Paris, Pháp
 
CUỘC ĐIỀU TRA VỤ TỰ TỨ TRÊN THÁP EIFFEL.
Cuộc thẩm vấn diễn ra tại sở Cảnh sát Reuilly trên phố Henard, Quận mười hai.
Hai thám tử André Belmondo và Pierre Marais mở đầu buổi hỏi cung người quản lý tháp Eiffel.
Thứ Hai, 6 tháng năm.
Thời gian 10 giờ sáng
Đối tượng: René Pascal.
Belmondo: ông Pascal, chúng tôi có đủ lý lẽ xác định là Mark Harris, nạn nhân được cho là té ngã từ trên đài quan sát tháp Eiffel đã bị giết chết.
Pascal: Bị giết chết? Mà sao… Tôi được nghe báo cáo là tai nạn do…
Marais: Làm sao chung quanh có bao lơn che chắn cao khỏi đầu người nạn nhân có thể té ngã xuống đất được?
Belmondo: Chúng tôi có đủ lý lẽ xác minh đây không phải là một vụ tự tử. Bởi ông ta đã chuẩn bị sắp xếp nghỉ cuối tuần với vợ, là Kelly một người mẫu.
Pascal: Tôi thật đau buồn, thưa quý ông, nhưng mà tôi chẳng hiểu… sao lại mời tôi đến đây.
Marais: Chúng tôi muốn làm sáng tỏ vụ việc buổi tối nhà hàng đóng cửa lúc mấy giờ?
- Pascal: Đúng mười giờ. Đêm đó có bão, nhà hàng vắng khách phải đóng cửa sớm…
Marais: Cầu thang máy ngừng chạy từ lúc nào?
Pascal: Thường chạy tới nửa đêm mới ngừng, đêm đó thấy không còn khách và người tham quan, tới mười giờ khoá máy.
Belmondo: Luôn cả thang máy chạy lên đài quan sát?
Pascal: Vâng. Tất cả thang máy đều khoá.
Marais: Vậy có thể đi cầu thang bộ từ dưới lên tới nơi được chứ.
Pascal: Không được. Tối đó mọi cửa đều khoá. Tôi không thể hiểu vì sao tai nạn xảy ra. Nếu…
Belmondo: Chuyện đó tôi sẽ nói ra đây. Nạn nhân Harris bị xô ngã từ trên cao xuống. Chúng tôi đã lên tới nơi xem xét hiện trường tại chỗ rào chắn nơi xảy ra tai nạn còn dấu xây xát, lớp cất ximăng bám dính vô dưới đế giầy nạn nhân Harris chính là lớp ximang bị bong tróc ngay tại chỗ rào chắn đài quan sát. Nếu cửa tầng dưới đã khoá, thang máy ngừng hoạt động nạn nhân không làm sao lên tới nơi ngay lúc nửa đêm?
Pascal: Tôi không biết. Không có cầu thang máy…thì làm sao… làm sao đi lên đó được.
Marais: Nhưng mà cầu thang máy còn hoạt động thì mới đưa ông Harris lên tới trên đài quan sát. Luôn cả thủ phạm… có thể vài ba tên… rồi bọn chúng quay trở xuống.
Belmondo: Ta có thể nghi cho kẻ lạ mặt cho chạy cầu thang máy.
Pascal: Không có chuyện đó. Người gác cầu thang máy thường trực tại phòng máy, buổi tối dùng khoá đặc biệt.
Marais: Có mấy chìa khoá tất cả?
Pascal: Có ba chìa. Tôi giữ một, hai chìa kia được cất giữ tại đây.
Belmondo: Ông xác định rõ cầu thang máy đóng cửa lúc mười giờ tối chứ?
Pascal: Vâng.
Marais: Ai chịu trách nhiệm tại chỗ?
Pascal: Toth. Gérard Toth.
Marais: Cho tôi gặp đương sự.
Pascal: Tôi cũng muốn gặp.
Marais: Ông muốn nói sao?
Pascal: Toth tối hôm đó không đi làm. Tôi đến nhà tìm, không nghe thấy ai lên tiếng, tôi hỏi thăm chủ nhà mới hay Toth đã dọn đi nơi khác.
Marais: Không để lại địa chỉ sao?
Pascal: Không. Hắn đã cuốn gói cao chạy xa bay từ lúc nào.
