Dịch giả: Thanh Vân
Chương 10
Sự may rủi của cuộc sống

 Tôi chỉ đi thẳng về phía trước. tôi không biết đi đâu. Lúc này Umschalagplatz và các toa tàu chở gia đình tôi đã lùi lại ở phía sau tôi. Tôi không nghe thấy tiếng đoàn tàu nữa, có lẽ nó đã rời khỏi thành phố được vài cây số. Tôi vẫn cảm thấy nó trong lòng tôi lúc nó đã đi xa. Tôi đi, cứ mỗi bước dọc theo lề đường là tôi cảm thấy mình lẻ loi hơn. Tôi hiểu mình đã bị giật ra khỏi mọi thứ đã từng tạo nên cuộc sống cho đến lúc này. Tôi không biết điều gì sẽ chờ đợi tôi, chỉ biết là nó sẽ tồi tệ hết sức tưởng tượng. Không còn cách gì trở lại ngôi nhà gia đình tôi đã sống lúc cuối cùng. Bọn SS sẽ bắn tôi ngay tại chỗ hoặc tống tôi trở lại Umschalagplatz như một người bị đày đi tái định cư. Tôi không biết sẽ qua đêm ở đâu nhưng lúc đó tôi thật sự không quan tâm, cho dù nỗi sợ lúc tranh tối tranh sáng vẫn ẩn nấp trong tiềm thức.
Đường phố đã bị quét sạch. Cửa ngõ các ngôi nhà của dân bị đi tái định cư đóng kín hoặc mở toang hoác. Một cảnh sát Do Thái đến gần tôi, tôi không chú ý đến anh ta và sẽ còn không chú ý nếu anh ta không đứng lại và quát lên:
Wladek!
Lúc đó tôi cũng dừng lại, anh ta sửng sốt nói thêm:
Anh làm gì ở đây, vào lúc này?
Đến lúc đó tôi mới nhận ra, anh ta là người họ hàng của chúng tôi và không được mến mộ trong gia đình. Chúng tôi cho tư cách của anh ta không được minh bạch và cố tránh anh ta. Lúc nào anh ta cũng tránh né khó khăn bằng đủ mọi cách, và vẫn thoát bằng đủ mọi cách mà người khác cho rằng xấu xa. Anh ta gia nhập cảnh sát chỉ càng khẳng định thêm tiếng xấu của mình.
Ngay lúc nhận ra anh ta trong bộ đồng phục, mọi ý nghĩ ấy lướt qua đầu tôi, nhưng lúc này anh ta là người bà con gần gũi nhất của tôi, thực ra là người bà con duy nhất. Dù sao chăng nữa, ở nơi đây còn có một người khác gắn bó với hồi ức gia đình của chúng tôi.
Chuyện này như thể là… - tôi bắt đầu nói. Tôi định kể chuyện cha mẹ tôi, anh chị tôi đã bị đưa đi trên các toa tàu ra sao, nhưng không thể thốt lên lời. Song anh ta hiểu. Anh ta tiến đến chỗ tôi và nắm lấy cánh tay tôi.
Có lẽ như thế lại hay hơn – anh thì thào và làm một cử chỉ nhẫn nhục – Càng nhanh càng tốt, thật đấy. Chuyện ấy đang đợi tất cả chúng ta. – Lặng im một lát, anh nói thêm – Mà này, ghé vào chỗ chúng mình đi, nó sẽ làm mình vui lên tí chút.
Tôi đồng ý, và đã ở lại đêm một mình đầu tiên với người họ hàng ấy.
Đến sáng, tôi đi thăm Mieczylaw Lichtenbaumn, con trai vị chủ tịch mới của hội đồng Do Thái, người tôi rất quen biết từ hồi tôi chơi dương cầm trong các tiệm cà phê ở ghetto. Anh gợi ý tôi có thể chơi đàn trong sòng bạc của đội biệt kích huỷ diệt của Đức, nơi tối tối các sĩ quan Gestapo và bọn SS xả hơi sau một ngày mệt nhọc giết chóc người Do Thái. Chúng được những người Do Thái phục dịch, sớm hay muộn rồi họ cũng bị giết nốt. Lẽ tất nhiên tôi không muốn nhận lời đề nghị như thế, dù Liechbaumn không hiểu nổi vì sao nó không hấp dẫn tôi, và anh ta mếch lòng khi tôi từ chối. Không bàn bạc thêm, anh ta ghi tên tôi vào đội công nhân phá tường của ghetto lớn trước kia, lúc này nhập với khu vực Aryan của thành phố.
