Chương Thứ Bảy
NGƯỜI TRÍ THỨC VỚI TỔ QUỐC

Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
Trích "Ngục trung nhật ký"
 
La poésie a combattu en première ligne
du drame, elle a eu ses morts ses saints,
ses héros et le combat continue, la
poésie fume encore comme une arme
qui vient de tirer.
 
Jean Cayrol
 
Quân đội chiếm ưu thế
Sau cách mạng Tân Hợi, năng lực lãnh đạo của Tôn Trung Sơn ngày một thấy thoái hoá. Đảng do ông dẫn dắt không tiến bộ gì hơn mấy ông quân phiệt miền Bắc cho nên không giải quyết được tình trạng cắt đất chia khu hùng cứ một phương làm nhiều anh hùng nhất khoảnh. Phần tử trí thức hoàn toàn thất vọng về thế vị lãnh đạo của họ Tôn. Nếu như phương thức lãnh đạo của Quốc dân đảng không cải biến để đánh dẹp quần hùng thì chẳng những đảng vỡ mà cách mạng cũng tiêu theo. Do tình thế này đã đưa lên địa vị chủ tể một nhân vật mới: Tưởng Giới Thạch.
Tưởng Giới Thạch ở trong Quốc dân đảng còn rất non tuổi đảng, tư vọng cũng chưa có gì đáng chú ý, nhưng nhờ đã học được những phương pháp tổ chức, huấn luyện quân đội từ Liên Xô, nhờ Tôn Trung Sơn cử làm hiệu trưởng đại học quân sự Hoàng Phố, ông đã gây dựng được cái vốn chính trị bằng lực lượng hợp thời thế nhất là quân đội cách mạng.
Trước khi Tưởng Giới Thạch bắt tay vào việc tổ chức thi quân đội chỉ là chuyện hữu danh vô thực. Quân đội rất ô hợp theo kiểu tụ tập giang hồ lưu khấu do các tướng bang hội chỉ huy.
Tưởng Giới Thạch thừa thụ chính sách bắt tay với Cộng sản của Tôn Trung Sơn, ông đi nước cờ đầu tiên nhằm loại ra khỏi đảng hoặc tiêu diệt thế lực của các trọng thần kỳ cựu ngoan cố từng phản đối Tôn Văn dung dưỡng Cộng Sản. Thanh niên trí thức vui lòng thưởng thức nước cờ đó. Được sự ủng hộ của phe tiến bộ, được C.S để yên không phá, Tưởng Giới Thạch gấp rút kiến thiết lực lượng bản thân bằng cách nắm toàn bộ quân lực.
Quân đội trường Hoàng Phố ban đầu chỉ có 2 trung đoàn, tuy nhiên với lối tổ chức, huấn luyện mới nên nó đã đứng bá chủ về phương diện tinh nhuệ. Thấy đã đủ sức Tưởng Giới Thạch đem quân đánh Trần Hướng Minh, Dương Hy Mẫn và Lưu Chấn Hoàn thống chiếm toàn cõi Quảng Đông qui vào một quyền lãnh đạo.
Làm chủ Quảng Đông rồi, Tưởng Giới Thạch mặc dầu trước kia dùng phương pháp Liên Xô để xây dựng quân đội, nhưng nay chủ khách đã ở tư thế khác nhau, nên Tưởng phải xem Cộng Sản như mối lo ngại hơn là một bạn đồng minh. Ngược lại C.S lúc hợp tác với Quốc dân đảng cũng là để nuốt luôn đảng này vào bụng. Nên khi thấy Tưởng Giới Thạch bành trướng thế lực, C.S liền đặt lại vấn đề hợp tác, vận động gây áp lực và xung đột âm ỷ nhóm lên. Hai bên chạy đua cướp thời cơ. Giữa lúc ấy thì một biến cố trọng đại xẩy ra. Liêu Trọng Khải bị ám sát chết, Hồ Hán Dân bị bức bách rời Quảng Đông và quân đội Hứa Sùng Trí bị tước khí giới. Ba người Khải, Dân, Trí đều đối lập kịch liệt với Tưởng Giới Thạch. Để cho khỏi cảnh nhất quốc tam công, phe Tưởng phải ra tay để mau nắm trọn quyền lực.
Sau biến cố thì xung đột quốc cộng từ âm thầm trong bóng tối chuyển ra gay gắt dưới ánh sáng. Tháng 3 năm 1926 hạm trưởng Lý Chi Long mang chiến thuyền từ Quảng Châu đến Hoàng Phố tung tin lật đổ chính phủ. Tưởng Giới Thạch điều động bộ đội bắt được tập đoàn Lý Chi Long, phong toả Quảng Châu, bố cáo giới nghiêm và quản thúc các đảng viên C.S.
Sự lanh lẹ ứng phó làm cho Tưởng Giới Thạch toàn thắng, thanh trừng CS gạt hẳn ra khỏi quân đội. Đến tháng 5 Tưởng triệu tập trung ương hội nghị đảng đưa ra đề nghị Chỉnh lý đảng vụ án(?) để hạn chế phạm vi hoạt động của Cộng sản đảng. Đề nghị quy định người Cộng sản không được quyền làm bộ trưởng các bộ thuộc trung ương đảng. Biết rằng lúc ấy Mao Trạch Đông làm đại lý bộ trưởng tuyên truyền bộ, Lâm Bá Cừ làm bộ trưởng bộ nông dân và Đàm Bình Sơn làm bộ trưởng bộ tổ chức.
Tưởng Giới Thạch tấn công tới tấp, đảng Cộng sản do Trần Độc Tú lãnh đạo nhẫn nhục nhận đòn cho nên sự hợp tác quốc cộng vẫn không hoàn toàn đổ vỡ, vì theo ý Trần Độc Tú, việc Bắc phạt dành cho Tưởng Giới Thạch.
Quyền hành vào trong tay họ Tưởng thì tính chất chính phủ cách mạng cũng biến đổi. Từ xưa quân nhân can dự chính trị vẫn là thể thức quân sự phụ thuộc chính trị. Nay Tưởng Giới Thạch đem chính quyền và quân quyền gộp làm một. Để tổ chức Bắc phạt, Tưởng giao cho bộ tổng tư lệnh cả quyền  hành ban bố chính lệnh.
Tháng 7 năm 1926 quân cách mạng khởi đầu công cuộc Bắc phạt. Tỉnh trưởng Hồ Nam đầu hàng và xin cải biên làm đệ bát quân. Quân Ngô Bội Phu bị quân cách mạng đánh bại ở Trường Sa. Tháng 9 quân cách mạng chiếm tỉnh Giang Tây, tháng 11 đánh Nam Xương.
Tình hình mới tạo ra thế mới cho hai phe Quốc cộng. Đảng Cộng sản lợi dụng tiến triển của quân sự để mở rộng vũ lực đảng, phát triển vận động công nông và triệt bỏ uy tín quốc dân đảng. Cố vấn quân sự Borodine thấy thanh thế Tưởng Giới Thạch tăng cao liền nghĩ cách ngăn trở kế hoạch quân sự. Tưởng biết vậy, ngoài mặt vờ nghe Borodine nhưng ông đã ngấm ngầm quyết liệt thi hành kế hoạch riêng. Thấy Borodine không ngăn trở được Tưởng Giới Thạch, đảng Cộng Sản liền kiến lập một trung ương là chính phủ Vũ Hán đối lập với chính phủ Nam Kinh.
Uông Tinh Vệ từ Pháp về Thượng Hải giữa lúc đe doạ phân liệt Quốc Cộng đang trầm trọng. Uông Tinh Vệ là một trong những người cách mạng tiến bộ từng ủng hộ Tưởng Giới Thạch chống phe bảo thủ. Tưởng Giới Thạch từ Nam Kinh tới Thượng Hải đón Vệ, gặp gỡ trình bày lý do và mời về Nam Kinh cộng tác chia đôi công việc, chính trị phần Uông Tinh Vệ, quân đội phần Tưởng Giới Thạch. Nhưng Uông tinh Vệ vốn dĩ là người thiên tả nên đã từ chối Tưởng và cộng tác với chính phủ Vũ Hán, gấp rút tổ chức đại hội đồng khai trừ Tưởng Giới Thạch. Khốn nỗi ở Vũ Hán chưa đầy hai tháng Uông Tinh Vệ đã hoàn toàn thất vọng. Đảng Cộng Sản dưới quyền điều khiển của một cán bộ quốc tế người Ấn tên là Roy có nhiều hành động khủng bố quá khích. Uông Tinh Vệ liền cùng Tôn Khoa, Đàm Đình Khải liên kết chống Borodine và Roy. Một số tướng lãnh khác theo Vệ mang quân giao chiến với Cộng Sản. Tháng 7 năm 1927 Uông Tinh Vệ chính thức tuyên cáo phân khai chính phủ Cộng Sản, chuẩn bị hợp tác với chính phủ Nam Kinh. Trong đàm phán giữa phe Uông với Nam Kinh có nhiều mối bất đồng khiến cho bộ đội theo Uông bắn nhau với quân Nam Kinh. Tình hình cực rối loạn. Để cứu vãn Uông Tinh Vệ phải đành điện mời Tưởng Giới Thạch về nước. Cùng một lúc, phe Tưởng Giới Thạch chuẩn bị đại hội đảng khai trừ Uông Tinh Vệ, kết tội Uông là phản quốc. Thất trận Uông Tinh Vệ đành xuất ngoại. Nội bộ quốc dân đảng thống nhất các tướng quy tụ quanh Tưởng Giới Thạch tiếp tục công cuộc Bắc phạt. Nội bộ C.S sau vụ Uông Tinh Vệ phân khai chia rẽ mâu thuẫn trầm trọng. Cuối năm 1927 Nhật Bản sai người ám sát Trương Tác Lâm ở Đông Bắc rồi phao vu cho Tưởng Giới Thạch, để dùng Đông Bắc quân ngăn chặn Bắc phạt. Nhưng Tưởng Giới Thạch đã mật sai Ngô Thiết Thành liên lạc với Trương Học Lương (con Trương Tác Lâm) cho biết hết âm mưu thâm độc của Nhật. Lương vỡ lẽ chịu theo Tưởng. Công cuộc Bắc phạt hoàn thành.
Chính trị tàn khốc và phần tử trí thức.
 
