Chương 4

Flavières lật từng tờ lịch trên bàn với vẻ bán tín bán nghi.
Ba cuộc hẹn, hai vụ thừa kế, một vụ ly dị. Anh thấy chán nản với cái nghề ngốc nghếch này, nhưng không làm sao đóng cửa văn phòng, và để một thông báo đại khái: Ðóng cửa vì động viên, đóng cửa vì chết, hoặc bất cứ lý do nào.
Chuông điện thoại thì cứ reo suốt ngày. Thân chủ ở Orléans lại yêu cầu anh ta đến đây, và phải như ân cần ghi nhận. Buổi trưa này Gévigne sẽ đến hoặc điện thoại đến. Rồi phải tường thuật mọi chuyện cho anh này rõ.
Flavières ngồi vào bàn và lấy hồ sơ Gévigne ra đọc:
- Ngày 27 tháng Tư đi dạo rừng Bois, ngày 28 tháng tư ăn trưa ở Paramount; ngày 29 tháng tư đi Rambouillet và thung lũng Chevreuse; ngày 30 tháng tư Marignan uống trà ở sân thượng Lafayette. Bần thần vì cảm thấy trống rỗng. Nàng cười hơi nhiều; ngày 1 tháng năm đi dạo ở Versailles. Nàng lái xe rất vững, chiếc Simca lại trở chứng; ngày 2 tháng năm vào rừng Fontainebleau; ngày 3 tháng năm không gặp nàng; ngày 4 tháng năm đi Luxembourg, ngày 5 tháng năm đi dạo khá lâu ở Beauce; ngày 6 tháng năm có nên ghi tôi yêu nàng không làm sao thiếu nàng được? Từ ngày mai là tình yêu. Một mối tình sầu não, âm thầm nóng bỏng như ngọn lửa trong một hầm mỏ bị bỏ quên. Madelein dường như không nghĩ ngợi gì, đối với nàng, anh là một người bạn, hơn nữa là một người bạn đồng hành thú vị mà nàng có thể tự do trò chuyện, không cần thiết phải giới thiệu cho Gévigne.
Flavières đóng vai một luật sư đang gặp vận may, làm việc để tránh ở không, và sẵn sàng giúp đỡ một người phụ nữa đẹp để đánh lừa sự phiền muộn của mình. Sự cố ở Courbevoie đã bị quên đi, nó chỉ được dành cho Madeleine để nhớ rằng anh đã cứu sống nàng, và vì thế nàng chăm sóc chàng. Một sự kính trọng mà nàng giành cho một người thân, người bố đỡ đầu. Hai tiếng tình yêu là không tế nhị, không làm sao hiểu được. Hơn nữa còn Gévigne, mỗi chiều anh phải dùng toàn bộ thì giờ để phúc trình tỉ mỉ trong khi Gévigne im lặng theo dõi, đôi mày nhíu lại và anh kể về căn bệnh kỳ quặc của Madeleine.
Flavières xếp bộ hồ sơ lại, duỗi thẳng đôi chân, siết chặt lại bàn tay lại, và nghĩ đến căn bệnh Madeleine. Mỗi ngày hàng chục lần anh nghiền ngẫm từng điểm thái độ, lời nói của Madeleine, soi mói, so sánh, bằng một hành động mê say.
Nàng không bệnh, nhưng cũng không hoàn toàn bình thường. Nàng ham sống, ham vận động, thích đông người, vui vẻ, đôi khi nông nổi giàu tưởng tượng. Bề ngoài nàng là một người vui tính, đó là khía cạnh ngoài ánh sáng.
Nhưng còn mặt khác: ban đêm, huyền bí. Nàng lạnh lùng, nhưng không phải ích kỷ, tính toán. Lạnh lùng bên trong, và lạ lùng là không phải khả năng để ham muốn. Gévigne có lý do: khi người ta không còn đam mê, giữ nàng bên lề cuộc sống nàng chỉ tiến sâu thêm vào một nỗi giá băng, không hẳn là sầu muộn, mơ mộng, mà là sự thay đổi trạng thái một cách tinh vi, như là một phần hồn của nàng đã xuất ra và bốc hơi vào không gian. Nhiều lần Flavières đã nhận thấy nàng ngồi bên cạnh, im lặng thoát trần như trong mộng mị, như một bà đồng bóng khuất phục bởi sự cầu khẩn vô hình và uy lực nào đó.