Ngày hôm sau, lần đầu tiên trong suốt hai năm qua, tôi rời khu vực Do Thái. Hôm đó khoảng 20 tháng Tám, một ngày đẹp trời và nóng. Trời đẹp như nhiều ngày trước đây, đẹp như ngày cuối cùng tôi ở với gia đình trong Umschalagplatz. Chúng tôi đi theo đội ngũ xếp hàng bốn, dưới sự chỉ huy của các đốc công người Do Thái, có hai tên SS canh gác. Chúng tôi đến quảng trường Zelasna Brama. Thế là vẫn có sự sống ở một nơi nào đó.
Những người buôn bán trên phố mang những giỏ đầy các thứ hàng,đứng ngoài chợ lớn hiện đã đóng cửa và có lẽ đã biến thành vài cửa tiệm của người Đức. Ánh mặt trời lấp lánh đem lại sự rực rỡ cho rau quả, làm những cái cân bán cá lấp lánh, hắt ánh sáng chói chang từ các nắp đồ hộp bằng thiếc. Phụ nữ đi một vòng qua các người bán hàng, mặc cả, đi từ giỏ này  sang giỏ khác, mua bán và sau đó đến trung tâm thành phố. Những người bán vàng và tiền rao đều đều “Vàng đây! Xin mời mua vàng. Đô la đây! Rúp đây!”
Một chiếc xe rú còi trên đường phố, rồi một chiếc xe cảnh sát màu xanh xám hiện ra trong tầm mắt. Những người buôn bán hoảng hốt, vội vã gói đồ lại và bỏ chạy càng xa càng tốt. Có tiếng quát tháo và sự hỗn loạn tuyệt vọng bao trùm quảng trường. Vậy ra ngay tại đây mọi sự cũng không được yên ổn lắm.
Chúng tôi cố phá những bức tường càng chậm càng tốt để kéo dài thêm thời gian. Các đốc công Do Thái chẳng ngăn cản chúng tôi, thậm chí ở đây bọn SS cũng không đến nỗi tàn bạo như trong ghetto. Chúng đứng tách riêng ra, mải nói chuyện và mắt nhìn lơ đễnh.
Chiếc xe đi ngang qua quảng trường rồi biến mất. Những người buôn bán tiếp tục trở lại vị trí cũ và quảng trường trông như chẳng có chuyện gì xảy ra. Những người cùng làm việc với tôi hết người này đến người khác rời khỏi đội để đi mua đồ ở các quầy hàng, rồi xếp vào các túi họ mang theo, hoặc nhét vào túi áo hay ống quần. Thật rủi là tôi không có tiền, và chỉ có thể nhìn ngó mà thôi, tôi lả người đi vì đói.
Một cặp thanh niên từ Ogród Saski đến gần đội chúng tôi. Cả hai đều ăn mặc rất đẹp. Người phụ nữ trẻ trông thật duyên dáng, tôi không rời mắt khỏi nàng. Khuôn miệng tô son của nàng đang mỉm cười, nàng lắc hông nhè nhẹ, và ánh mặt trời biến mái tóc vàng hoe của nàng thành màu vàng rực rỡ trong vầng hào quang lung linh quanh đầu. Lúc đi ngang qua chỗ chúng tôi, nàng chậm bước và kêu lên:
Ồ, nhìn này, anh này!
Người đàn ông không hiểu. Anh ta nhìn nàng vẻ dò hỏi. Nàng chỉ vào chúng tôi:
Do Thái.
Anh ta ngạc nhiên:
Thì sao? – Anh ta nhún vai – Đây là những người Do Thái đầu tiên em trông thấy sao?
Người phụ nữ mỉm cười lúng túng, nàng ép sát vào anh ta và họ đi về phía chợ.