Hợp tác quốc cộng sau vụ Vũ Hán kể như kết thúc. Xung đột Quốc cộng mở đầu cho một giai đoạn tàn khốc. Tính chất quang minh lỗi lạc của thời kỳ cách mạng lãng mạn không còn nữa, đạo đức truyền thống không còn nữa. Toàn bộ sinh hoạt hiện tại chỉ là thanh toán ám sát. Giết chóc là chuyện cơm bữa, là thủ đoạn căn bản để tiêu trừ kẻ chống đối. Di huấn hoà bình phấn đấu của Tôn Văn không còn ai tôn trọng nữa. Ước Pháp lâm thời quy định chủ quyền Trung Hoa dân quốc thuộc toàn thể quốc dân với quyền tín ngưỡng, ngôn luận, kết xã tự do mà Tôn Văn hằng mong ước nay chỉ là hư ảo. Phần tử trí thức đấu tranh suốt từ Mậu Tuất chỉ là để thực hiện ước pháp, phần tử trí thức cổ võ Bắc phạt chỉ là để đuổi Viên Thế Khải cùng lề lối dân chủ bầu bán đút lót mà khôi phục ước pháp. Lẽ ra thành công trong công cuộc Bắc phạt rồi, quốc dân đảng phải tiếp tục thi hành ước pháp lâm thời. Nhưng tình thế chính trị thảm khốc tàn nhẫn giữa Quốc Cộng đã buộc Quốc dân đảng để tự vệ phải bóp chết dân chủ. Tổ chức chính phủ (tuy gọi là Quốc dân chính chủ) do trung ương uỷ viên hội Quốc dân đảng tự quyền quyết định, toàn dân  không được bàn cãi. Mọi quyền xuất bản, ngôn luận, kết xã v.v. đều bị “niêm phong”. Phần tử trí thức phẫn hận.
Chính phủ Quốc dân hạn chế quyền dân chủ chủ yếu nhằm quyết đấu một mất một còn với Cộng sản, dùng phương pháp cực quyền của CS đối phó với Cộng Sản. Đó là một đường lối không chính xác. Quyết liệt ban đầu dần dần biến thành độc đoán bạo ngược vì say sưa với quyền thế. Chính phủ quốc dân tự cô lập. Phần tử trí thức mất hết nhiệt tình đối với Quốc dân đảng, thái độ bất hợp tác của họ mỗi ngày thêm rõ rệt.
Hồ Thích lên tiếng chỉ trích trước nhất. Trong một bài nhan đề “Biết khó làm cũng không dễ” đăng ở tuần san “Tân nguyệt tạp chí” Hồ Thích đòi thảo luận công khai. Theo Hồ Thích thì ít lâu nay học thuyết Tôn Văn đã trở thành kinh điển và ngẫu tượng dùng cho chính sách áp chế. Quốc dân đảng cho rằng Hồ Thích đặt vấn đề như thế là một điều “phạm kỵ” liền hạ lệnh thộp cổ Hồ Thích. Dư luận công phẫn. Chính phủ Quốc dân đành lui bước. Từ đấy mà đi, người trí thức nào cũng cảm thấy chiếc cối đá vô hình đè nặng trên đầu. Cũng từ đấy mặc dầu chính phủ quốc dân tạm ổn định được tình thế, nhưng sự ổn định tạm ấy không bao giờ tiến bộ. Có ba lý do:
1) Vì học thuật tư tưởng không được phát triển nên không có tiến bộ.
2) Chiến tranh quốc cộng mở rộng binh hoạ liên miên, chính phủ dồn hết lực vào việc tiễu cộng nên các mặt khác bỏ ngỏ.
3) Tuy mang bề ngoài thống nhất nhưng trong nội bộ đảng, nội bộ chính phủ phân chia làm nhiều hệ phái. Chính phủ quốc dân lẩn quẩn trong mâu thuẫn và nội chiến.
Ba lý do trên ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tiến bộ của Trung Quốc, đồng thời cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tiến hành chiến tranh của Quốc dân đảng với Cộng sản.
Ép buộc tư tưởng học thuật không được tự do phát triển. Quốc dân đảng đã từ bỏ tư tưởng chiến. Không có tư tưởng đấu tranh thì không thể đánh bại C.S đến cội rễ. Bản thân Quốc dân đảng vì quá tin tưởng vào sức vạn năng của quân sự nên thua sút hẳn trên mặt đấu tranh tư tưởng.
Nội bộ Quốc dân đảng phân tranh đã làm giảm lực lượng quân sự tiễu cộng.
Trước Bắc phạt, Thượng Hải là nơi trăm đoá hoa tư tưởng đua nhau nở, văn hoá vô sản chỉ là một trong trăm đoá hoa đó, thanh thế đâu có mạnh bằng chủ nghĩa quốc gia. Đến Quốc công hợp tác sơ kỳ, quốc dân đảng bị Cộng Sản hóa, tả phái của Quốc đảng bành trướng. Quốc cộng chia tay, trên mặt quân sự C.S thua nhưng trên mặt văn hoá C.S đạt được nhiều thắng lợi khả quan. Ở Thượng Hải các đoàn thể văn hoá C.S có Thái Dương Xã, Sáng Tạo Xã. Hai đoàn thể này đệ tam quốc tế dùng làm trung tâm phát huy chủ nghĩa Mác Xít. Các cán bộ sang thụ huấn tận Liên Xô rồi về tổ chức các Xã đoàn tả khuynh. Văn hoá tả khuynh do đó mọc lên như nấm. Cộng Sản triệt để nhanh chóng lợi dụng nhược điểm chỉ trọng quân sự chính trị, khinh thường văn hoá của Quốc dân đảng để khoáng triển thế lực. Thanh niên trí thức trước kia tin tưởng dân chủ khoa học, nay họ tin tưởng giai cấp chuyên chính và duy vật sử quan. Phần tử trí thức lãnh đạo lâm vào cảnh “mây dầy mà không mưa” ưu uất, nên thoái rút khỏi hiện thực sống cuộc đời ẩn sĩ như Lâm Ngữ Đường, Chu Tác Nhân v.v.
Sau hai năm ráo riết hoạt động thu hoạch nhiều thắng lợi, Cộng Sản liền đổi hình thức để thống nhất lực lượng. Mở đầu Cộng Sản thành lập Trung Quốc Tự Do đại đồng minh do Lỗ Tấn, Điền Hán, Hựu Đạt Phu điều khiển. Rồi đến Liên minh các nhà văn tả phái do Lỗ Tấn, Mâu Thuẫn, Phùng Tuyết Phong cầm đầu. Rồi đến hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác Xít, Hội nghiên cứu văn hoá Quốc tế, hội nghiên cứu văn hoá đại chúng. Các hội đoàn kể trên có cả thẩy 20 tờ báo vừa hàng ngày, vừa hàng tuần, hàng tháng.
Trong khi ấy, Quốc dân đảng hoàn toàn không có lấy một sách lược đấu tranh tư tưởng. Để đối phó Quốc dân đảng chỉ dùng quyền hành bắt bớ, cấm chỉ lưu hành hoặc dùng đặc vụ thủ tiêu, đốt phá. Kết quả chẳng dành được hiệu lực đáng kể nào hết. Thấy liên minh tả phái thành lập, bấy giờ Quốc dân đảng mới vắt ra khẩu hiệu văn học dân tộc để chống phái Tả.
Văn học dân tộc là trận chiến văn hoá đầu tiên của Quốc dân đảng với Cộng sản.
Dân tộc chủ nghĩa văn học đuợc Vương Bình Lăng, Hoàng Chấn Hà, Chu Ứng Bằng, nhóm này đưa ra trong bản tuyên ngôn vận động văn nghệ dân tộc Trung Quốc. Chủ trương ý nghĩa tối cao của văn nghệ là dân tộc chủ nghĩa, bác bỏ chủ nghĩa quốc tế của tả phái. Dân tộc chủ nghĩa dễ được mến chuộng thứ nhất là đối với dân tộc đã nhiều lần bị ngoại nhân bức chế. Tả phái biết thế nên khai hoả tấn công ngay, họ gọi những người công tác văn học chủ nghĩa cùng hai tờ báo Tiền phong nguyệt báo và Văn nghệ nguyệt báo là cơ cấu văn nghệ của giai cấp thống trị. Họ nói nhiệm vụ của văn học dân tộc chủ nghĩa là đem chôn văn nghệ do chính phủ quốc gia thuê mướn.
Viên đại tướng cầm quân đánh phá dân tộc văn học là Lỗ Tấn ông tung ra một đòn chí mạng gọi vận động văn học dân tộc chủ nghĩa của bọn Lăng Hà Bằng là vận động nhằm tiêu diệt văn học cách mạng. Mặc dầu tứ diện thụ địch, vận động văn học chủ nghĩa cũng gây sôi nổi một ít lâu. Tiếc thay, Quốc dân đảng đánh trống bỏ dùi không tiếp tục lăn vào trận chiến văn hoá lợi hại này. Lại cái tệ khác nữa, Quốc dân đảng chỉ đối đãi với những người công tác văn hoá bằng cử chỉ coi như một thứ “chó thả trong nhà” (chien en laisse) nên hàng ngũ của Vương Bình Lăng vì thế mà vắng vẻ. Phần tử trí thức Quốc dân đảng sau khi tranh đoạt được chính quyền rồi thì chỉ nghĩ đến ra làm quan. Khác hẳn với trước, từ Tân Hợi đến Bắc phạt, Quốc dân đảng coi mặt trận văn hoá là trọng, Uông Tinh Vệ, Ngô Trĩ Huy, Vu Hữu Nhiệm từng là những người vang tiếng trong mặt trận này. Bây giờ họ coi nhẹ văn hoá và mải mê với tranh đoạt quyền bính. Còn lại Trương Thái Viêm thì Viêm lại lên mặt chính thống không coi ai ra chi, mà nhất là không chịu chấp nhận tư tưởng đấu tranh.
Sinh hoạt của phần tử trí thức toàn quốc vì trạng thái hỗn loạn nghi kỵ nên không tiến bộ, vì áp lực chính trị nặng nề nên đại chúng cũng hết dục cầu học hỏi. Chính sách của chính phủ cấm các ấn phẩm cổ động cho Tự do, khiến cho món ăn tinh thần thiếu hụt. Phần tử trí thức quá bốn mươi đi tìm món ăn đó qua Tam Quốc Chí diễn nghĩa, Tây Du Ký và thanh niên trí thức thì vùi đầu vào dâm thư, văn học phấn hương, hồ điệp.
Nội chiến mỗi ngày mỗi lan rộng làm cho kinh tế kiệt quệ, dân chúng nghèo đói làm mồi cho Cộng dụ hoặc. Chỉ với thời gian rất ngắn, Cộng sản đã kiến lập được bốn căn cứ địa quân sự mới ở Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Tây, Hồ Nam. Tại các thành thị sự nghiệp sản xuất đình trệ. Tại nông thôn, do chiến tranh, do thiên tai có chừng 50 triệu người lưu ly không nhà không cửa.
Mực đọng trong nghiên sầu.
 