°°°
- Cao chạy xa bay? Có phải ta vừa nhớ lại nhà ảo thuật đại tài Houdini hay là một tên gác cầu thang quỷ quyệt?
Người vừa lên tiếng là ngài Tổng thư ký Renaud, chỉ huy Tổng hành dinh cơ quan Interpol. Ông nhỏ người tính năng động hoạt bát, tuổi trạc năm muơi có thâm niên hai mươi năm phục vụ trong ngành Cảnh sát Renaud ngồi chủ toạ phiên họp trong phòng họp lớn tại Tổng hành dinh bảy tầng lầu Trụ sở Cảnh sát quốc tế một nơi thanh lọc tất cả mọi nguồn tin cho 126 đơn vị cảnh sát thuộc bảy mươi tám nước: Trụ sở nằm trong khu phố St. Cloud, khoảng mười cây số về hướng tây Paris được điều hành do một lực lượng thám tử từng phục vụ trong Sở an ninh Pháp và Sở cảnh sát Paris.
Quanh bàn họp mười hai nhân viên đã có mặt đầy đủ. Cuộc thẩm vấn thám tử Belmondo vừa diễn ra trước một giờ.
Ngài tổng thư ký chua chát lên tiếng:
- Vậy là anh và thám tử Marais không thể thu thập được một manh mối nào vì sao nạn nhân bị giết chết tại một nơi khó có thể xâm nhập vô được, hơn nữa bọn sát thủ cũng khó mà len lỏi vô rồi thoát ra ngoài trót lọt hay sao? Các anh… báo cáo có vậy thôi sao?
- Tôi và Marais đã đối chứng với nhiều người…
- Thôi được. Anh có thể ra về!
- Thưa ngài, tuân lệnh!
Mọi người nhìn theo nhà thám tử vừa bị một trận te tua. Có người bảo;
- Thế đấy, đến anh ta cũng phải chịu thua.
Ngài tổng thư ký quay lại bàn họp:
- Trong lúc thẩm vấn, các anh có ai nghe nhắc… tới một nhân vật tên là Prima?
Mọi người chăm chú hồi lâu, rồi lắc đầu - không, Prima là nhân vật thế nào?
- Chúng ta chưa biết được. Cái tên được viết nguệch ngoạc trên mảnh giấy còn sót lại trong túi áo jacket nạn nhân ở New York. Trong vụ nầy có liên quan tới một đầu mối, ngài thở ra.
- Các bạn, chúng ta đang gặp một việc nan giải, một bài toán còn ẩn số. Tôi đã phục vụ trong ngành mười lăm năm, từng điều tra nhiều vụ giết người hàng loạt, bọn tội phạm quốc tế, tội bạo hành, tội giết cha, và nhiều vụ có thể đoán ra được thủ phạm. -Ông dừng lại. - Trong từng ấy thời gian chưa lúc nào gạp một vụ như vừa qua. Tôi gởi một bản THÔNG BÁO đến cơ quan điều tra ở New York.
°°°
Manhattan New York.
Frank Bigley, chỉ huy một đơn vị thám tử ở Manhattan đang xem xét tờ trình của Tổng thư ký Renaud gởi tới vừa lúc hai thám tử Earl Greenburg và Robert Praegitzer bước vô.
- Thưa sếp cần gặp?
- Vâng, mời các anh ngồi.
Hai người kéo ghế ngồi.
Sếp Bigley, đưa ra một trang giấy.
- Đây là bản THÔNG BÁO sáng nay Interpol vừa gởi tới. Ông đọc to: "Cách nay sáu năm một nhà khoa học Nhật, Akira Iso đã treo cổ tự tử tại phòng riêng trong một khách sạn ở Tokyo. Cuộc điều tra cho thấy sức khoẻ ông Iso rất tốt, vừa được đề bạt lên một chức vụ cao hơn giữa lúc tinh thần phấn chấn".
- Ở bên Nhật? Nhưng mà có liên quan gì…
- Tôi đọc tiếp. "Cách đây ba năm, một nhà khoa học Thuỵ Sĩ, Madeleine Smith, ba mươi hai tuổi, tự tử bằng cách mở bình gaz tại nhà riêng ở Zurich. Bà đang mang thai và dự tính làm đám cưới với người cha đứa bé còn trong bụng. Nhân chứng -bạn bè cho biết bà chưa bao giờ được sung sướng như lúc ấy". Ông ngước nhìn hai nhân viên thám tử.