Anh đã nhiều lần lên tiếng hỏi:
- Có gì không ổn?
Nàng từ từ trở lại tình trạng cũ, mặt nàng sinh động trở lại, dường như nàng thử hoạt động các cơ bắp, thần kinh, nụ cười nàng có vẻ ngại ngùng, lông mi thấp nháy nhiều lần và lắc đầu.
- Không, có gì đâu!
Nhưng mắt nàng lại xác nhận điều đó. Có thể tới lúc nào đó nàng lại thuật tiếp những tâm sự khác. Trong khi chờ đợi, anh không dám giao xe cho nàng lái. Nàng lái một cách thận trọng, nhưng cũng vô cùng đầy rủi ro.
Thật ra đây không phải là một từ chính xác, anh khó có một cách diễn tả nào đúng cảm nghĩ này. Nàng dường như không tự bảo vệ, mà là chấp nhận. Anh nhớ thời gian anh chữa cao huyết áp. Ðúng như vậy, càng ít vận động càng tốt.
Anh nhìn thấy tờ 1.000 quan rớt dưới đất mà không làm sao cúi xuống nhặt cho được. Anh nhận thấy nơi Madeleine sức đàn hồi đã cạn kiệt. Flaviefres tin chắc nàng sẽ không làm cách nào chống chọi lại được nếu có một trở ngại nào đó phải vượt qua, bởi nàng không có sức đối kháng, sự tự chế không làm sao xoay trở kịp. Ðã một lần ở Coủbevoiem nàng chẳng bị chao đảo là gì. Thêm một chi tiết lạ lùng. Nàng không có mục tiêu nào cho các cuộc dạo chơi.
Nếu hỏi:
- Cô có thích đi Verailles, Fontainebleau? Hay cô thích ở lại Paris? Nàng đều trả lời đại loại:
- Sao cũng được, hoặc tôi rất thích. Và chỉ năm phút sau khi đã đùa giỡn, cười, má hồng lên, và siết chặt cánh tay anh, đầy sinh lực. Đôi khi anh có thể tránh không nói nhỏ bên tai nàng:
Đôi mắt nàng sáng lên cười nói:
- Thật vậy sao?
Anh luôn cảm thấy tim anh như se lại khi nhìn thấy hai con ngươi xanh, sáng dường như không trông rõ. Nàng thường mệt và luôn thấy đói. Lúc bốn giờ chiều, anh làm bữa cho nàng dùng: bánh, trà, mứt. Flavières không thích đưa nàng đến các phòng trà, tiệm bánh nên nếu có thể được, anh thường đưa nàng đến các vùng quê. Những khi ăn uống anh cảm thấy như mình có tội, bởi chiến tranh đã đưa các ông chồng, hoặc người tình của họ đi đến tận đâu đâu nơi Biển Bắc hay vùngVosges. Anh biết Madeleine cần loại bánh này để lấp bớt nổi trống không, mơ hồ, mà nàng luôn gặp phải trong giấc ngủ.
- Anh làm tôi nhớ đến Virgile.
- Tại sao?
- Anh nhớ Enée đến nhà Pluton nhân vật thần thoại trong truyện Enée de Pluton đã vẫy máu chung quanh và những bóng ma đến hút máu ấy, chúng tự nuôi sống bằng hơi người với một tỉ trọng nào đó, và một lúc nào đó họ sống lại trong một thời gian, họ trò chuyện và cảm thấy tiết cho ánh sáng của người sống.
- Nhưng tôi nào có thấy gì! Anh đẩy sang nàng đĩa Croissant.
- Cô ăn đi, ăn nhiều đi. Tôi có cảm như cô thiếu sự dày dặn thực tế. Ăn đi, Eurydice bé nhỏ.
Nàng cười một mảnh bánh vụn dính môi.
- Anh làm tôi xao xuyến với câu chuyện thần thoại này.
Một lúc sau, đặt tách trà xuống tiếp:
- Eurydice... Thật nên thơ… có là anh đã vớt tôi lên từ địa ngục.