Chiều hôm ấy tôi vay hết người này đến người khác được năm chục zloty. Tôi dùng số tiền đó mua bánh mì và khoai tây. Tôi ăn một ít bánh và mang chỗ còn lại cùng khoai tây về ghetto. Chiều hôm ấy tôi đã làm việc buôn bán đầu tiên trong đời. Tôi mua 20 zloty bánh mì, tôi bán trong ghetto được 50 zloty. Khoai tây giá 3 zloty một kí lô, tôi bán với giá 18 zloty. Lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi đủ ăn và còn dư chút vốn liếng trong tay để tiếp tục việc buôn bán cho ngày hôm sau.
Việc phá huỷ thật hết sức đơn điệu. Chúng tôi rời ghetto từ sáng sớm và đứng quanh một đống gạch trông như đang làm việc cho đến năm giờ chiều. Những người bạn tôi dùng thời gian cho đủ mọi loại giao dịch, họ mua hàng và tích trữ lại, mang lén vào trong ghetto và bán lại với giá hời nhất. Tôi mua những thứ đơn giản nhất, chỉ đủ kiếm sống. Gia đình là điều duy nhất tôi nghĩ đến, không biết giờ này họ đang ở đâu, bị đưa đến trại nào, họ sống ở đấy ra sao.
Một hôm một người bạn cũ của tôi đi ngang qua đội của chúng tôi. Anh tên là Tadeuz Blumental, nhưng có nhiều nét Aryan đến mức anh ta không cần phải nhận nguồn gốc của mình và có thể sống ngoài ghetto. Gặp lại tôi anh rất mừng, nhưng thất vọng ngay khi thấy tôi sống trong hoàn cảnh khó khăn như vậy. Anh cho tôi ít tiền và hứa sẽ giúp tôi. Anh bảo hôm sau sẽ có một phụ nữ đến và nếu tôi có thể lẻn đi mà không bị để ý thì chị ta sẽ đưa tôi đến một nơi có thể ẩn nấp được. Người phụ nữ ấy đến thật, nhưng không may chị ta báo tin là những người định để tôi ở nhờ không chịu nhận người Do Thái.
Hôm sau nữa lãnh đạo nhà hát giao hưởng Warsaw là Lan Dworakowski nhìn thấy tôi lúc ông băng ngang qua quảng trường. Ông đến gặp tôi một cách chân thành. Ông ôm lấy tôi, hỏi thăm tôi và gia đình tôi. Khi nghe tôi kể về những người khác đã bị đưa ra khỏi Warsaw, ông nhìn tôi với vẻ thương cảm đặc biệt, và há miệng như định nói câu gì, nhưng ông không nói thêm gì nữa.
Ông có nghĩ sẽ xảy ra chuyện gì cho họ không? – Tôi hỏi, hết sức băn khoăn.
Wladyslaw! – ông nắm lấy bàn tay tôi và ép lấy chúng một cách nồng nhiệt – Có lẽ để cậu biết thì hay hơn…Cậu biết mà đề phòng…- Ông ngập ngừng giây lát rồi ép chặt tay tôi, ông khẽ nói thêm, gần như thì thầm – Cậu sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa đâu.
Ông quay người bỏ đi, gần như chạy. Được vài bước, ông quay lại và đến ôm lấy tôi, nhưng tôi không đủ sức để đáp lại lòng chân thành của ông. Trong tiềm thức, ngay từ đầu tôi đã hiểu rằng những chuyện khó tin của bọn Đức về những trại dành cho người Do Thái, ở đó “có các điều kiện làm việc tử tế” đợi họ đến tái định cư là bịa đặt, rằng chúng tôi chỉ có thể chờ cái chết có sẵn trong tay bọn Đức mà thôi. Song cũng như những người Do Thái khác ở ghetto, tôi vẫn ấp ủ ảo tưởng rằng sự việc có thể sẽ khác đi, rằng những lời hứa hẹn của bọn Đức lần này có thể là sự thật. Mỗi khi nghĩ đến gia đình, tôi cố hình dung họ còn sống, dù có sống trong những điều kiện kinh khủng, nhưng đàng nào cũng sống sót, rồi đến một ngày nào đó, chúng tôi lại có thể gặp nhau. Dworakowski đã phá huỷ tan tành công trình tự dối mình mà tôi đã khó khăn lắm mới duy trì nổi. Chỉ mãi đến sau này, tôi mới tự thuyết phục mình rằng ông ấy đã đúng khi làm thế: cái chết cầm chắc trong tay đã cho tôi nghị lực tự cứu lấy mình trong thời điểm quyết định.