Đề đốc Nhung tay sai của Lê Hoan lập công với Pháp vây bắt cánh tay mặt của lãnh tụ Cần Vương là Nguyễn Cao. Khi giải Nguyễn Cao đến trước mặt các quan tây và nam trong đó có Hoàng Cao Khải, hội đồng dụ dỗ hứa bổ chức lớn nếu chịu ra làm quan, ông Nguyễn Cao từ chối. Hội đồng lại cho đem hình cụ tra tấn ra để doạ nát. Ông Nguyễn Cao mỉm cười nói:
- Tôi đâu có sợ chết, sẽ có cách tự xử khỏi phiền ai.
Nói rồi Nguyễn Cao thò tay vào trong áo lấy mảnh sứ đã giấu sẵn mạnh tay khoét rốn, rút ruột ra vứt lên mặt họ Hoàng rồi chửi rủa tên việt gian thậm tệ, làm cử toạ vừa xấu hổ vừa kinh hoàng. Một lát sau miệng Nguyễn trào máu ra, Nguyễn đã cắn lưỡi tự tử.
Các nhà nho làm cách mạng chống Pháp cứ lần lần bị bắt. Cả một thế hệ trí thức tàn lụi dần, văn hoá cũ lùi vào dĩ vãng. Nho sĩ chỉ còn là một hình ảnh buồn thảm như bài thơ ông đồ (của Vũ Đình Liên)
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bầy mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Văn minh và văn hoá Tây phương tràn vào làm thành phong trào Tây hoá. Ngoài khuynh hướng Tây hoá theo đường lối Phạm Quỳnh, đồng đẳng với bình đẳng, thuần tính chất tay sai phản bội dân tộc, có một khuynh hướng khác xuất hiện với sự hình thành của tư sản thành thị và sự tiếp xúc với văn học phương tây từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đó là khuynh hướng lãng mạn trên văn học. Trước hết là cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Đạm Thuỷ học trường Cao đẳng, có nhiều thơ văn đăng báo, Tố Tâm đọc sách nhiều say mê thơ văn, qua thơ Tố Tâm đã cảm phục Đạm Thuỷ trước khi hai người biết nhau. Vì một sự tình cờ hai bên gặp nhau và yêu nhau. Tình yêu càng ngày càng nặng, nhưng không có lối thoát vì Đạm Thuỷ đã hỏi vợ và không muốn làm trái ý cha mẹ. Rồi Tố Tâm có người môn đăng hộ đối dạm hỏi, mẹ nàng ưng gả. Nhân lúc bà bệnh nặng, bà buộc nàng phải nhận lời. Cưới xong, Tố Tâm ốm, hơn một tháng sau nàng chết, để lại cho Đạm Thuỷ một tập nhật ký thống thiết, chép từ ngày Tố Tâm sửa soạn về nhà chồng cho tới ngày nàng chết.
Hoàng Ngọc Phách xuất thân từ một gia đình nho giáo, thuở thiếu thời ông học chữ Pháp tốt nghiệp trường Cao đẳng. Hoàng Ngọc Phách cũng như hầu hết thanh niên trí thức phương Đông buổi đầu tiếp xúc với Tây phương văn hoá, đều say mê chủ nghĩa tự do luyến ái. Cho nên cuốn Tố Tâm đi tiên phong trong công cuộc Tây hoá văn học cũng là điều chẳng đáng ngạc nhiên.
Tuy nhiên có điểm khác biệt là Tố Tâm mang tính chất hoàn toàn tiêu cực, không tích cực như những tác phẩm cùng đề tài này của Ba Kim, Trầm Nhạn Băng v.v. bên Trung Quốc. Tố Tâm đau khổ đánh buông xuôi, không phản ứng giống như Tuyết hồng lệ sử của Từ Trẩm Á, nghĩa là phảng phất nỗi lòng tuyệt vọng của kẻ vong quốc (Từ Trẩm Á viết Tuyết hồng lệ sử đang lúc nhà Thanh còn cai trị). Trong khi những cuốn Gia, Thu Xuân của Ba Kim và Hũ Trùng, Dạ Tử của Trần Nhạn Băng viết sau lúc Bắc phạt hoàn thành. Văn học lãng mạn Việt Nam ngay từ đầu đã tỏ ra bản chất yếu đuối.
Thất bại Yên Bái
 
Sau khi tiếng súng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất ngừng nổ chưa được bao lâu thì đế quốc Pháp thi hành ở Đông Dương chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai để mong hàn gắn các vết thương chiến tranh tại chính quốc. Chúng đẩy mạnh việc đầu tư vào Đông Dương, tăng cường chiếm đoạt ruộng đất, dùng hàng rào quan thuế để độc chiếm thị trường. Tiếp đó năm 1929 lại nổ ra một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong toàn bộ hệ thống tư bản các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, đời sống của dân chúng càng ngày càng đen tối cơ cực. Mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc thực dân và tay sai ngày càng sâu sắc.
Sau vụ giết hụt toàn quyền Merlin, tại hải ngoại cũng như trong nước xuất hiện nhiều tập đoàn chính trị phôi thai và một số chính đảng như:
- Đảng Lập Hiến
- Việt Nam nghĩa đoàn
- Hội Hưng Nam
- Thanh niên Việt nam đảng
- Đảng Việt Nam độc lập
Nhưng đáng kể nhất là hai đảng:
Việt Nam thanh niên đồng chí hội
và Việt Nam quốc dân đảng.
Việt Nam thanh niên đồng chí Hội là tiền thân của đảng Cộng sản, hoạt động truyền bá tư tưởng Mác xít.
Việt Nam Quốc dân đảng mặc dầu đã có một mớ kinh nghiệm từ các cuộc đấu tranh trước mà vẫn không khỏi đi vào con đường phiêu lưu. Những lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng chỉ có tinh thần dũng cảm hy sinh với cái ý nguyện không thành công thì thành nhân, nên liều khởi nghĩa hơn là khởi nghĩa có nghiên cứu khoa học. Cuộc bạo động Yên Bái nổ ra từ một tình thế đang tan vỡ của Việt Nam Quốc dân đảng, giữa lúc mà kẻ thù đang khủng bố, bắt bớ ráo riết. Sự thất bại hầu như là tất nhiên. Sự thất bại của Việt Nam là sự thất bại của trí thức và giai cấp tư sản khi đương đầu với đế quốc về chính trị, quân sự. Sự thất bại này đã mở cửa cho tư tưởng Cộng sản tràn vào nắm trọn quyền lãnh đạo đấu tranh. Năm 1930 là năm 13 nhà ái quốc Việt Nam Quốc dân đảng lên máy chém thì cũng là năm đảng cộng sản thành lập.
 
Bao kinh nghiệm, từ vận động văn học đến bạo động rồi lại từ bạo động trở về vận động văn học ngót 40 năm cho biết tất cả nguyên nhân thất bại chỉ là thiếu hệ thống lãnh đạo thích hợp với sứ mệnh lịch sử và thời đại. Đến Việt Nam Quốc dân đảng vẫn vấp phải lỗi trên, nghĩa là quá hấp tấp với bạo động, bạo động không được chú trọng bằng một cuộc cướp chính quyền có kế hoạch trên chính trị, trên quân sự, trên kinh tế với hệ thống tổ chức cơ sở vững vàng. Bạo động đối với Việt Nam Quốc dân đảng chỉ chú trọng gây phong trào yêu nước từ vài điểm ra toàn cõi với chút hy vọng thắng lợi không bao giờ chắc chắn. Nền tảng cho VNQD đảng cách mạng là:
 
- Nhân quyền dân chủ cách mạng 1789.
 
- Tam dân chủ nghĩa kèm theo một câu phương châm là: làm cách mạng dân tộc trước rồi làm cách mạng thế giới sau.
 
Tuy lấy những tư tưởng trên làm nền tảng, nhưng tuyệt nhiên trên hoạt động Việt Nam Quốc dân đảng đã không hề tổ chức một cơ sở đấu tranh văn hóa để phổ biến, giáo dục hay phát huy những tư tưởng đó. Người ta không thấy một văn kiện hay tác phẩm nào, dù bí mật hay công khai mổ xẻ lý luận hoặc tìm cách áp dụng cho hợp với hoàn cảnh. Ngay ở tầng lãnh đạo, đối với tư tưởng nền móng cũng mỗi người đi theo một hướng riêng, tự tìm hiểu và giải đáp lấy cách mạng Pháp và cách mạng Tân Hợi, Tam dân chủ nghĩa. Đến như phương châm làm cách mạng dân tộc trước, làm cách mạng thế giới sau thì lại là vu vơ bắt nguồn từ chủ nghĩa Tam dân mà không có luận cứ gì cả. Nói về văn học, Việt Nam Quốc dân đảng bấy giờ chỉ cho lưu truyền một số văn thơ u hoài bi ai hoặc hùng tráng phát xuất từ tinh thần yêu nước, từ cảm khái vong quốc. Tuyệt nhiên không có một lý luận nào dành cho đấu tranh, dành cho giáo dục huấn luyện, dành cho chiến lược chiến thuật, dành cho sự đặt mọi vấn đề thực tiễn của cách mạng. Lác đác một vài văn phẩm nói về chủ nghĩa Tam dân thì chỉ là những bản dịch y nguyên văn không dẫn giải phê phán cặn kẽ. Thiếu phấn đấu văn hóa nên hàng ngũ rất yếu về mặt tư tưởng, lý luận. Thiếu lý luận nên hành động lệch lạc không thống nhất. Mỗi nhóm theo đường lối riêng tự mình đặt ra.
 
Trong khi ấy thì nhu cầu chỉnh thể cho sinh hoạt văn hóa dân tộc thời đại càng thêm bách thiết, các giá trị đã bị băng hoại, mặc dầu đã trải mấy thời Duy Tân và Tây Du nhưng vẫn chưa khôi phục lại được mà còn mỗi ngày mỗi rạn nứt hơn lên, do ảnh hưởng của những nguồn tư tưởng từ khắp nơi cùng những vụ biến động tại các nước láng giềng.
Quyết định khởi nghĩa liều lĩnh tất nhiên thất bại. Trong khi vì bị khủng bố, các cơ sở của đảng tan vỡ, lực lượng rời rạc, đánh liều một trận không thành công thì thành nhân, Việt Nam Quốc dân đảng đã lưu lại cho lớp người sau một bài học xương máu vô cùng quí giá nhưng lại chỉ có rất ít phần tử cách mạng quốc gia dân tộc thâu lượm được. Việt Nam Quốc dân đảng tan vỡ dần mòn để lại một “trống rỗng” trên chính trị, trên đấu tranh cách mạng. Lợi dụng những điều kiện khách quan thời đó, dựa vào mối liên hệ ruột thịt với đảng Cộng sản Pháp, đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nhanh chóng bù đắp vào chỗ trống rỗng đó.
 
