bất thình lình quẹo qua một khúc cua lần nữa cho xe lách vô đường hẹp, nhìn không thấy xe nào bám theo: chắc ăn, xe taxi chạy thẳng vô cổng chính sân bay Kennedy.
Ta tới nơi rồi, Mario khoan khoái nói.
Diane móc tiền trong ví ra trả:
- Thêm khoản bồi dưỡng cho ông đây.
Người lái xe cầm lấy tiền tươi cười:
- Cám ơn hai bà.
Gã ngồi trong xe nhìn theo hai người khách bước vô nhà ga sân bay. Khi bóng người đã khuất vô trong gã móc điện thoại di động ra gọi.
- Cho tôi gặp ngài Tanner Kingsley.
°°°
Bên trong quầy vé hãng Delta Airlines, nhân viên bán vé ngước nhìn bảng chuyến bay:
- Vâng, chúng tôi còn hai vé bay 5.50 chiều nay. Dừng lại một tiếng tại Madrid, đến sân bay Barcelona 9.20 sáng hôm sau.
- Cám ơn ông, Diane nói.
- Trả tiền thẻ hay tiền mặt?
- Tiền mặt.
- Ta ngồi chờ ngoài nầy.
°°°
Ba mươi phút sau Harry Flint nói qua máy di động với Tanner.
- Tôi đã dò ra dấu vết. Bọn chúng đáp máy bay hãng Delta qua Barcelona. Máy bay rời sân bay Kennedy lúc 5.50 chiều, dừng lại Madrid một tiếng, đến Barelona 9.20 sáng hôm sau.
- Khá lắm! Cậu đón máy bay của công ty để kịp gặp bọn chúng. Tôi nhờ cậu lo săn sóc giùm.
Tanner vừa gác máy, nhìn Andrew bước vô. Một bông hoa cài trên ve áo.
- Lịch chuyến bay đây.
- Thế nầy là cái quái gi?
Andrew nghe chới với.
- Cậu dặn tôi mang theo…
- Tôi không hỏi chuyện đó. Tanner muốn biết vì sao ve áo anh đeo cái bông hoa vớ vẩn kia?
Andrew cảm thấy thích thú.
- Tôi đeo cái nầy trên áo để mừng đám cưới cậu, tôi làm phù rể.
Kingsley cau mày.
- Anh làm quái gì… - Chợt hắn nhớ lại chuyện cũ: - Chuyện đó đã bảy năm ông ơi, làm gì có đám cưới. Thôi đi ra ngoài đi?
Andrew quá đỗi bàng hoàng chưa hiểu gì.
- Đi ra ngoài!
Kingsley đứng nhìn người anh bỏ đi. Ta phải cho anh ta đi chỗ khác chơi. Đã đến lúc.
°°°
Chuyến bay đi Barcelona êm ru.
Kelly nhìn ra cửa sổ, thành phố New York lùi dần về phía sau.
- Cậu thấy bọn mình đã yên được chưa?
Diane lắc đầu.
- Chưa. Thế nào bọn chúng cũng tìm ra dấu vết, dù sao ta cũng đã đến nơi. Nàng lấy bản in máy tính hôm trước ra dò lại - Sonja Verbrugge, ở Berlin bị giết chết, chồng bị mất tích. Gary Reynolds, ở Denver… Nàng chần chừ - Còn Mark và Richard…
Kelly liếc nhìn qua.
- Thì ra ta đã qua nhiều chặng, Paris, Berlin, Denver rồi trở về lại New York.
- Ờ. Ta sẽ vượt biên giới San Sebastian qua tới Paris.
°°°
Kelly bồn chồn muốn về lại Paris, để được gặp Sam Meadows, nàng có linh tính ông ta sẽ nhiệt tình giúp đỡ con Angel trông đợi nàng về.
- Cậu đã tới Tây Ban Nha lần nào chưa? - Diane hỏi.
- Có tới một lần khi còn Mark. Phải nói là… Kelly chợt lặng thinh một hồi lâu - Cậu biết tôi tính làm gì cho những ngày còn lại không, Diane?
Ở trên đời nầy chưa có ai được như Mark. Cậu biết không lúc còn nhỏ, coi truyện thấy người ta yêu nhau nhìn đâu cũng thấy đời tươi như hoa. Tôi muốn nhắc lại chuyện giữa tôi với Mark. Nàng nhìn qua Diane thủng thỉnh nói.
- Ờ. - Nàng hỏi - Mark thế nào?
Kelly cười.
- Trông anh chàng có cái nét như trẻ con. Tôi nghĩ là anh chàng tâm hồn như trẻ thơ còn cái đầu như một thiên tài, chợt nàng cười khúc khích.
- Sao vậy?
- Cách anh chàng ăn mặc. Mới gặp lần đầu thấy anh ta diện bộ đồ xám không vừa với khổ người, đi giầy nâu, áo sơ mi xanh, thắt cà vạt đỏ. Lấy nhau rồi, cách ăn mặc đổi khác, đàng hoàng hơn. Nàng im lặng.
Nàng nhớ lại, giọng nói như nấc nghẹn.
- Cậu biết gì chưa. Tôi muốn đánh đổi bất cứ thứ gì để được nhìn lại Mark, mặc bộ đồ xám ngày trước, đi giầy nâu, mặc áo sơ mi xanh, thắt cà vạt đỏ. Nàng nhìn qua Diane, nước mắt lưng tròng. Mark thích nhìn thấy tôi ngạc nhiên mỗi khi được tặng quà. Món quà đáng giá nhất là ông đã dạy cho tôi biết yêu là thế nào. - Nàng lôi chiếc mù soa ra chặm lên mắt. - Cậu kể chuyện Richard đi.