- Cách đây ba hôm một nhân vật ở thành phố Berlin tên là Sonja Vebrugge chết trong bồn tắm. Ngay trong đêm hôm đó, Mark Harris một người Mỹ té lộn nhào từ trên đài quan sát tháp Eiffel xuống đất. Ngày hôm sau một công dân Canada tên là Gary Reynolds chết trong một tai nạn máy bay đụng vô sườn núi ngoại ô thành phố Denver.
Greenburg và Praegitzer chăm chú nghe đọc, chưa hết bàng hoàng.
- Và mới hôm qua, các anh phát hiện xác chết nạn nhân Richard Stevens tấp vô bờ sông East River.
Earl Greenburg nhìn theo sếp, kinh ngạc.
- Mấy vụ đó liên quan gì đến chúng tôi?
Sếp Bigley lặng lẽ nói.
- Tất cả những cải chết được nhận dạng như nhau.
Greenburg nhìn sâu vô mắt ông:
- Sao? Để tôi nghĩ lại xem. Một người Nhật cách đây sáu năm, người Thuỵ sĩ ba năm, mới đây vài bữa một người Đức, người Canada và hai người Mỹ. - Gã ngồi lặng thinh một lúc. - Mấy vụ nầy có liên quan gì với nhau?
Sếp Bigley đưa qua Greenburg bản THÔNG BÁO của cơ quan Interpol. Greenburg vừa đọc tròn xoe mắt.
Gã ngước nhìn chậm rãi nói:
- Interpol nghi cho viện nghiên cứu Kingsley International đứng đằng sau mấy vụ nầy sao? Một trò cười.
Praegitzer lên tiếng:
- Thưa sếp, chúng tôi vừa nhắc tới tên tuổi một cơ quan nghiên cứu tầm cỡ thế giới.
- Tất cả nạn nhân là những người có liên quan cơ quan KIG, do Tanner Kingsley đứng đầu; Chủ tịch Uỷ ban khoa học của Tổng thống, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước và Uỷ ban chính sách quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc. Tôi muốn đề nghị cậu và Greenburg nên có một cuộc trao đổi với Kingsley.
- Vâng.
- Nầy Earl…
- Sếp bảo sao?
- Nên dè dặt và dò dẫm từng bước.
°°°
Năm phút sau, Earl Greenburg gặp thư ký Ric của Kingsley trên máy, gã quay qua Praegitzer
- Mười giờ sáng thứ ba ta tới điểm hẹn. Ngài Kingsley đang có mặt ra điều trần tại một Uỷ ban quốc hội ở Washington…
°°°
Washington, D.C
Tại buổi điều trần của Uỷ ban môi trường Thượng viện ở Washington, D.C, một hội đồng gồm sáu vị Thượng nghị sĩ và ba mươi quan khách tham dự một nhóm phóng viên lắng nghe Tanner Kingsley đọc bản điều trần.
Tanner Kingsley, trong độ tuổi bốn mươi, cao lớn điển trai, đôi mắt xanh sắc sảo, thông minh khuôn mặt với chiếc mũi dọc dừa, chiếc cằm cương nghị trông như hình tượng tạc in trên đồng tiền.
Chủ tịch Uỷ ban, Thượng nghị sĩ Pauline Mary Van Luven, nhân vật thể lực khoác một tư cách đầy vẻ tự tin. Bà nhìn qua Tanner dõng dạc lên tiếng mời ông Kingsley phát biểu.
Tanner gật:
- Cám ơn bà Thượng nghị sĩ. Ông quay qua phía các thành viên Uỷ ban mở đầu; với giọng nói sôi nổi.
- Trong khi một số các nhà hoạt đông chính trị của chúng ta loay hoay với những sự kiện trái đất ấm dần lên và hiện tượng hiệu ứng nhà kính, lỗ được chứ?
- Con Angel thuộc về tôi. Ông đem biếu cho tôi, phải không?
Mark dừng lại nghẹn họng.
- Ờ, nhưng mà em đã nói…
- Tôi muốn thoả thuận với ông, Harris. Tôi được giữ con chó Angel, còn ông có thể lui tới tự nhiên.