Tôi đã trải qua vài ngày như trong mơ, sáng sáng tự động bật dậy, tự động đi lại, đến tối tự động nằm xuống một cái phản trong một kho đồ gỗ của người Do Thái đã hiến cho Hội đồng. Bằng cách này hay cách khác, tôi phải biết chắc cái chết của cha tôi, mẹ tôi, của Halina, của Regina, của Henryk. Có một cuộc oanh tạc của không quân Xô viết ở Warsaw. Mọi người đều chạy xuống hầm. Bọn Đức báo động và giận dữ, dân Do Thái mãn nguyện dù không dám lộ ra. Mỗi lần nghe tiếng bom rơi, mặt mũi chúng tôi lại rạng rỡ lên, đối với chúng tôi, đó là những âm thanh của sự trợ giúp đang tiến đến gần và đánh bại bọn Đức, điều duy nhất có thể cứu lấy chúng tôi. Tôi không xuống hầm, đối với tôi, sống hay chết cũng thế mà thôi.
Trong khi đó điều kiện làm việc của chúng tôi ngày càng tồi tệ. Lúc này bọn Lithuania canh gác làm chúng tôi không thể mua nổi được thứ gì ở ngoài chợ, chúng tôi bị kiểm tra mỗi lúc thêm gắt gao ở các trạm gác chính trên đường trở về ghetto. Một buổi chiều có cuộc chọn lựa hoàn toàn bất ngờ trong đội chúng tôi. Một tên cảnh sát trẻ đứng ngoài trạm gác, tay áo xắn cao, chia chúng tôi theo kiểu may rủi mà hắn cho là hay nhất: những người bên tay trái thì chết, bên tay phải thì sống. Hắn ra lệnh cho tôi đi sang bên phía tay phải. Những người bên trái phải nằm úp mặt xuống đất. Hắn bắn họ bằng súng lục, người này tiếp theo người kia.
Khoảng một tuần sau, nhiều thông cáo được dán trên các bức tường của ghetto về cuộc chọn lựa mới với tất cả những người Do Thái còn ở lại Warsaw. Ba trăm ngàn người đã bị đưa đi tái định cư, hiện còn lại khoảng 100 ngàn, sẽ dự định giữ lại 25 ngàn người ở lại thành phố, tất cả phải là những người có nghề nghiệp chuyên môn. Công nhân thành thạo không thể thiếu được đối với bọn Đức.
Các viên chức của hội đồng phải đến sân của nhà Hội đồng Do Thái vào một ngày định sẵn, số thường dân còn lại ở trong ghetto giữa các phố Nowolipki và Gesia. Muốn sự việc chắc chắn gấp đôi, một trong những cảnh sát Do Thái, một sĩ quan tên là Blaupapier đứng trước nhà hội đồng, tay lăm lăm roi da, và đích thân dùng roi vút vào những người cố len vào bên trong.
Con số đóng trên những mẩu giấy giao cho những người còn ở lại ghetto. Hội đồng được quyền giữ năm ngàn viên chức cho mình. Tôi không được giao con số nào trong ngày đầu tiên, tuy nhiên tôi cha tôi và một người quen khác của họ. Nhà kinh doanh này rất phấn chấn. Song đi cùng với ông là một nha sĩ hành nghề trên đường Sliska, cách nhà tôi không xa lắm, lại có một cái nhìn mọi sự bằng màu sắc u ám, ảm đạm. Ông có vẻ căng thẳng và gay gắt.
Thật là nhục nhã cho tất cả chúng ta! – ông gần như hét lên – Chúng ta để bọn chúng đưa đến chỗ chết như đàn cừu bị lùa đến lò mổ. Nếu nửa triệu người chúng ta tấn công bọn Đức, chúng ta có thể thoát khỏi ghetto, hoặc chí ít chết trong vinh dự, không như một vết nhơ trên bộ mặt lịch sử!
Cha tôi lắng nghe ông, hơi ngượng, nhưng với một nụ cười ân cần, cha tôi hơi nhún vai và hỏi:
Sao anh dám chắc là chúng đưa chúng ta đến chỗ chết?