Bách gia tranh minh
 
Ngày 3 tháng 2 năm 1930 đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, chia sự học hỏi Tây phương ra làm hai đường: đường dân chủ tư sản và đường Mác xít vô sản. Chia chính trị ra làm hai khuynh hướng: Quốc gia và Cộng sản. Đảng Cộng sản thành lập cũng mang đến một lề lối đấu tranh mới mẻ như các phong trào Sô Viết Nghệ An, chống sưu chống thuế ở Hà Tĩnh gọi là những phong trào công nông.
 
Cuối năm 1931, thực dân Pháp tổ chức cho Bảo Đại hồi loan và tuyên truyền ầm ĩ cho cái gọi là chương trình cải cách của Bảo Đại, đồng thời chúng cũng gieo rắc đồi phong bại tục, tổ chức các sòng bạc, mở thêm các tiệm nhảy, nhà chứa. Nhớ lại khi Khải Định trao Bảo Đại cho người Tây đem về Pháp đào tạo có nói: “Đây là đứa con của tôi, mai sau sẽ kế nghiệp tôi mà cầm giềng mối nước tôi. Xin nhờ các ông đào tạo cho nó sao thì chúng tôi được nhờ vậy”. Nay thực dân Pháp đem Bảo Đại về để đào tạo một phong khí chính trị mới thì phong khí ấy chẳng qua cũng vẫn tiếp tục là phong khí chịu vỗ về yên phận mất nước. Phong khí mới của Bảo Đại chỉ có bọn thư lại tay sai là hoan nghênh hết mình mà thôi. Phần tử trí thức yêu nước chẳng vui chút nào.
 
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã chấm dứt cái trò hề Pháp Việt đề huề nhưng nó cũng làm cho một số trí thức Tây học (tư sản) e dè với sự đương đầu đế quốc bằng những cuộc bạo động. họ quay sang đấu tranh chống phong kiến về mặt văn hóa lễ giáo. Tự lực văn đoàn xuất hiện đấu tranh cho quan niệm tự do luyến ái, đả kích chế độ đại gia đình và lễ giáo phong kiến, đề cao chủ nghĩa cá nhân tư sản. Tự lực văn đoàn cũng đem những hủ tục ở nông thôn ra chế giễu.
 
Phần tử trí thức trong Tự lực văn đoàn trên phương diện đấu tranh măc dầu có cái vỏ bài bác phong kiến thư lại, nhưng bên trong mầm mống xu hướng thoát ly thực tế đấu tranh mọc lên quá nhanh, đưa dẫn thanh niên trí thức trốn tránh vào thế giới của tình yêu lãng mạn. Họ đã vui chân đuổi theo nàng nghệ thuật của nghệ thuật bằng những chủ nghĩa bướm trắng, hồn bướm mơ tiên. Hai tác phẩm chứa đựng ý tứ khích lệ cách mạng như cuốn Tiêu sơn tráng sĩ, Đôi bạn mà cũng vẫn đầy tính chất tiêu cực thoát ly thực tế. Đành rằng thứ văn học cách mạng (Romantisme révolutionnaire) rất cần thiết cho sự khích lệ nhưng nếu nó cứ duỗi dài mãi vào tính chất tiêu cực thì chẳng mấy lúc nó sẽ tạo điều kiện cho tính chất suy đồi nảy nở. Quả như vậy, văn học lãng mạn càng đi vào con đường bế tắc khiến cho các khuynh hướng suy đồi nảy sinh ra rất nhiều. Có khuynh hướng muốn thoát ly hiện tại để trở về cái dĩ vãng được lý tưởng hóa, có khuynh hướng đi vào con đường trụy lạc tự hủy hoại cuộc đời bằng rượu mạnh, ma túy. Họ không biết gì đến những mâu thuẫn đang gay gắt diễn ra trong xã hội trong cũng như ngoài nước. Tác phẩm của họ vẫn quanh quẩn với những chủ đề chống lễ giáo phong kiến, đề cao chủ nghĩa cá nhân.
 
Nhóm Tự lực văn đoàn cùng những phần tử trí thức theo họ trên phương diện cầu tiến bộ đã vô tình cùng bọn thư lại thông ngôn chia người trong nước thành hai thế giới với hai hệ thống tâm trạng khác nhau như hành tinh này với hành tinh kia. Giáo sư Paul Mus viết: Trong khi nông dân cố chống Pháp cho thấy Việt khác với Pháp thì trí thức lại đấu tranh cho mình được giống Pháp. Giáo sư Kim Định viết: “Cái thảm trạng của nước ta chính là ở chỗ đó. Từ đấy trí thức trở thành đầu không có thân. Ngược lại nông dân là thân không đầu. Thôn dân với thị dân mỗi ngày không thể hiểu nhau vì không cùng ngôn ngữ." Hãy đọc thêm đoạn dưới đây trích dẫn lời giáo sư Kim Định viết trong cuốn “Căn bản triết lý trong văn hóa Việt Nam”:
“Thấy xã hội Tây Âu tiến bộ văn minh cường thịnh thì giới trí thức trưởng giả trăm người như một đều cho triết học lý niệm là căn do của sự tiến bộ kia. Cho nên dần dần trí thức đô thị ngộ nhận mọi giá trị cổ truyền, cho thôn dân là không biết chi đến Tự Do, đến quyền lợi. Và từ đấy trí thức khởi đầu miệt thị Nho giáo”.
Ông Paul Mus nhận xét: Trong Âu hóa người trí thức Việt Nam, khi nhận họ đứng vào hàng với ta, ta đã phá vỡ cơ cấu tinh thần của họ, quan niệm cổ truyền của họ và đặt lối xử thế cũng như chính bản thân họ ra khỏi môi trường xã hội đã hun đúc nên họ. Thế mà xã hội đó không sống bằng ý niệm trừu tượng, trái lại cả những quan niệm rất triết lý của họ không bao giờ xa lìa cơ cấu kinh tế, chính trị, gia đình xã thôn, nhưng tất cả bấy nhiêu đều thích nghi vào một cơ cấu, một vũ trụ quan phát xuất tự đáy lòng mà Nho giáo là một sự biểu lộ cao nhất và chính thức nhất. Một khi đã cất mất lòng thâm tín vào những ý tưởng đó của Nho giáo thì toàn hệ thống không thể đứng nổi… Thế là Nho giáo tàn dần không còn nữa để mà tiêm sinh lực thiêng liêng cho các thể chế nên những thể chế này dễ đốc ra tệ đoan, trở thành dụng cụ khai thác thôn dân phụng sự cho sự lớn mạnh của nền văn hóa đô thị. Ngọn lửa nhân ái hết được đôn hậu ngàn(?) dần đi để trở thành đống tro tàn sau lũy tre xanh. Nếu mất phần ruộng công điền kể như mất phần “đất chở” thì giết chết Nho học kể như phá mất “trời che”. Người trên đã không còn học đạo thuật, không còn đôn hậu tình người bằng lễ nhạc, bằng giảng học, thì lễ gia tiên còn lại có phần thiển cận thuộc giai đoạn bái vật và bao nhiêu cái đẹp xưa trở thành hủ tục sinh ra những tệ lạm đủ đề tài cho Tự lực văn đoàn khai thác, cho trí thức chê bai dè bỉu. Văn hóa thôn dân sắp bị gọi bằng danh từ miệt thị là nhà quê. Nhà quê không phải là người (hiểu là cá nhân) mà chỉ là những thực thể bị nuốt trôi vào toàn thể.
 
Ông Paul Mus viết: Trí thức không còn nhận định nổi được, là thôn dân thích bị nuốt trôi vào cộng thể, vì nó không là đoàn lũ, nhưng là cộng thể đầy ắp tình người, nên đi đâu mặc lòng vẫn không sao quên được nơi quê tổ, nơi có bàn thờ tiền nhân. Những cu li làm trong các đồn điền được dư đồng nào hầu hết gửi về nhà. Và sau hết hạn khế ước thì liền trở về với quê cũ, bỏ lại nơi đồn điền cái nhà đẹp hơn nơi quê hương, bỏ lại người vợ tạm mà thói tục cho phép lấy trong lúc đất khách quê người trước sự ngạc nhiên của người Tây phương, của trí thức trưởng giả đô thị. (trích trang 65, 66,67).
o0o
 