Nghĩ ngợi một lúc mặt mày sáng rỡ gã nói:
- Vậy là em vừa nói tôi có thể… em muốn cho tôi…
Kelly nói:
- Sao không gác lại chuyện đó để tối nay tính?
Nàng có ngờ đâu chính nàng đang là đích ngắm của bọn sát thủ.

Dịch giả : Trạch Thiên
Chương 38

Berlin, Đức
 
Ở bên Đức nhà hàng Rockendorf nổi tiếng sang trọng, cách trang trí bề ngoài xưa nay là nét đặc trưng cho sự phồn vinh của thành phố Berlin.
Diane mới vừa tới, người quản lý bước ra đón tiếp:
- Bà đã đặt bàn chưa?
- Tôi đã đặt bàn trước tên là Stevens. Tôi có hẹn với bà Fronk ở đây.
- Xin mời bà đi lối nầy.
Người quản lý hướng dẫn vô dãy bàn cuối. Diane ngồi nhìn quanh dè đặt. Khoảng chừng bốn mươi thực khách ngồi vô bàn, dân áp phe ngồi bàn phía trước là một ông khách ăn mặc lịch sự đi một mình.
Diane ngồi tập trung lại ý tưởng trong đầu sắp đối phó với Heidi Fronk. Nàng đã biết được những gì?
Người phục vụ đưa ra bản thực đơn:
- Cám ơn.
Diane liếc qua món ăn. Nàng không rành mấy món nầy. Chờ Heidi Fronk tới.
Diane liếc nhìn xuống đồng hồ đeo tay. Trễ hai mươi phút, Heidi chưa tới.
Người phục vụ bước lại:
- Bà đặt món ăn chưa?
- Chưa. Tôi chờ khách tới. Cám ơn.
Giây phút cứ trôi qua. Diane bồn chồn không biết có việc gì
Mười lăm phút sau người phục vụ bước tới:
- Bà cho dọn món ăn ra được chứ?
- Khỏi. Cám ơn. Người khách của tôi sắp tới nơi.
Đúng chín giờ, vẫn chưa thấy Heidi Fronk đâu.
Nghĩ một lát Diane biết chắc là nàng không tới.
Diane vừa ngước nhìn thấy hai anh chàng lạ mặt ngồi ở lối ra vô, mặt mũi xấu xí ăn mặc lôi thôi.
Diane đoán ngay bọn côn đồ. Nhác thấy người hầu bàn bước tới bọn chúng vẫy tay xua đi. Bọn nầy không cần ăn. Diane thấy bọn chúng chăm chăm nhìn về phía nàng, linh tính báo cho nàng biết chuyện chẳng lành. Lọt vô vòng vây bọn địch; Heidi Fronk đã bán đứng nàng. Diane thấy hồi hộp muốn ngất lúc nào không hay.
Nàng nhìn quanh coi thử có lối thoát. Đành chịu thôi. Nàng cứ ngồi lại đó, để rồi liệu sau, nàng phải đi và bọn chúng sẽ tóm cổ nàng. Nàng nhớ còn chiếc điện thoại di động, nhưng biết gọi cho ai tới ứng cứu ngay lúc nầy.
Diane cảm thấy tuyệt vọng không còn lối thoát, ta phải đi khỏi đây, nhưng ra đi lối nào, nàng nghĩ nhìn quanh một lượt nàng sực nhớ, nhìn theo người khách mặt mũi điển trai ngồi ăn một mình bên bàn kia. anh ta vừa nhấp một ngụm cà phê.
Diane mỉm cười cất tiếng.
- Chào ông.
- Ông ta ngước nhìn ngỡ ngàng, rồi vui vẻ đáp:
- Chào bà.
Diane đáp lại với một nụ cười chân tình, mời gọi:
- Tôi thấy cả hai người vô đây một mình.
- Ờ vâng.
Ông có thể quá bước qua đây ngồi chung bàn?
Ông chần chờ một lúc, nhếch mép cười.
- Được, ông đứng lên bước qua bàn Diane.
- Ăn uống một mình thiệt là không vui chút nào, phải không ông! - Diane nhẹ nhàng nói.
- Bà nói đúng. Thiệt là không vui chút nào. Nàng chìa tay ra. Tôi là Diane Stevens.