Ông nha sĩ đan hai cánh tay vào nhau:
Vâng lẽ dĩ nhiên là tôi không biết chắc chắn. Làm sao mà tôi biết được? Chúng có nói với chúng ta đâu? Nhưng anh có thể tin chắc đến chín mươi phần trăm là chúng có kế hoạch xoá sạch tất cả chúng ta.
Cha tôi lại mỉm cười, nhưng ông lại càng tự tin hơn sau câu trả lời này:
Nhìn kìa – cha tôi nói và chỉ vào đám đông trong Umschalagplatz - Chúng ta không phải là anh hùng, chúng ta là những người hoàn toàn bình thường, sao không liều tin vào mười phần trăm cơ hội còn lại để sống?
Nhà kinh doanh đồng tình với cha tôi. Ý kiến ông ta hoàn toàn ngược với ông nha sĩ: bọn Đức không ngu gì mà phí phạm một lực lượng lao động đầy tiềm năng to lớn, đại diện là người Do Thái. Ông cho rằng chúng tôi đang đến các trại lao động, có thể là các trại lao động quản lý khe khắt, nhưng chắc bọn chúng không giết chúng tôi.
Trong lúc đó vợ nhà kinh doanh kể với mẹ tôi và Regina bà đã cất giấu các đồ bạc trong hầm rồi xây bịt kín lại như thế nào. Những đồ bằng bạc đó rất đẹp và có giá trị. Bà hy vọng khi trở về từ chuyến lưu đầy, bà sẽ tìm ra chúng.
Trời đã về chiều, chúng tôi lại thấy một nhóm tái định cư nữa bị lùa vào biệt khu. Chúng tôi hoảng hốt thấy Henryk và Halina trong số đó. Thế là cả nhà tôi cùng chung số phận, và cũng còn dễ chịu khi nghĩ rằng ít ra hai người ấy được an toàn.
Tôi vội đến tìm Henryk, chắc rằng thái độ chính trực một cách ngốc nghếch của anh đã đẩy anh và Halina đến đây. Tôi hỏi dồn dập nhiều câu và trách móc anh trước khi anh kịp giải thích, nhưng đàng nào anh cũng chẳng thèm trả lời tôi. Anh nhún vai, rút một cuốn Shakespeare cỡ nhỏ do Oxford in khỏi túi, lánh sang một bên và bắt đầu đọc.
Chính Halina kể cho chúng tôi nghe việc xảy ra. Khi nghe tin gia đình chúng tôi bị đưa đi làm việc, thế là hai chị em tình nguyện đến Umschalagplatz vì muốn cùng đi với chúng tôi.
Phản ứng của họ mới cảm động và ngớ ngẩn làm sao! Tôi quyết đưa họ ra khỏi đây bằng bất cứ giá nào. Hơn nữa họ không có trong danh sách tái định cư. Họ có thể ở lại Warsaw.
Tên cảnh sát Do Thái đưa họ đến biết tôi làm ở tiệm cà phê Sztuka và tôi hy vọng làm hắn mềm lòng dễ dàng, nhất là chẳng có lý do chính thức nào cho hai người đó ở lại đây. Không may là tôi đã tính nhầm: hắn không để cho hai người đó rời khỏi chốn này. Giống như bất cứ tên cảnh sát nào, hắn có nhiệm vụ mỗi ngày phải đích thân tống năm người đến Umschalagplatz, bản thân hắn cũng có nguy cơ bị tái định cư nếu không tuân theo. Henryk và Halina ở trong tiêu chuẩn năm người hôm nay. Hắn đã mệt và không có ý định thả hai người đi rồi lại thành phố đuổi bắt thêm hai người nữa, có Chúa mới biết họ ở đâu. Theo quan niệm của hắn, công việc săn người thật ra chẳng thoải mái tí nào, vì dân chúng không đến khi cảnh sát gọi mà lại đi trốn, và hắn đã chán ngấy tất cả chuyện này.
Tôi trở lại với gia đình, tay không. Thế là ý định cuối cùng cứu hai người trong gia đình đã thất bại, cũng như mọi ý định trước kia của tôi. Tôi ngồi xuống cạnh mẹ tôi, tâm trạng rất chán nản.