Lẽ ra phải về lại phía sông Seine, bờ sông đầy bùn. Anh nhớ đến những chỗ sâu trong hốc đá, gần sông Loire ở dưới lòng đất, nơi mà người ta chỉ nghe độc nhất tiếng tí tách của từng giọt nước, anh nắm tay nàng, kể từ ngày anh gọi đùa nàng Eurydice.
Anh không dám gọi bằng Madeleine, vì Gévigne Madeleine là một người đàn bà đã có chồng, người đàn bà của người khác.
Eurydice, trái lại thuộc về anh, anh đã ẵm nàng ướt mềm mắt mở lớn, bóng dáng tử thần trước mắt. Anh thật lạ lùng sống trong vực xoáy liên tục, trong một cảm giác hỗn tạp đau đớn.
Có thể như vậy thật nhưng anh không rõ trong thâm tâm của chính mình, sự bình an hoài bảo, sự vui mừng trọn vẹn, nuốt trọn mới đây của anh, với những nỗi sợ hãi và hối hận, điều mà anh chờ đợi từ lâu nơi người phụ nữ xinh đẹp này, từ thuở lên mười ba, khi anh nghiêng mình nhìn vào lòng đất, xứ sở u ám của những bóng ma và thần tiên. Điện thoại reo anh nhất máy lên ngay, anh không biết rõ ai đang ở bên kia đầu dây.
- Allô - Được. Có việc nhưng không gấp lắm. Miễn là tôi trở về trước năm giờ chiều. Thôi, lát gặp lại.
Anh đặt nhẹ ống nghe xuống giá đỡ, như tiếng nói sau cùng của người yêu còn lẩn quẩn đâu đây trên đầu dây.
Hôm nay sẽ là ngày như thế nào?
Chắc cũng như những ngày qua thôi. Tình hình xem như bế tắc. Madeleine vẫn không hết bệnh. Còn gì phải tự dối mình nữa? Có thể nàng ít nghĩ đến tự sát kể từ khi anh chăm sóc nàng, nhưng trong thâm tâm anh vẫn còn bị ám ảnh.
Nên nói gì đây với Gévigne? Có nên cho anh ấy biết hết ý nghĩ của mình?
Flavières cảm thấy như bị bao vây. Khi cố sức phân tích những ý nghĩ này anh cảm thấy chai lì khô cằn, không làm sao cố gắng suy nghĩ thêm.
Anh lấy nón đội và đi ra ngoài. Thân chủ sẽ trở lại sau đó, hay không trở lại có gì quan trọng. Bởi vì Paris có thể bị đánh bom. Bởi vì nếu chiến tranh kéo dài, anh phải đăng lính, bởi vì dẫu sao tương lai cũng trở thành vô địch.
Không còn gì ý nghĩa bằng tính yêu, sự hiện hữu và nắng vàng trên lá. Anh nhìn đường phố, tiếng động, tiếng thú vật. Như vậy anh có quên được phần Madeleine, anh hiểu, khi đi dạo quanh khu rạp hát Pera, người phụ nữ này đã ảnh hưởng kỳ lạ đến anh không nhỏ. Nàng thu hết cả sức lực trong anh, bên cạnh anh nàng không phải là kẻ tiếp máu mà là một kẽ tặng linh hồn. Bởi vì ở một mình, anh muốn tắm mình trong giếng sông nhân loại để tiếp thu nghị lực đã mất và anh không nghĩ gì khác; đôi khi lại nghĩ mình có cơ may sống sót.
Đối khi anh lai mơ thấy Gévigne chết đi và Madelêin tự do. Anh sung sướng khi tưởng tượng điều không thể xảy ra, tự thuật từng điểm những câu chuyện nực cười, là anh sẽ đạt được một sự tự do tuyệt vời, như anh nghiện thuốc phiện.
Anh có thể dám đông đưa anh đi chầm chậm, và anh tin mình vẫn là một con người.