- Tôi là Gred Holliday.
°°°
Paris, Pháp.
Kelly Harris giật mình nhớ lại những giây phút kinh hoàng lúc gặp Sam Meadows. Sau khi chạy thoát nàng lang thang đêm tối một mình trên phố Montmartre, mắt không quên nhìn lui về phía sau đề phòng kẻ lạ theo dõi, ta không thể bỏ Paris ra đi khi chưa biết rõ sự thật, Kelly nghĩ.
Tờ mờ sáng nàng ghé vô quán gọi một tách cà phê. Bỗng đâu đầu óc nàng sáng ra tìm được câu giải đáp. Nàng sực nhớ thư ký riêng của Mark. Bà kính nể Mark. Bởi vậy Kelly mới nghĩ ra chỉ còn bà có thể giúp ta một tay.
Đúng chín giờ, Kelly bước vô buồng điện thoại công cộng gọi máy. Nàng gọi tới một nơi quen thuộc, nghe tiếng người phụ trách tổng đài nói giọng Pháp nghe nặng tai - Đây là cơ sở Kingsley.
- Cho tôi gặp Yvonne Renais
- Xin bà vui lòng chờ máy.
Nhanh chóng Kelly nghe Yvonne nói bên kia.
- Yvonne Renais đây. Bà cần việc gì?
- Yvonne, tôi là Kelly Harris đây.
Người nghe buột miệng quá bất ngờ:
- Chao ôi? Bà Harris…
°°°
Manhattan, New York
Bên trong văn phòng Tanner đèn tín hiệu màu xanh chớp sáng.
Tanner Kingsley nhấc máy lắng nghe cuộc gọi ở Paris.
- Tôi lấy làm buồn lòng vì sự việc xảy ra cho ông Harris. Tôi hết sức bàng hoàng.
- Cám ơn, Yvonne. Tôi cần bàn một việc với bà.
Ta có thể gặp nhau tại một nơi khác được chứ? Bà có rảnh trưa nay dùng cơm với tôi.
- Vâng.
- Ta đi ăn nhà hàng.
- Bà biết nhà hàng Le Ciel de Paris. Ta tới chỗ La Tour Montparnasse sẽ thấy.
- Vâng.
Tanner Kingsley nhẩm tính trong đầu.
- Mười hai giờ?
- Được! Ta sẽ gặp nhau tại đó.
Một nụ cười vừa thoáng hiện trên môi Tanner Kỉngsley. Bọn mày ráng ăn một bữa chót, gã nghĩ. Gã giơ tay mở ngăn kéo, nhấc chiếc máy điện thoại vàng.
Bên kia máy trả lời:
- Chào Tanner. Tin vui. Mọi việc đã xong. Đã tóm được cả hai.
Gã nghe qua mấy câu, gật đầu:
- Tôi biết phải bỏ công nhiều hơn nữa, ta đã sẵn sàng đâu đó rồi… Tôi cũng nghĩ như ông… chào nhá.
°°°
Paris. Pháp
Tháp La Tour Montparnasse trên độ cao 685 foot xây dựng bằng một vật liệu thép bọc kính. Toàn bộ khu vực hoạt động nhộn nhịp, cửa hiệu mở cửa đón khách ra vô tấp nập.
Kelly là người đến trước tiên ngồi bên trong nhà hàng quán bar tầng lầu năm mươi sáu ấy. Mười lăm phút sau Yvonne mời tới, ríu rít xin lỗi.
Trước đây nàng có gặp gỡ vài lần nhưng vẫn còn nhớ mặt. Yvonne có khuôn mặt nhìn nhỏ nhắn dễ thương. Kelly được nghe Mark khen nàng đủ điều.
- Cám ơn bà đã đến đây, Kelly nói.
- Tôi sẽ làm vừa lòng bà. Ông Harrỉs là một nhân vật đáng kính nể, được mọi người khâm phục. Chuyện xảy ra không ai có thể tin được… nào ngờ.
- Tôi đến đây là để được nghe bà kể lại cái chuyện đó, Yvonne. Bà đã từng cộng tác với chồng tôi trong năm năm.
- Vâng.
- Chắc là hiểu ông rõ hơn ai hết?
- Vâng, phải!