Lúc này đã năm giờ chiều nhưng vẫn còn nóng bức. Mỗi giờ trôi qua đám người lại càng đông thêm. Người ta chen chúc, lạc nhau, người này gọi người kia mà chẳng ăn thua gì. Chúng tôi nghe nhiều tiếng súng nổ và tiếng quát tháo, nghĩa là cuộc vây bắt vẫn đang diễn ra ở các phố quanh đó. Sự kích động lớn thêm lúc mọi người tưởng là xe lửa đã đến.
Người phụ nữ ngồi cạnh chúng tôi vẫn hỏi một mình “Sao tôi lại làm thế?” làm chúng tôi phát cáu hơn bất cứ ai khác. Lúc này chúng tôi đã hiểu chị ta đang nói về việc gì. Nhà kinh doanh bạn của chúng tôi đã tìm ra nguyên nhân. Lúc mọi người bị bắt rời khỏi nhà, người phụ nữ này cùng chồng con trốn ở một chỗ đã chuẩn bị trước. Lúc cảnh sát đi ngang qua đó, đứa bé khóc, trong lúc sợ hãi, người mẹ đã bóp họng đứa bé chết bằng chính bàn tay của mình. Rủi ro thay, việc đó chẳng giúp ích được gì. Chúng đã nghe tiếng đứa bé khóc, rồi tiếng bé giẫy chết, và chỗ trốn bị phát hiện không mấy khó khăn.
Đúng lúc đó một chú bé len qua đám đông về hướng chúng tôi, một hộp kẹo buộc dây đeo quanh cổ. Chú bán cho chúng tôi với giá rất buồn cười, vì Trời mới biết chú nghĩ gì, làm gì với số tiền này. Vét sạch những đồng tiền cuối cùng, chúng tôi mua được một cái kẹo caramel. Cha tôi lấy dao nhíp cắt thành sáu phần. Đó là bữa ăn cuối cùng của chúng tôi với nhau.
Khoảng sáu giờ, cảm giác bồn chồn bao trùm khắp biệt khu. Vài xe hơi Đức lái đến, cảnh sát xem xét kỹ những người được đưa đi, chúng chọn toàn những người trẻ và khoẻ mạnh. Những người may mắn này chắc dùng vào những mục Đám đông đến hàng ngàn người bắt đầu khẩn khoản được chọn, nhiều người cố chen bật nhau ra, len lên phía trước, phô diễn những lợi thế thể chất của họ. Bọn Đức đáp lại bằng những loạt đạn. Ông nha sĩ vẫn ở cùng nhóm với chúng tôi phẫn nộ:
Bây giờ mọi người đã tin lời tôi là bọn chúng sẽ giết hết chúng ta chưa? Những người đủ sức làm việc sẽ ở lại đây. Cái chết đang sờ sờ kia kìa!
Giọng ông nghẹn ngào lúc ông cố hét  thật to át tiếng ồn ào của đám đông và tiếng súng, vạch rõ con đường những người lưu đày sẽ đi.
Chán nản và mòn mỏi, cha tôi không đáp lại. Nhà kinh doanh nhún vai và mỉm cười mỉa mai, ông ta vẫn phấn khởi, việc giữ lại vài trăm người không có nghĩa lý gì với ông cho lắm.
Cuối cùng bọn Đức đã chọn xong đội lao động và đưa đi, nhưng sự kích động của đám đông vẫn không nguôi. Ngay sau đó chúng tôi nghe thấy tiếng còi của đầu tàu ở xa xa, và tiếng các toa xe lạch cạch trên đường ray lúc tiến lại gần. Vài phút sau đoàn tàu hiện ra trong tầm mắt: hơn một chục toa xe chở súc vật và hàng hoá từ từ tiến lại gần. Gió chiều thổi cùng hướng phả mùi thuốc khử trùng ngột ngạt về phía chúng tôi.
Đồng thời hàng rào cảnh sát Do Thái và SS vây quanh biệt khu dày đặc hơn, và bắt đầu rẽ đường cho đoàn tàu tiến thẳng vào trung tâm. Chúng tôi lại nghe thấy nhiều tiếng súng uy hiếp chúng tôi. Tiếng rền rĩ thật to từ đám phụ nữ và tiếng con nít gào khóc nổi lên giữa đám người chật như nêm cối.