Diane cười:
- Anh chàng tính mơ mộng. Mỗi lần vô giường phải dặn dò - Em nhớ khoá nút bí mật tắt máy điện thoại, tôi nghe muốn mắc cười - Có ai nghe lén đâu mà lo. - Nàng nhìn Kelly - Cái nút bí mật là – đừng quấy rầy gắn bên máy điện thoại. Richard dặn dò sống ở đây như một lâu đài, một cõi riêng, còn cái nút gắn bên điện thoại coi như là cái hố ngăn cách thế giới bên ngoài. - Diane chợt nhớ ra, nhếch mép cười - Ông là một nhà khoa học tài ba. Mọi thứ trong nhà tự tay ông làm, sửa chữa đủ thứ điện nước ông làm được tất. Vậy mà có khi tôi phải nhờ thợ tới làm mấy chỗ ông sửa, không nói cho ông biết.
Hai người kể lể đến khuya.
Diane sực nhớ hôm đó hai người mới kể lại chuyện chồng mình cho nhau nghe. Y như là mọi ngăn cách xưa nay giữa hai người đã được tháo gỡ.
Kelly ngáp dài.
- Thôi ta đi ngủ. Tôi cảm thấy ngày mai còn nhiều việc sôi nổi hơn.
Nói vậy thôi nàng chưa mường tượng ra nó sôi nổi cỡ nào.
°°°
Harry Flint lách qua đám đông trong sân bay El Prat ở Barcelona, bước vội tới chỗ cánh cửa mở rộng nhìn ra đường băng. Hắn ngước mắt nhìn lướt qua một vòng bảng chuyến bay đi và đến. Chuyến bay từ New York ghi trên bảng ba mươi phút nữa sẽ đến đây. Mọi thứ đã sẵn sàng theo như bài bản.
°°°
Ba mươi phút sau hành khách từ New York đến vừa bước xuống máy bay. Nhìn mọi người hớn hở… khách du lịch, nhà buôn, trẻ em, những cặp vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật. Flint khéo tìm một nơi đứng giấu mặt nhìn dòng người tiến vô nhà ga, tất cả dừng lại một chỗ. Hắn cau mày. Không nhìn thấy Diane và Kelly đâu. Flint ráng chờ thêm ít phút, hắn bỏ đi ra cổng lên xuống máy bay.
- Nầy ông, không được đi lối nầy.
Flint quát:
- Tôi ở cơ quan Hàng không Quốc gia tôi vừa nhận được tin một gói hàng giấu bên trong phòng vệ sinh trên máy bay. Tôi được lệnh kiểm tra ngay.
Flint nhào tới trước đi thẳng tới chỗ chiếc máy bay. Vừa đến nơi, tổ lái cho máy bay chuyển bánh.
Người tiếp viên lên tiếng hỏi:
- Ông cần việc gì ạ?
- Tôi là thanh tra cơ quan Hàng không quốc gia, Flint nói.
Hắn leo lên cầu thang, bước vô trong khoang tàu.
Không thấy một hành khách nào trên máy bay.
Người tiếp viên hàng không hỏi:
- Có sự cố gì chăng?
- Có một quả bom giấu trên máy bay.
Cô ta đứng nhìn theo Flint đi thẳng ra phía sau khoang tàu mở cửa buồng vệ sinh, không tìm thấy ai.
Hai cô nàng đã biến mất.
°°°
- Tìm không thấy bọn chúng trên máy bay, thưa ông Kingsley.
Tanner nói nhỏ nghe đến rợn người:
- Flint, cậu nhìn thấy họ trên máy bay chứ? - Dạ, có.
Lúc máy bay cất cánh cậu còn thấy chứ?
- Dạ, có.
- Vậy thì ta có thể phỏng đoán bọn chúng nhảy xuống biển Đại Tây Dương không cần dù bọc, hay có thể đã xuống sân bay Madrid không chừng, cậu nghĩ sao?
- Thì vậy, thưa ông Kingsley, nhưng mà…
- Cám ơn cậu. Vậy chắc là bọn chúng có ý đồ xuống Madrid đi qua Pháp. - Ông bỏ ngang.
- Bọn chúng được chọn một trong bốn phương án: chuyển đổi máy bay tại Barcelona, hoặc đáp tàu lửa đi, hoặc lên xe hàng. - Tanner nghĩ ngợi một hồi - Bọn chúng không thể đi xe buýt, máy bay hay tàu hoả vì thấy bất tiện gì đó. Lối suy luận đúng lôgíc mách cho ta thấy bọn chúng thuê xe tự lái tới vùng biên giới San Sebastian từ đây xâm nhập vô nước Pháp.
- Nếu…
- Khoan chờ tôi nói hết, Flint. Tôi đoán là xe từ Madrid đi San Sebastian mất hết năm tiếng. Tôi muốn cậu thi hành ngay. Đáp máy bay trở lại Madrid, kiểm tra mấy điểm cho thuê xe. Phát hiện đúng kiểu xe đã thuê mướn màu gì, hiệu xe, đủ các thứ.
- Tôi nghe rõ.
- Xong, tôi muốn cậu bay tới San Sebastian thuê một chiếc ô tô… loại xe tải. Cho xe đậu dọc theo quốc lộ phục kích chờ bọn chúng đi ngang qua, ta không muốn nhìn thấy bọn chúng tới biên giới San Sebastian. Nầy Flint…
- Vâng, tôi nghe đây.
- Cậu nhớ… phải tạo ra hiện trường như là một vụ đụng xe.