- Mấy tháng sau nầy bà có nhận thấy điều gì khác lạ không? Tức là nó lạ ở chỗ cách ông ăn nói, đối xử với người khác?
Yvonne liếc nhìn chỗ khác:
- Tôi không dám nói là có, tôi muốn nói là…
Kelly khích lệ.
- Lúc nầy bà kể ra không ảnh hưởng gì đến ông, vả lại giúp tôi hiểu rõ hơn mọi việc, - Kelly cố dằn lòng hỏi thêm một việc nữa.
- Bà có nghe ông nhắc tới ai tên là Olga?
Yvonne nghe thấy lạ tai, nói ngay:
- Olga hở?
- Làm gì có.
- Bà không biết người nầy là ai?
- Chuyện đó tôi không rõ.
Kelly thấy người nhẹ tênh, nàng nghiêng ra trước:
- Yvonne nghe nầy, bà có điều gì chưa muốn nói cho tôi biết?
Thì đây…
Người hầu bàn bước tới trước mặt hai vị khách.
- Chào quý bà, chúng tôi hân hạnh được đón tiếp quý bà đến với nhà hàng Ciel de Paris. Tôi là Jacques Brion. Bữa nay bếp trưởng có chuẩn bị mấy món ăn đặc sản. Quý bà đã cho đặt món ăn chưa?
- Có, thưa ông, chúng tôi gọi món châteaubriand hai người ăn.
Người hầu bàn lui ra, Kelly nhìn qua Yvonne.
- Bà mới vừa kể…
- Vâng mấy ngày trước lúc lúc ông chết. Tôi thấy ông Harris có vẻ bồn chồn sao ấy. Ông nhờ tôi ra đặt vé máy bay đi Washington.
- Chuyện đó tôi biết. Tôi cho là chuyện công tác bình thường.
- Không đâu. Tôi thấy nó lạ ở chỗ… như là công việc gấp lắm.
- Bà có biết là việc gì không?
- Không. Mọi việc bất chợt như là bí mật lắm. Tôi thấy sao nói vậy.
Kelly xoay Yvonne gần cả tiếng đồng hồ, nhưng không được gì thêm. Yvonne còn nhớ ra mấy cuộc gọi điện thoại đến chỗ Mark.
Sau bữa cơm Kelly nói:
- Tôi muốn bà giữ kín cuộc gặp gỡ ngày hôm nay, Yvonne.
- Bà khỏi lo, Harris. Tôi không cho ai hay biết.
Yvonne đứng lên:
- Tôi phải về lại văn phòng. - Môi miệng bà run run. - Chắc là không có lần thứ hai…
- Cám ơn Yvonne.
Mark ra đi gặp ai ở Washington? Kelly chưa biết được. Còn mấy cuộc gọi bí mật từ bên Đức, ở Denver và New York ra sao.
°°°
Kelly từ trên lầu đi thang máy xuống tới phòng khách.
Ta sẽ gọi Diane coi có tin tức gì mới hơn. Được thôi… chợt nàng không nghĩ tới nữa. Kelly vừa ra tới cửa trước đã nhìn thấy bọn chúng ở đó. Hai tên to con mỗi tên đứng canh một bên. Bọn chúng nhìn về phía nàng, hai tên cười với nhau. Kelly thuộc hết địa điểm nầy nàng biết không còn lối thoát nào ra bên ngoài nữa. Lẽ nào Yvonne phản lại ta? Nàng nghĩ.
Hai kẻ lạ mặt dợm bước về phía nàng, chen giữa lối đi của khách ra vô.
Kelly hoảng hốt nhìn quanh, đứng dựa lưng vô tường. Cánh tay nàng vừa chạm một vật cứng đau nhói, nàng quay lại nhìn vừa lúc hai tên bước tới gẩn, nhanh như chớp Kelly chộp lấy cây búa gắn bên hông bình chữa cháy đập vỡ khung kính lập tức chuông báo động reo lên khắp nơi trong dãy nhà.
Kelly la to:
- Cháy? Cháy?
Khắp nơi nhốn nháo. Mọi người từ cửa hàng, nhà hàng ăn chạy ùa ra ngoài. Trong khoảnh khắc phòng khách chật cứng người chen chúc nhau chạy thoát nạn.