Chúng tôi đã sẵn sàng ra đi. Mà sao lại phải chờ kia chứ? Thà vào trong toa còn khá hơn. Một hàng rào cảnh sát đứng cách đoàn tàu vài bước, mở một con đường rộng cho đám đông. Con đường dẫn đến các cửa toa mở toác và sặc mùi thuốc khử trùng clorine.
Lúc chúng tôi đang đến đoàn tàu, toa đầu tiên đã đầy ắp. Người đứng trong đó ép chặt vào nhau. Bọn SS vẫn dùng báng súng đẩy người lên, mặc cho những tiếng kêu la từ bên trong và tiếng phàn nàn vì bị thiếu không khí. Thật vậy, mùi clorine đã khó thở lắm rồi, ngay cả ở cách toa một quãng. Có chuyện gì trong đó mà các sàn tàu phải rải clorine dày đặc đến thế? Đi được nửa đường, tôi bỗng nghe tiếng ai đó gào “Này! Đây! Spzilman!” Một bàn tay túm lấy cổ áo tôi và tôi bị giật ngược khỏi hàng rào cảnh sát.
Ai dám làm như thế? Tôi không muốn chia lìa với gia đình tôi. Tôi muốn ở lại với họ!
Lúc này ngay đúng tầm mắt tôi là lưng của hàng cảnh sát dày đặc. Tôi vùng vẫy cưỡng lại nhưng họ không thả tôi ra. Ngó qua đầu bọn cảnh sát, tôi thấy mẹ tôi và Regina được Henryk và Halina giúp, đang trèo vào trong toa, còn cha tôi đang đưa mắt nhìn quanh tìm tôi.
Cha ơi! – tôi gào lên.
Cha tôi nhìn thấy tôi và tiến vài bước về phía tôi, nhưng ông ngập ngừng và đứng lại. Ông tái nhợt đi, môi ông run rẩy vì căng thẳng. Ông cố mỉm cười, bất lực, đau đớn, ông giơ bàn tay lên chào từ biệt như thể tôi đang lên đường đi vào nơi sống, còn ông đang chào tôi từ thế giới bên kia vậy. Rồi ông quay người và đến thẳng các toa xe.
Tôi húc hết sức vào vai các cảnh sát:
Cha ơi! Henryk! Halina!
Tôi gào như bị ma ám. Kinh hãi tưởng rằng lúc này, lúc sống sót cuối cùng này tôi không thể gặp được họ và chúng tôi sẽ chia lìa mãi mãi.
Một trong những tên cảnh sát quay lại và nhìn tôi giận dữ:
Mày tưởng mày đang làm gì hả? Xeó đi và tự cứu lấy cái thân!
Cứu lấy thân? Cứu khỏi cái gì kia? Trong chớp mắt tôi chợt hiểu điều gì đang đợi những người trong toa xe chở súc vật kia. Tóc tôi dựng đứng. Tôi liếc ra phía sau tôi. Tôi thấy biệt khu mở toang toác, những đường ray và sân ga, đàng xa hơn nữa là đường phố. Bị cơn sợ thú vật xua đuổi, tôi chạy tuột vào các con phố, lẻn vào giữa đội công nhân của Hội đồng đang rời chỗ làm và đi xuyên qua cổng theo đường này.
Lúc hoàn hồn tôi thấy mình ở trên vỉa hè giữa các toà nhà. Một tên SS cùng một cảnh sát Do Thái từ trong một ngôi nhà bước ra. Tên SS có bộ mặt dửng dưng ngạo mạn, tên cảnh sát ra sức xun xoe, vừa mỉm cười vừa đi sát bên cạnh. Hắn chỉ đoàn tàu đứng bên cạnh Umschalagplatz và nói với tên Đức bằng giọng suồng sã, thân tình và mỉa mai:
Đấy, bọn chúng đi để bị nấu chảy ra!
Tôi nhìn về hướng hắn chỉ. Cửa các toa tàu đã đóng chặt, con tàu bắt đầu di chuyển, chậm chạp và cần cù.
Tôi quay đi và loạng choạng đi xuống đường phố vắng tanh vắng ngắt. bật khóc, bị những tiếng gào khóc nhỏ dần của đoàn người bị nhốt trong toa đeo đẳng. Âm thanh ấy giống tiếng kêu rối rít của những con chim trong lồng gặp cơ nguy chí tử.