Sau một thời gian, văn học lãng mạn mất ưu thế trên trận doanh văn học với sự phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán. Phong trào này chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác xít, hàng ngũ văn học hiện thực có: Đặng Thái Mai, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, v.v… Những tác phẩm đầu tiên của phái hiện thực phê phán như Bước đường cùng, Giông tố, Tắt đèn, Bỉ vỏ rất được quần chúng ham thích. Các tiểu thuyết của phái hiện thực phê phán đều được sáng tạo trên căn bản ý thức phản kháng của kẻ bị áp bức và bóc lột. Đồng thời họ cũng đưa ra một đường hướng văn học mới. Lên tiếng cổ võ cho đường hướng mới này lớp tiền phong có Hải Triều Nguyễn Khoa Văn. Trong bài “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” Hải Triều viết:
Nhà nghệ sĩ duy tâm bao giờ giải thích đến nghệ thuật thời cho là những cái sản vật thần bí mầu nhiệm của đấng thiêng liêng. Vì thế nên họ cho nghệ thuật có cái tính chất siêu phàm huyền diệu không quan hệ đến xã hội, không dính dáng đến nhân sinh. Họ cao hơi lớn tiếng đề xướng thuyết: nghệ thuật thuần túy (l’art pur) nghệ thuật thần tiên (l’art olympien) hay nghệ thuật vị nghệ thuật (l’art pour l’art)…
Trái với nghệ sĩ duy tâm, chúng tôi bao giờ cũng chủ trương nghệ thuật là một cái sản vật của sự sinh hoạt xã hội…
Tôi muốn đưa đây một ít chứng cớ mà tôi đã vội vàng sưu tập để chúng ta thấy rõ các nhà văn sĩ Tây phương, người ta vẫn chủ trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nhân sinh.
Taine trong bản sách triết lý của nghệ thuật nói rằng: Nhà nghệ sĩ với quần chúng là một, nhà nghệ sĩ không thể là hạng người biệt lập.
Diderot bảo chúng ta rằng: Nghệ thuật phải có cái nhiệm vụ ca tụng những công nghiệp lớn lao, tốt đẹp, bênh vực cái lẽ phải, công kích sự đồi bại, chống chọi với đứa hung bạo.
Trong bản sách chúng ta phải làm thế nào? Tolstoi nói: Loài người đang gặp biết bao nhiêu sự khổ sở đau đớn rất tội nghiệp, ai có thời giờ đâu mà ngao du đùa bỡn. Nhà nghệ sĩ hay nhà tư tưởng không bao giờ ngồi trên đỉnh núi thần tiên, họ phải luôn luôn ở trong cảnh hoạt động chan chứa cảm tình. Họ phải chỉ cho loài người thấy con đường giải thoát những sự khốn khổ ngày nay và tìm ra những cái tốt đẹp mới mẻ hơn.
Tôi muốn để nguyên một câu chữ Tây mà tôi không dịch sợ mất cái ý nghĩa hay của nó đi:
Le vrai art est l’ expression de la connaissance de la mission et du vrai bien de tous les hommes.
..................................................
Quách Mạt Nhược, một nhà văn sĩ về phái mới ở nước Tàu trong bài học "Dữ giai cấp đấu tranh" có câu: nghệ thuật là gì? Nghệ thuật là cái biểu hiện của nhân sinh. Câu ấy thật đúng. Không biểu hiện được nhân sinh thì không thành nghệ thuật nữa. Bao nhiêu sự thăng trầm biến chuyển trong xã hội, về kinh tế, về chính trị đều gián tiếp hay trực tiếp ảnh hưởng vào nghệ thuật…
Khi nghệ thuật dần dần xu hướng về mặt thần bí, huyền hoặc v.v…, nhà nghệ thuật chẳng những không khai sáng lại trở lại mê hoặc quần chúng. Nhà nghệ thuật hóa ra một người thù của quần chúng. Ông Tolstoi cho là “bọn cướp văn nghệ” (forbans de l’art) thật đáng kiếp.
Bên cái nền nghệ thuật phản nhân sinh ấy, phản tiến hóa ấy ngày nay chúng ta thấy nhóm lên những nghệ thuật mới, tự lấy cái trách nhiệm diễn tả tình cảm tư tưởng của quần chúng và đề cao sự sinh hoạt của xã hội về tất cả mọi phương diện vật chất và tinh thần… Giữa cuộc phân tranh của xã hội trước những vấn đề sống còn của thời đại, nhân loại đương mong mỏi về phương diện tinh thần một hạng nghệ sĩ biết diễn dịch được nỗi lòng của họ, làm sao mà những sự đau thương, sự mong mỏi, sự buồn giận, sự vui sướng trong tâm khảm họ đều vẽ thành những bức tranh linh hoạt chan chứa cảm tình. Trái lại ai lấy nghệ thuật làm món chơi riêng, lấy nghệ thuật làm nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm bùa mê người đều là vô tâm hay hữu ý đã nối giáo cho những lực lượng phản tiến hóa. Hạng nghệ sĩ ấy là hạng nghệ sĩ gian trá, hạng nghệ sĩ quái quỉ vậy (đăng trong T.T.T.B năm 1935).
Sau Hải Triều có Đặng Thái Mai, Trường Chinh tiếp nối, dùng nhãn quan Mác xít xây dựng đường hướng văn học để sau này biến nó thành trào lưu văn học cách mạng của giai cấp vô sản. Văn học lãng mạn bị tấn công lùi dần vì lẽ nó không đáp ứng được nhu cầu đấu tranh mỗi ngày càng gay gắt của chính trị.
Trung Nhật chiến tranh
Sự biến ngày 18 tháng 9-1931
Từ khi chế độ dân quốc thành lập, vấn đề của Trung Quốc là: đối ngoại với Nhật Bản và đối nội với đảng Cộng sản. Trong sự đan kết phức tạp của hai mặt đấu tranh ấy khiến cho Trung Quốc không lúc nào ngớt chiến tranh.
Chính phủ Nam Kinh coi việc tác chiến với đảng Cộng sản làm công tác chủ yếu.
Chủ nghĩa đế quốc Nhật phát động chiến tranh xâm lược vào Trung Quốc qua nhiều mặt và cũng có nhiều nguyên nhân. Đại lược kể như sau:
1) Từ năm 1929, do kinh tế khủng hoảng các nước tư bản Âu Mỹ ở vào tình trạng nguy ngập. Công nhân thất nghiệp lên tới con số 20 triệu người. Nửa thế giới rơi vào cục diện ảm đạm. Nhật Bản lợi dụng thời cơ đó sử dụng chiến tranh xâm lược để tìm một xuất lộ. Dựa vào địa thế tiếp cận Trung Quốc, dựa vào những đặc quyền kinh tế sẵn có, Nhật Bản quyết tâm xâm lược quy mô.
2) Không thể để cho Tưởng Giới Thạch thung dung hoàn tất công cuộc thống nhất Trung Quốc.
3) Nắm ngay cơ hội Trương Tác Lâm mới chết, Trương Học Lương hãy còn bỡ ngỡ với chính quyền Đông Bắc.
4) Nạn lụt lội khiến chừng 50 triệu người lưu ly. Chính phủ Nam Kinh phải cực nhọc đối phó với vấn đề xã hội quá nặng nề đó.
5) Nhật đem phi cơ oanh tạc mấy nơi và phao vu là quân đội Trung Hoa phá hủy rồi lấy cớ đem quân oanh kích Phàn Dương Thành vào ngày 18 tháng 9. Ngày 19, Nhật chiếm đóng hai binh công xưởng lớn nhất T.Q. ở Phàn Dương thành.
 
Sự biến 18-9 xảy ra, quân số Đông Bắc có tới 10 vạn người mà không hề phản kháng. Lý do: vị chỉ huy trẻ tuổi Trương học Lương còn đang mải mê với rượu ngon gái đẹp.
 
Nhật bèn làm tới, chia binh chiếm giữ thêm nhiều nơi khác.
 
Chính phủ Quốc dân Đảng im lặng, hy vọng vào sự tài phán của công lý quốc tế.
 
Thái độ nhân nhượng, im lặng của Chính phủ Quốc dân đảng đã làm cho uy tín chính trị sút giảm ghê gớm. Đây là cái lầm lỗi hết sức to tát trong đời chính trị của Tưởng Giới Thạch. Lẽ ra, nếu không phát động chiến tranh toàn diện ngay, nhưng ít nhất cũng phải đánh trả để giữ uy tín chính trị mới phải. Kết quả, thái độ im lặng nhân nhượng của chính phủ Nam Kinh làm cho Nhật được thể rộng rãi hơn. Tháng 10, Nhật tràn quân xuống Hắc Long Giang, tháng 11 chiếm Cẩm Châu. Quốc quân đóng ở Cẩm Châu kháng cự lẻ tẻ. Chính phủ Nam Kinh kêu gọi Hội Quốc Liên can thiệp, và yêu cần thiết lập một khu vực trung lập tại Cẩm Châu. Nhật Bản chẳng thèm ngó ngàng đến phản ứng của hội Quốc Liên, thúc quân đánh bừa. Hội Quốc Liên lúc này đã quá yếu, khoanh tay nhắm mắt mặc kệ Nhật khiêu khích. Còn tập đoàn Tưởng Giới Thạch vẫn một mực tin tưởng vào hành động gìn giữ công đạo của Hội Quốc Liên. Trong khi ấy thì toàn dân lòng yêu nước sôi lên, uất hận quốc sỉ tràn ngập. Quốc dân bực bội khó chịu vì hình như chính phủ Nam Kinh do một lý lẽ chính trị nào đó không muốn tuyệt giao với Nhật Bản. Bởi vậy, trên vấn đề cứu nước, quốc dân và chính phủ trông nhau qua hai vị trí đối lập. Trong chính phủ và trong giai cấp đặc quyền công thương giới, lưu hành chủ nghĩa thất bại, thường so sánh lực lượng rồi kết luận nếu đánh nhau với Nhật ngay là thua. Nhưng quảng đại dân chúng nghĩ khác: mất Đông Bắc cũng chẳng khác gì mất Trung Quốc, phải rửa hận thà ngọc nát còn hơn ngói lành.
 
Phần tử trí thức nghĩ sao?
 
Đa số tới chín mươi phần trăm chủ trương đánh Nhật, chính sách nhẫn nhục cầu toàn của Chính phủ hoàn toàn cô lập. Ngoài số ít người kinh doanh công thương nghiệp ra, chính phủ không còn ai là người bạn đường nữa. Phần tử trí thức nhận rõ chính sách xây dựng trên quyền lợi và lý trí đảng. Trước mắt Quốc dân đảng lúc đó, chỉ có đảng Cộng sản mới là mối nguy căn bản, cho nên Tưởng Giới Thạch mới đề ra phương châm "Có yên trong rồi mới chống ngoài". Theo Tưởng, việc làm trước là việc trảm tận sát tuyệt Cộng sản đảng.
 