Hai tên lạ mặt căng mắt nhìn theo Kelly lẩn vô đám đông. Vừa chạy ra tới nơi chỗ nàng mới còn đứng đây nhìn lại đã không thấy Kelly.
°°°
Berlin, Đức.
Nhà hàng Rockendorf khách vô tấp nập.
- Tôi chờ một người bạn, - Diane phân bua với Greg Holliday, người khách điển trai được mời qua bàn ngồi chung - Dường như cô ta không tới đúng hẹn.
- Tệ vậy. Bà đi du lịch đến Berlin hở?
- Vâng.
- Một thành phố xinh đẹp. Ở Berlin rất nhiều nơi tham quan du lịch tôi có thể giới thiệu ngay đây.
- Vậy thì hay lắm, - Diane hững hờ nói. - Nàng liếc mắt về phía cửa ra vô. Hai tên lạ mặt đã bỏ đi ra ngoài, có lẽ đón chờ nàng ngoài kia. Nàng phải liệu đi ngay.
- Đúng ra thì… - Diane nói. - Tôi chờ một nhóm bạn. Nàng liếc nhìn đồng hồ. - Họ đang chờ ngoài kia, phiền ông đưa tôi ra xe taxi.
- Có sao đâu.
Thoáng chốc hai người đã ra tới trước cổng.
Diane thấy nhẹ cả người. Hai kẻ lạ mặt toan ám hại nàng đi một mình, nhưng ta đi với một người bên cạnh thì đừng hòng.
Lúc Diane và Greg Holliday ra tôi cổng, hai tên nọ lẩn đâu mất, chiếc taxi đang đậu phía trước nhà hàng, phía sau là một chiếc Mercedes.
Diane lên tiếng:
- Rất vui mừng được gặp gỡ ông.
- Tôi nghĩ là…
Holliday mỉm cười nắm lấy tay nàng, bàn tay gã níu chặt lấy khiến nàng đau nhói.
Nàng nhìn lại, bàng hoàng.
- Sao mà…
- Sao ta không đi xe riêng? - Gã nói nhỏ nhẹ, tay vừa lôi Diane về phía chiếc Mecedes đang chờ. Bàn tay gã níu chặt hơn.
- Không, tôi không muốn để…
Vừa tới bên chiếc xe, Diane nhìn lại thấy hai tên lúc nãy đã ngồi ở hàng ghế trước. Quá sửng sốt, Diane hiểu ngay chuyện gì, nàng cảm thấy toàn thân hoảng loạn.
- Đừng, nàng nói.
- Đừng. Tôi… Nàng vừa bị đẩy vô trong xe.
Greg Holliday nhào vô theo sau ngồi bên Diane giơ tay đóng cửa xe.
- Đi thôi.
Chiếc xe lao tới hoà cùng dòng xe phía trước Diane cảm thấy như người trong cơn bấn loạn;
- Tôi van ông…
Greg Holliday nhếch mép cười đểu:
- Bà có thể nằm nghỉ. Tôi không muốn làm hại ai. Tôi bảo đảm ngày mai bà sẽ về tới nhà.
Hắn thò tay vô chiếc túi phía sau ghế tài xế lôi ra một cây kim tiêm.
- Tôi sẽ tiêm cho bà một mũi thuốc, không sao cả. Bà nằm đây ngủ chừng một hai tiếng.
Hắn sờ lên tay Diane.
- Tránh mau! Tay lái xe quát. Một người đi bộ bất thình lình lao vô đầu xe, lái xe nhanh chân đạp thắng suýt nữa là tai nạn, mọi người ngồi trên xe nhốn nháo.
Holliday đập đầu vô lưng ghế.
Hắn cố ngồi ngay lại, choáng váng, miệng quát người lái xe
- Chuyện gì…
Ngay tức thì Diane níu lấy tay Holliday đang còn giữ chiếc kim tiêm vặn tréo lại gập cây kim vô da thịt hắn.
Holliday hoảng hốt quay qua - Đừng? Hắn vừa bật lên một tiếng thét.
Quá khiếp đảm Diane nhìn thấy người Holliday co giật cứng đờ, buông tay nằm đó, hắn chết trong nháy mắt. Hai tên ngồi phía trước ngoái cổ nhìn lui.
Diane đã tháo chạy ra khỏi xe, thoáng chốc nàng đón được chiếc taxi chạy về hướng ngược chiều.