Dừng chân trước cửa tiệm Lancet, nhưng lại chẳng muốn mua vật gì, anh chỉ thích ngắm nữ trang, ánh sáng của vàng chiếu xuống nền lụa đen, và anh chợt nhớ cái quẹt máy của nàng bị hỏng, Những quẹt máy đắt tiền đặc trên khay thuỷ tinh, ống điếu nhỏ bằng kim loại quý. Không thể để nàng phật ý. Anh đi vô, chọn một cái quẹt máy nhỏ bằng vàng 14k, một ống hút bằng da của Nga.
Đối với anh lần tiêu pha này thật thú vị. Anh viết trên một mảnh giấy tặng Eurydice tái sinh, và để mảnh giấy vào hộp đựng thuốc. Anh sẽ tặng nàng gói nhỏ này ở điện Louvre hoặc sau đó vài giờ, khi ăn trưa trước khi chia tay. Buổi sáng thêm đẹp nhờ vụ này. Anh cười khi cầm hộp giấy thắt nơ xanh trong tay.
Madelêin thân yêu ơi!
Đúng hai giờ thì nàng đến quãng trường Etoile.
- À, hôm nay cô mặt toàn đen.
- Tôi thích màu đen, và chỉ mặt khi thấy khỏe.
- Tại sao, màu đen buồn quá.
- Không, màu đen giúp người ta thấy rõ sự quan trọng của những ta nghĩ đến một cách nghiêm túc.
- Thế cô mặt xanh da trời hay xanh lá cây thì sao.
- Tôi không rõ. Tôi có cảm giác như mình là một dòng suối, như loài bạch dương. Hồi nhỏ tôi tin màu sắc có một quyền lực huyền bí... Vì thế tôi thích hội hoạ.
Nàng cầm tay anh, cử chỉ buông thả này làm anh cảm động.
- Tôi cũng thử vẽ qua nhưng không thành công.
- Điều đó có nghĩa gì. Chỉ có màu sắc là thiết yếu.
- Tôi muốn được xem những bức tranh cô vẽ.
- Ôi! Chẳng có đáng giá. Chúng chẳng giống gì hết. Đó là những giấc mơ, anh có mơ gì đến màu sắc?
- Không, tôi chỉ màu xám ở rạp chiếu bóng.
- Anh chẳng làm sao hiểu được. Vậy là anh mù.
Nàng cười và khoát tay anh như mưốn cho anh biết nàng nói đùa. Nàng tiếp. - Nếu có thể thử tượng những màu sắc nối tiếp nhau, tự ăn, tự uống thâm nhập hoàn toàn vào người anh, lúc đó mình sẽ trở nên giống lũ sâu bọ lẫn trong lá, với những con cá, giống san hô, tôi nghĩ đến một xứ nào đó... - Nàng thì thào.
–Ồ, Anh có như vậy không?
Hai người choàng tay nhau, đi về phía quãng trường Lacourde không ngó đến ai. Anh cảm thấy tâm sự nàng thật dịu dàng, nhưng một phần trong ý nghĩ anh vẫn không dè dặt, vẫn luôn luôn theo dõi vấn đề. Anh hỏi:
- Hồi nhỏ tôi bị ám ảnh bởi xứ sở này. Tôi chỉ rõ nơi khởi sự của nó cho cô thấy.
- Vậy thì không có gì giống nhau.
- Ồ, giống chứ. Cái xứ sở ấy toàn u tối, cái của cô lại sáng chói, nhưng tôi biết cả hai sẽ gặp nhau.
- Và anh không tin gì nữa?
Flavières ngần ngừ. Nàng nhìn anh với vẻ tin cậy, dường như câu trả lời của anh rất quan trọng đối với nàng.
- Không, tôi tin. Nhất là từ lúc gặp cô.
Cả hai im lặng đi. Tiếng giày dưới chân dường như đưa họ tới suy nghĩ chung. Họ vượt qua cái sân to lớn, leo lên một cầu thang hẹp và tối. Cuối cùng họ bước vào khung trời mát mẻ của nhà thờ, một nhà thờ Ai Cập… Nàng tiếp tục:
- Tôi không tin. Tôi biết có sự tồn tại đó. Nó cũng thực tế như chúng ta.
Nhưng tốt nhất là không nói đến.