Khốn nỗi nhân dân Trung Quốc lại không nhận thức như thế. Nhân dân nghĩ C.S. Trung Quốc cũng là người Trung Quốc. Người Trung Quốc đánh nhau với người Trung Quốc là việc tranh thiên hạ, tranh quyền thống trị, còn việc đánh nhau với ngoại nhân là việc tranh sống. Tình cảm dân tộc bị thương tổn, bị vũ nhục nên quyết sách của Tưởng Giới Thạch không thể kêu gọi sự đồng tình của nhân dân.
Bởi vậy vấn đề kháng Nhật đã khiến cho quan hệ giữa chính phủ với nhân dân tắc nghẽn.
Phản ứng quyết liệt, nóng bỏng của phần tử trí thức đối với quyết sách của chính phủ là phản ứng của học sinh, sinh viên.
Phát động phong trào phản kháng đối với vụ 18 tháng 9, mười vạn học sinh tại Thượng Hải bãi khóa rồi đến công nhân họp tập bãi công. Tổ chức kháng Nhật Cứu quốc liên hiệp hội ra đời được học sinh, công nhân, tiểu thương hăng hái tham gia.
Thượng Hải xung phong vì Thượng Hải trung tâm văn hóa, trung tâm kinh tế, dân chúng ở Thượng Hải kiến văn rộng rãi đồng thời cũng chịu nhiều áp bức ngoại nhân hơn các nơi khác.
Thượng Hải nổi dậy rồi.
Vùng Hoa Bắc kế tiếp.
Toàn quốc vùng lên.
Ngày 28 tháng 9 học sinh, sinh viên Thượng Hải chính thức thỉnh nguyện quốc dân chính phủ Kháng Nhật. Tưởng Giới Thạch tiếp kiến đại biểu sinh viên học sinh, hứa sẽ thâu phục lãnh thổ trong thời gian ba năm. Ba năm! người ta không thể xoa dịu nộ trào bằng lời hứa ba năm! Tháng 12, ba vạn học sinh tại Nam Kinh xô xát đổ máu với cảnh sát.
Thỉnh nguyện bị đàn áp. Dân chúng tự động tổ chức nghĩa dũng quân. Các thành thị nhỏ, huyện, trấn, xã thôn đều có thiết lập hội chiêu mộ Nghĩa dũng quân. Đâu đâu người ta cũng thấy những chàng thư sinh yếu ớt đứng lên cổ lệ cho phong trào kháng Nhật. Chính quyền địa phương trước phong trào ái quốc tự phát của dân chúng cũng hùa theo, làm thành sự phân kỳ giữa trung ương với địa phương. Ở thượng tầng tổng chính sách là cố sức tránh chiến tranh với Nhật. Hạ tầng trái ngược hẳn, đảng viên Quốc dân đảng tích cực hoạt động cho vận động ái quốc kháng Nhật. Về sau Cộng sản đã viết sai khi nhận rằng phong trào kháng Nhật hoàn toàn do họ phát động. Thực ra Cộng sản chỉ muốn quay hướng vận động ái quốc kháng Nhật vào mục đích suy đảo chính phủ quốc dân mà thôi. Nói cho đúng thì vận động yêu nước kháng Nhật chính là công lao của phần tử trí thức đóng góp phần lớn nhất.
Đảng Cộng sản, lợi dụng cuộc xâm lược Nhật Bản hãm chính phủ Nam Kinh vào khó khăn nội ngoại, gắng sức khoáng triển lực lượng. Cơ cấu lãnh đạo trung ương cộng đảng đóng đô ở Thương Hải, nay thiên về Thụy Kim thuộc tỉnh Giang Tây lập chính phủ Sô Viết, tôn Mao Trạch Đông làm chủ tịch.
Các đảng muốn hoạt động ra sao mặc, nhân dân Trung Quốc chỉ nhìn nhận một điều là kháng chiến quyết mất còn với giặc ngoại xâm. Nhân dân sẽ theo kẻ nào trung thành với lời thề truyền thống: “Thời nhật táng dư cập nhữ giai vong”. (mặt trời hết sáng tao với mày cùng chết). Sự biến 18 tháng 9 đã làm thức tỉnh câu thề ấy, một trăm năm đau nhục rồi không thể chịu đựng hơn được nữa.
Văn học dân tộc chủ nghĩa lên địa vị lãnh đạo
Trước đây nhóm Vương Bình Lăng xướng xuất văn học dân tộc chủ nghĩa, phần bị tả phái đánh phá, phần vì quốc dân chính phủ ơ hờ nên không nảy nở mạnh được.
Sự biến 18 tháng 9 khiến cho toàn dân phẫn uất, chủ nghĩa dân tộc bất cứ trên lãnh vực nào cũng trở nên quyến rũ. Vì thế văn học Trung Quốc sau vụ 18-9 có thể nói là văn học hoàn toàn xây dựng trên chủ nghĩa dân tộc. Phần tử trí thức vùng Đông Bắc chạy giặc Nhật vào Trung Nguyên với bao tâm tư ai trầm bi tráng, buồn vì nỗi nhà tan, hận vì nỗi nước mất. Họ đều hướng vào mục đích sau cùng phải đạt là kháng chiến khôi phục sơn hà. Hoa văn hóa nở đầu hết là hai khúc:
- Tùng hoa giang thượng.
- Nghĩa dũng quân hành khúc.
Hai ca khúc ấy là sự phát tiết tình cảm ai trầm khích lệ của dân tộc. Chỉ với 1 tháng trời 2 ca khúc ấy đã lưu truyền khắp nước cho 600 triệu người khắp hang cùng ngõ hẻm, đồng ruộng rừng sâu núi cao cùng cất tiếng hát. Hoa văn hóa cũng nở trên các tường, các thân cây v.v… bằng các tác phẩm văn học với phong cách thật thô khoáng, đó là khẩu hiệu. Quốc gia lâm nguy, một sớm một chiều không còn đủ thời gian cho sự gọt dũa. Hơn nữa tất cả mục đích của tác phẩm văn học bây giờ là cứu nước, bất cứ giá trị nghệ thuật nào đi xa quá công việc quốc gia dân tộc đều không được tồn tại.
Thế mà chính phủ quốc dân để lỡ không chịu phối hợp ngay lòng cuồng nhiệt dân tộc với chính sách văn hóa. Ì ạch như con trâu già kéo xe. Đối với cuộc tấn công văn hóa vẫn áp dụng chính sách “đội xếp mã tà” là bắt bớ, cấm đoán.
 
Thái độ trên làm nổi bật lên điểm khác biệt giữa Quốc dân đảng và Cộng sản đảng:
Cộng sản đảng coi văn hóa làm tiên phong cho quân sự. Quốc dân đảng coi văn hóa làm phụ dung cho quân sự. Quốc dân đảng nghĩ cứ việc đánh thốc vào trung tâm hồng quân ở Giang Tây là tự khắc tiêu diệt luôn cả văn hóa Cộng sản.
Tưởng Giới Thạch dốc toàn lực vào mấy chiến dịch “vây tiễu giặc cộng” với phiên bản bảy phần quân sự, ba phần chính trị. Thực ra những chiến dịch đó hoàn toàn tiến hành với mười phần quân sự.
Để chống trả với chính trị tiễu phỉ của Quốc dân đảng, Cộng sản triệt để sử dụng mọi khẩu hiệu văn học dân tộc. Về sau Cộng sản biến nó đi và đưa ra Quốc phòng văn học và Thống nhất chiến tuyến dân tộc kháng Nhật.
Phải nhượng cho Quốc dân đảng quyền bá chủ quân sự, Cộng sản quyết chiếm cho được quyền bá chủ văn hóa. Kể từ vận động Ngũ Tứ, phong khí đọc sách học hỏi ở Trung Quốc khai mở cực rộng rãi. Sách cũ sách mới xuất bản nhiều không kể xiết, số tiêu thụ cũng rất cao rất nhanh. Giả thử chính phủ Quốc dân đưa ra đúng lúc một chính sách giáo dục văn hóa hợp thời thì làm sao CS có thể độc chiếm văn hóa.
Vì Quốc dân đảng bỏ lơ văn hóa, thanh niên trí thức với lòng ham học tất nhiên dễ dàng tiếp thụ tất cả những gì CS trao đến tay họ.
Vì chính sách giáo dục hình thức, lấy lệ nên học sinh đối địch với chính phủ tạo nên hiện tượng lấy quân sự áp bức giáo dục văn hóa.
Quân sự áp bức giáo dục văn hóa làm cho thanh niên trí thức quay ra nhiệt liệt ủng hộ Liên minh các nhà văn phái Tả.
Sau 18 tháng 9 đã có một cuộc tranh luận giữa văn hóa chủ nghĩa Tự Do với Tả phái về tính nguyên tắc của chủ nghĩa Tự Do. Người gây ra cuộc tranh luận là giáo sư Hồ Thu Nguyên, ông viết:
“Sự phát triển của nghệ thuật và văn hóa phải dựa vào cạnh tranh của các loại ý thức thì mới có cái thú muôn màu muôn sắc. Văn hóa Âu châu và văn hóa Trung Quốc đều phát đạt trước đời Tần, đời Hy Lạp bởi được Tự Do biểu hiện, nó đã cứng nhắc lúc ý thức trung tâm hình thành. Dùng ý thức trung tâm để xén cắt văn đàn rút cục chỉ đào tạo nên một bọn nô tài, một ngòi bút xu phụng”.
Hồ Thu Nguyên công kích triệt để các nhà văn Tả phái phục tòng lề lối đấu tranh giai cấp bóp chết Tự do. Cùng phe phái với Hồ Thu Nguyên còn có Tiền Hạnh Thôn,  v.v…
Phái Tả liền dàn quân ứng chiến gồm các danh tướng như Lỗ Tấn, Cù Thu Bạch, Chu Khởi Ứng, Phùng Tuyết Phong, v.v…
Trận chiến diễn ra chừng một năm trường. Kết quả phái Tự do chủ nghĩa bị cô lập. Cái ngôn ngữ quá Tự do làm cho Quốc dân đảng không ưa nghe mà CS thì coi như đại địch, Hồ Thu Nguyên đành im trống cuốn cờ. Ở giữa hai khối lớn gầm ghè khoảng an toàn bao giờ cũng quá hẹp mà chủ nghĩa tự do thì “khổ người” lại kềnh càng. Thất bại là lẽ đương nhiên vậy. Hồ Thu Nguyên thua trận, chủ nghĩa tự do văn học xơ xác. Nó bị cuồng trào văn học dân tộc chủ nghĩa xung kích xô chìm.
 
Tự do chủ nghĩa phải đợi hơn một năm sau mới trở dậy do Lâm Ngữ Đường xuất lĩnh điều khiển. Lâm Ngữ Đường chủ trì tờ bán nguyệt san Nhân Gian Thế đề cao các tác phẩm văn đọc để khiển hứng lúc nhàn rỗi. Với học vấn uyên bác của họ Lâm, tiểu phẩm văn của tờ Nhân Gian Thế có nhiều cây bút xuất sắc khác rất được thanh niên trí thức ưa đọc. Liên minh Tả phái thấy thế bèn chia quân đánh chặn, cho xuất bản một tạp chí tiểu phẩm văn khác lấy tên là tờ Thái Bạch dùng ngay loại văn tương tự chống lại nhóm U mặc (humour) Lâm Ngữ Đường.
Lối văn khiển hứng nhàn thích tuy không là văn đấu tranh, nhưng nó lại có ma lực công dụng làm lơi lỏng đấu tranh giai cấp cho nên Tả phái ghét thậm tệ. Ghét là vì nó mang tới mọi người phong cách tự do xâm nhập dần dần vào huyết quản, khiến mọi người lúc bàn đến các vấn đề thiên hạ bỏ bớt bộ mặt hầm hè để đối xử với nhau thân thiết ôn nhã.
Văn U mặc nhàn thích hóa giải cái vẻ quan cách lên mặt của Quốc dân đảng, cũng hóa giải luôn cả cái vẻ nhe nanh nhe vuốt của Cộng sản đảng. Đối với Lâm Ngữ Đường cả hai “quan” với “phỉ” chuyên hoành hành ngang ngược đều đáng sợ như nhau. Phần tử trí thức chấp nhận Nhân Gian Thế tức là tìm một lối giải thoát bớt không ngột ngạt căm thù của chính trị bao năm nay.
Nhưng sinh mệnh tiểu phẩm văn quá ngắn ngủi vì nguy cơ dân tộc đã sát nách không cho phép con người sống nhàn thích, cũng không cho phép ai trốn chạy. Đe dọa xâm lược khiến cho những người truy cầu đời sống thong dong phải quay về thực tế.
Trí thức khổ muộn trốn chạy tàn khốc của chính trị vào tháp ngà, nay họa mất nước buộc trí thức phải rời bỏ tháp ngà xuống đường phố.
Tiểu phẩm văn nhàn nhã suy tàn. Trên quân sự CS bị thất bại nặng phải bỏ Giang Tây, Thụy Kim chạy lên Diên An. Cộng sản đặt trọng tâm vào mặt trận văn hóa, lấy thắng lợi của văn hóa che chở cho thất bại quân sự.
Năm 1934 Trung cộng đưa ra sách lược tổ chức Thống nhất chiến tuyến phản đế. Năm sau CS phát hành: bức thư gởi đồng bào toàn quốc về việc kháng Nhật cứu nước- và hiệu triệu đình chỉ nội chiến, thiết lập chiến tuyến thống nhất dân tộc kháng Nhật.
Bỏ Thụy Kim lên Diên An là thời kỳ đen tối nhất của đảng Cộng sản. Để cứu vãn, CS mở cuộc tấn công văn hóa bằng khẩu hiệu quốc phòng văn học. CS đã nắm vững tâm lý quần chúng căm thù giặc Nhật để chia đỡ gánh nặng thất bại quân sự.
Trí thức phần tử nhiệt thành yêu nước nên tự nhiên cũng nhiệt thành với quốc phòng văn học của đảng viên CS Chu Dương.
Thượng tuần tháng 10 năm 1936 tại Thượng Hải có bản tuyên ngôn đòi tự do ngôn luận và đoàn kết chống giặc như sau:
Chúng tôi là những người văn học, chúng tôi kêu gọi tất cả những người văn học khác không phân biệt phái cũ phái mới, hãy vì kháng Nhật mà liên hợp với nhau. Văn học là phản ảnh của sinh hoạt mà sinh hoạt thì rất phức tạp, nhiều mặt, nhiều giai tầng. Các tác giả các tập đoàn đối với văn học am hiểu và hứng thú khác nhau. Tân phái, cựu phái, tả phái, hữu phái dị biệt, nhưng vẫn chỉ có một người Trung Quốc, người Trung Quốc không muốn làm vong quốc nô. Động cơ kháng Nhật của mọi người cũng không ai giống ai nhưng tất cả vẫn chỉ có một lực lượng kháng Nhật. Chúng tôi không đòi hỏi thống nhất lập trường kháng Nhật. Chúng tôi kêu gọi thống nhất lực lượng kháng Nhật.
................................................................................
Chúng tôi yêu cầu đương cục chính phủ tức khắc khai phóng tự do ngôn luận cho nhân dân, hết thảy pháp qui chướng ngại cho tự do ngôn luận nên sớm hủy bỏ.
Tuyên ngôn trên do CS phát động mà nội dung lại hợp với mọi người. Tuyên ngôn chỉ nhấn mạnh hai điều kháng Nhật, Tự do ngôn luận. Đó là hai điều mong muốn chung của hầu hết thanh niên trí thức. Tự do ngôn luận trong bản tuyên ngôn thực ra chỉ là phụ thuộc vào mệnh đề kháng Nhật. Tự do ngôn luận ở đây có nghĩa là dùng Tự do ngôn luận kháng Nhật để Tự do truyền bá chủ nghĩa Cộng sản. Chủ yếu chính sách của Quốc dân đảng lúc ấy vẫn là theo đuổi điều đình hòa hoãn với Nhật, tiêu diệt cho xong Cộng sản. Bởi vậy trên báo chí, cơ quan kiểm duyệt không cho dùng chữ “quỉ” Nhật Bản hay “giặc” Nhật. Nếu cho ngôn luận tự do tất báo chí chửi rủa Nhật Bản sẽ làm chính sách hòa hoãn kia khó lòng thực hiện.
Bản tuyên ngôn ra đời, hết thẩy các nhà văn nhà báo tên tuổi hưởng ứng ký tên ngay. Bản danh sách thấy có Ba Kim, Lâm Ngữ Đường, Mâu Thuẫn, Quách Mạt Nhược, Trương Thiên Dực, Trịnh Chấn Đạc, Triệu Gia Bích, Lỗ Tấn, Phong Tử Khải, Vương Thống Chiêu, Hạ Cái Tôn, Trần Vọng Đạo, v.v… Những người ký tên đa số không phải là Cộng sản. Trái lại những cán bộ văn hóa CS chính cống như Chu Dương, Trần Mẫn Dung thì lại không xuất hiện.
Trương Học Lương bắt Tưởng Giới Thạch
 
Tháng chạp năm 1936, vùng Đông Bắc tình hình chính trị giữa Nhật với người chỉ huy địa phương Trương Học Lương tự nhiên căng thẳng. Trương bị phong trào kháng Nhật cứu nước ảnh hưởng, muốn khởi binh đánh Nhật đòi lại đất đai của ông cha đã bị Nhật chiếm. Quyết định của Trương Học Lương có thể khiến cho chính sách hòa Nhật tan vỡ, nên Tưởng Giới Thạch bèn đích thân lên Tây An mong khuyên giải Trương Học Lương. Ở đây hai người đã to tiếng. Trương Học Lương liền sai quân bao vây bắt Tưởng Giới Thạch. Người chỉ huy vụ vây bắt là tướng Dương Hổ Thành.
 
Cả nước kinh động Đại sứ Mỹ lên ngay Tây An, Chu Ân Lai cũng đến Tây An. Kết quả Trương Học Lương cho thả Tưởng Giới Thạch và Tưởng Giới Thạch phải hứa ít điều. Toàn vụ lịch sử gọi là vụ binh biến Tây An.
Vụ Tây An xảy ra đúng lúc CS phá vòng vây bỏ Giang Tây chạy lên Thiểm Bắc, lực cùng sức kiệt, rồi nội bộ CS đầy xung đột mâu thuẫn. Trương Quốc Đào chống lại Mao Trạch Đông. Cao Cương tranh quyền lãnh đạo với Mao. Để khỏi bị cô lập, để đem nhân dân bao vây lại chống Quốc dân đảng nên CS vừa chạy vừa hô hào người Trung Quốc không giết người Trung Quốc. Người Trung Quốc phải đoàn kết đánh Nhật. Các sĩ binh Quốc dân đảng bị lời hô hào này mê hoặc nên không triệt để thi hành lệnh trên và lỏng tay cho CS trốn thoát thành thử cuộc vạn lý trường chinh mới hoàn thành.
Nay Tưởng Giới Thạch bị bắt ở Tây An, đại sứ Mỹ lên can thiệp, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng lên gặp Trương Học Lương. Dư luận toàn quốc lo ngại cho sinh mạng của Tưởng Giới Thạch. Dù sao uy tín ông cũng rất lớn, đương thời không ai đủ uy danh thế lực như Tưởng để lãnh đạo chiến tranh chống Nhật. CS biết thế lắm nên họ lúc ban đầu lên Tây An với mục đích liên kết với Trương Học Lương để hạ Tưởng, nhưng thấy khó lòng xong xuôi liền đổi kế hoạch ủng hộ Tưởng Giới Thạch để đòi hỏi một số điều kiện. Số điều kiện ấy đều đặt trên hai điểm căn bản là:
Tuyên bố kháng chiến, chấm dứt nội chiến. Tưởng Giới Thạch bằng lòng. Ông trở về Nam Kinh ra lệnh cho quân đội thôi không truy kích CS ở Thiểm Bắc nữa. Thế là mười năm nội chiến tàn khốc kết thúc. Ở Nam Kinh với quyết định không nội chiến, Tưởng Giới Thạch đã bị nhóm Uông Tinh Vệ phản đối khiến nội bộ Quốc dân đảng chia rẽ.
Vụ Tây An rõ ràng là viên thuốc hồi sinh cho đảng Cộng sản. Với tư cách và địa vị người hợp tác, tả phái tha hồ hoạt động công khai hoặc nửa công khai. Sách vở tuyên truyền lý luận của chủ nghĩa CS tràn ngập. Thấy thanh niên trí thức chỉ chú ý vào vấn đề kháng Nhật nên CS viết tuyên truyền phẩm bao giờ cũng dựa trên quan điểm kháng chiến.
Tây An chuyển Trung Quốc vào trang sử mới với tám năm kháng chiến oai hùng, nhưng đồng thời cũng là trang sử khai mở chính quyền Trung Quốc cho Cộng sản đảng.
Lư Cầu Kiều
 
Ngày 7 tháng 7 năm 1937, Nhật Bản xua quân tiến chiếm Lư Cầu Kiều. Uất hận tích lũy từ lâu, nay lại thêm sỉ nhục nữa, dân chúng phẫn nộ điên cuồng.
Vì chưa hoàn thành chuẩn bị chiến tranh, chính phủ Quốc dân vẫn muốn đối phó với vụ Lư Cầu Kiều bằng thái độ “hóa can qua vi ngọc bạch” (biến gươm dao thành nhung lụa) nghĩa là ngoại giao mềm dẻo. Một phần tại dân chúng nhất định không chịu, một phần tại quân Nhật làm quá nên chính sách mềm dẻo hỏng ngay từ đầu. Cực chẳng đã Tưởng Giới Thạch phải triệu tập hội nghị ở Lư Sơn, lên tiếng phản kháng sự lộng hành của quân đội Nhật, bắn tiếng sẽ kháng chiến tới cùng, không nửa đường thỏa hiệp.
Phía Nhật, họ vẫn tin tưởng vào chiến lược chiếm đóng tất cả đô thị lớn rồi buộc Trung Quốc đầu hàng.
Tháng 8, Nhật đánh Thượng Hải và phải trả cho Thượng Hải một giá khá đắt, chính phủ Quốc dân tuyên cáo toàn quốc kháng chiến.
Kháng chiến bắt đầu. Giai tầng khắp nước biến hẳn tính chất. Thanh niên trí thức đổ xô lên tiền tuyến. Quan niệm “hảo nam bất đương binh” không còn nữa. Đại đa số coi việc vũ trang chiến đấu chống xâm lược là một nhiệm vụ thần thánh. Chính trị trên tầng cao, chú tâm thực hiện đoàn kết nội bộ. Tại Lư Sơn trong một cuộc đàm thoại, Tưởng Giới Thạch bày tỏ lòng tin tưởng đoàn kết. Cũng ở đây hai lãnh tụ đảng Cộng sản là Chu Ân Lai và Tần Bang Hiến họp mặt với các đảng viên cao cấp của Quốc dân đảng.
Trên mặt báo của Quốc dân đảng đăng toàn những bài của cán bộ cộng sản. Quách Mạt Nhược được phép về nước lập Cứu quốc hội. Một số cán bộ cao cấp cộng sản được phóng thích như Vương Tạo Thời, Trầm Quân Nho, Lý Công Phác, v.v…
Quốc phòng tham nghị hội mở cửa cho đủ mặt đại biểu Quốc dân đảng, Cộng sản đảng, Quốc xã đảng và Thanh niên đảng.
Văn học về đồng ruộng
Cuộc kháng chiến Trung Quốc có một đặc chất. Đó là Trung tâm văn hóa từ miền duyên hải di chuyển vào nội địa.
Từ cuối nhà Thanh, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị đều ở thành thị lớn vùng duyên hải. Sau Bắc phạt, định đô ở Nam Kinh. Thượng Hải biến thành trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế phồn thịnh chẳng kém gì Thiên Tân, Bắc Bình ngày xưa. Tuy chính phủ Quốc dân thành lập, vẫn chưa thống nhất được toàn quốc. Miền Bắc quân nhân địa phương mặc dầu vẫn chịu thần phục trung ương, nhưng tiếp tục theo đuổi tham vọng riêng. Lại thêm Nhật Bản thường xuyên đe dọa nên phần lớn phần tử trí thức phải rời Bắc chuyển xuống miền Nam, khiến cho vườn văn hóa Bắc Kinh ngày càng cằn cỗi.
Trái hẳn, Thượng Hải phát triển không ngừng. Các ngân hàng lớn của Trung Quốc đều tập trung ở Thượng Hải. Thượng Hải cũng là khu tư lệnh của công thương nghiệp toàn quốc. Sách vở báo chí cung cấp ra khắp nước cũng đều ở Thượng Hải phát đi.
Ngày 18-7, Đông Bắc lọt vào tay Nhật, phần tử trí thức lưu vong, trừ một số ở lại Bắc Bình, Thiên Tân còn hầu hết đến Thượng Hải.
Ngày 7-7 Bắc Bình, Thiên Tân thất thủ, phần tử trí thức toàn vùng Hoa Bắc di chuyển xuống phía Nam.
Thượng Hải là tô giới ngoại quốc nên vẫn tiếp tục giữ được sắc thái yên ổn hòa bình nhiều năm nay. Đến lúc Thượng Hải bị luân hãm, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị đó liền biến thành ngã tư gián điệp.
Thượng Hải trong tay Nhật mang ba bộ mặt:
- Mỗi gia đình thường có con em vào nội địa trực tiếp cầm súng đánh nhau với Nhật.
- Người vì hoàn cảnh không đi được thì ở lại tổ chức địa hạ chiến đấu.
- Một số theo Nhật phè phỡn đĩ thõa vô sỉ hoang dâm, hình ảnh trái ngược với chiến đấu lưu huyết oai hùng.
Chẳng riêng gì Thượng Hải, các thành thị khác cũng vậy, thanh niên trí thức tấp nập rời khu bị chiếm đóng đến các nơi hoang dã, về đồng ruộng. Họ từ bỏ lối sống du nhàn, thích ứng với đời sống thôn dã. Với tâm hồn chứa chan kỳ vọng, họ khai phá đất hoang, giáo dục nông dân.
Ai cũng rõ, trước thời kỳ Bắc phạt số người mù chữ chiếm 90 phần trăm. Chính phủ Dân quốc tuy có làm giảm thiểu đi chút ít nhưng cũng không thấm vào đâu. Phần vì yếu phương tiện, phần vì phải đương đầu nội chiến thành ra với vấn đề giáo dục, chính phủ Quốc dân chỉ nói thôi mà không làm. Nay toàn bộ vấn đề giáo dục phổ thông do kháng chiến đã rơi vào tay phần tử trí thức.
Phần tử trí thức về nông thôn, gần gũi với cuộc sống chất phác nên những sáng tác cũng đượm sắc thái đại chúng, dễ hiểu, nhẹ nhàng. Các tác phẩm cao sâu đều không có đất sống. Phần tử trí thức ở nông thôn đã tự phát gây phong trào học tập, phong trào giáo dục đại chúng. Phần tử trí thức lưu vong bất luận gốc gác gia đình, bất luận chức nghiệp, tất cả lột bỏ nếp sống cũ, hòa mình với sinh hoạt kháng chiến trên quân sự cũng như trên văn hóa. Đa số gom góp tiền chung in một tờ báo để giáo dục kháng chiến. Khắp nơi, báo viết tay có, báo in có, người ta tính có tới 5, 6 ngàn loại khác nhau. Phần chính phủ gồm các báo quân sự và báo đảng có 37 loại chính thức. Vì giao thông khó khăn nên bích báo là báo phổ thông nhất. Nhờ vậy mà tình trạng văn hóa thêm phồn thịnh. Trước kia nội địa là sa mạc của văn hóa nay mưa kháng chiến làm cho sa mạc đó tốt tươi cây lá.
 
Các lối vũ dân tộc được sưu tầm nghệ thuật hóa. Các vở kịch địa phương được khảo sát và chấn chỉnh lại. Các bản dân ca được thu góp phổ biến. Những xóm làng ở nơi hoang vu nhất nay cũng có tiếng ca điệu múa, người thôn xóm quây quần xem kịch.
Giai đoạn thứ nhất của kháng chiến, văn hóa Trung Quốc được triệt để đại chúng hóa. Những phần tử trí thức cao cấp, nghĩa là những đại học giả, không còn tự mình kiến lập trường phái nhỏ hẹp vì lẽ tất cả có bổn phận phải làm 600 triệu con người để sẻ núi lấp sông. Do đó văn hóa phân tán, phổ biến không có tập trung điểm. Công tác khải phát dân trí của kháng chiến không chỉ giới hạn trong các thành thị hoặc các thôn xóm kế cận đường giao thông. Nó lan tràn khắp núi cao rừng sâu.
Nam Kinh thất thủ, chính phủ thiên đô về Trùng Khánh nhưng trung tâm kháng chiến vẫn ở Vũ Hán. Nhật dùng đủ mọi độc kế mà không làm sao giải quyết nổi chiến trường vì toàn dân một lòng kháng Nhật. Ngọn lửa kháng chiến không tàn lụi chính là nhờ phần tử trí thức luôn luôn chăm sóc tiếp dầu tiếp mỡ.
Giai đoạn kháng chiến thứ nhất, quốc cộng hợp tác thành thật, quốc phòng hội nghị mở rộng thành quốc dân tham chính hội. Tuy nhiên chỉ được hơn một năm lại phát hiện mâu thuẫn ngấm ngầm. Lý do là Quốc dân đảng ép các đảng phái khác phải tuân thủ Tam dân chủ nghĩa. Tam dân chủ nghĩa là chủ nghĩa của Quốc dân đảng, đâu phải là chủ nghĩa của đảng Cộng sản, của đảng Xã hội hay đảng Thanh niên mà bắt phải tuân thủ. Riêng CS quỷ quyệt không cần hình thức nên tuân theo triệt để, thực hiện chiến đấu cho chủ nghĩa tam dân. Thấy tuyên ngôn đó, Quốc dân đảng chịu lắm, dựa vào hình thức để mơn trớn lòng tự đại. Thái độ tự đại thật hão vì lúc ấy dân chúng không hề quan tâm đến đảng phái vấn đề.
Nói về vùng chiếm đóng thì đa số phần tử trí thức làm việc cho công tác địa hạ, tuyên truyền mật, lấy tin tức, tổ chức phá hoại, v.v…
Kế đến thành phần Hán gian ở vùng luân hãm thì số lớn là quan liêu chính phủ Bắc Dương. Từ khi chính phủ Dân quốc thành lập, họ bị đào thải, họ phần đông ở Hoa Bắc tiếp xúc thường xuyên với Nhật, Nhật xâm lăng, họ ra đầu hàng phục vụ để thỏa mãn tâm lý “quan” đã thâm căn cố đế. Sau đến tập đoàn bất đắc chí Uông Tinh Vệ. Trước Bắc phạt Uông Tinh Vệ lớn hơn Tưởng Giới Thạch. Khi chính phủ Quảng Châu thành lập, Uông Tinh Vệ làm chủ tịch còn Tưởng mới chỉ là Tổng tư lệnh quân đội Bắc phạt. Tưởng và Uông nhiều lần xung đột nhưng cuối cùng Uông thua, ôm mối hận xâu sa với Tưởng nên đi với Nhật để rửa hận.
Uông Tinh Vệ là lớp người tiền phong, nhưng quá khứ đó không đủ biện hộ việc làm theo giặc của ông. Quốc dân thấy ông đi với Nhật, Quốc dân phỉ nhổ ông như một tên Hán gian.
Vùng chiếm đóng còn có bọn người khác nữa là bọn trụy lạc. Bọn này hầu hết xuất thân ở đám nhà giàu, trí thức lai căng. Họ tuy không phản đối kháng chiến nhưng họ rất sợ chiến tranh. Họ sống bám vào tô giới như những ký sinh trùng. Họ không làm hại kháng chiến nhưng họ gây nhiều thối tha.
Trí thức trụy lạc vùng luân hãm thường hay ngâm phong vịnh nguyệt. Họ làm văn học để chiều lòng chiều ý các tiểu thư lấp ló sau vườn. Họ hủ hóa các thanh niên học đường. Hồi ấy nổi danh có cuốn “nấm mồ chung” của Mục Thời Anh, ca tụng tình yêu u uất, say đắm. Lâm Ngữ Đường cũng cho xuất bản tờ Tây Phong. Ý vị các bài viết trong Tây Phong về giá trị văn chương hay thì có hay nhưng chỉ để cho những người Trung Quốc không quan thiết lắm đến vận mạng Trung Quốc đọc.
Tại Thượng Hải dưới gót Nhật Bản còn có tác phẩm như “Phong tiêu tiêu” của Từ Vu mang nội dung đấu tranh, sắt máu. Phong tiêu tiêu đáng kể là cuốn tiểu thuyết hay tuy nhiên nó kênh kiệu gọt dũa quá thành ra không thực. Cuốn chuyện chứng minh lối nhìn của tô giới nửa Tây nửa Tàu đối với kháng chiến.