Những bức tường mở mắt to trống rỗng, chân trước, chân sau nhìn hai người đi qua. Xa xa có một vài cổ mộ màu xanh kiến, những khối đá được vẽ bằng những kí tự không đọc được, và sâu phía bên trong của những gian phòng trống rỗng, những đầu người nhen nhúm, những miệng thú vật rách toác bởi thời gian, những con thú ngồi chồm hổm, cả một bầy quỷ dữ không cử động. Nàng nói: “
Tôi đã đến đây với một người đàn ông từ rất lâu. Ông ta giống anh nhưng ăn mặc rất diêm dúa
 Có lẽ chỉ là sự hoang tưởng. Điều này rất thường thấy ở người hoang tưởng.
- Không. Tôi có thể cho anh những chi tiết một cách chính xác. Tôi thường thấy một thành phố mà tôi quên mất tên, không hiểu có phải ở Pháp không, trong chiêm bao tôi vẫn thường đi dạo và ở tại đây. Nơi này có một con sông nhỏ chạy ngang, Phía trước mặt, nơi bờ sông có một Khải hoàn môn Pháp, La mã. Phía trên là một con đường trồng toàn ngô đồng, phía trái có những đấu trường, những ván và những thanh cầu gãy. Bên trong đấu trường tôi thấy có ba cây bạch dương và một đàn cừu. Flavières la lớn:
- Tôi biết những thành phố này rồi. Chắc chắn là thành phố Saintes và con sông Charente.
- Có thể.
- Nhưng đấu trường đã phá bỏ rồi, và cây bạch dương cũng chẳng còn.
- Thời tôi thì có… và giếng nước không biết còn không? Mấy cô gái thường tới đó ném kim gút xuống đó để mong có người đến cưới trong năm.
- Giếng nước Sainte - Estelle.
- Và ngôi nhà thờ sau đấu trường là ngôi nhà thờ với tháp chuông cũ kỹ. Tôi rất thích những ngôi nhà thờ cũ kỹ ấy.
- Nhà thờ Saint Eutrope.
- Anh hoàn toàn đúng.
Họ bước đi chậm rãi trên những đống hoang tàn bí hiểm mà xung quanh quyện một mùi sáp. Thỉnh thoảng bắt gặp một khách tham quan chăm chú, uyên bác, trầm mặc. Hai người như ở trong một thế giới riêng tư, chẳng để ý đến ai, ngắm nhìn những con sư tử, nhân sư, trâu rừng có cánh bằng đá.
- “Anh gọi thành phố đó tên gì?”
- Thành phố Saintes ở gần Royan.
- Có thể hồi trước tôi ở đó!
- Hồi cô còn bé?
Madeleine bình thản nói:
- Không phải. Trong cuộc đời trước.
Flavières không phản đối, những lời nói của nàng gợi dậy trong anh nhiều âm hưởng. Anh hỏi:
- Cô sinh ở đâu?
- Vùng Ardennes gần biên giới. Nơi đó luôn luôn có giặc giã. Còn anh?
- Tôi lớn lên ở quê ngoại vùng Saumur.
- Tôi là con độc nhất. Má tôi luôn luôn bệnh hoạn, cha tôi suốt ngày ở xưởng. Tuổi thơ tôi chẳng vui vẻ tí nào.
Họ tiến vào một phòng treo đầy tranh, khung chói rọi, như được nâng lên bởi nhiều tấm kiếng. Những cặp mắt trong ảnh như đang theo dõi họ. Đôi khi là ảnh những vị lãnh chúa, gương mặt hốc hác, đôi khi là tượng quận công ăn mặc sang trọng, tay cầm kiếm, phía sau là một con ngựa đang nhảy chồm lên.
- Khi còn nhỏ, cô có những giấc mơ, những linh cảm?
- Không. Tôi chỉ là một cô bé cô đơn và ít nói.
- Thế tại sao lại như vậy?
- Tự nhiên vậy. Cách đây không lâu tự nhiên tôi cảm thấy như không phải ở tại nhà của mình, như đang ở nhà một ai vậy. Anh biết không, tôi cảm giác của một người thức dậy không còn nhận ra căn phòng của mình.
- Ừ. Nếu cô không phân phiền thì cho tôi hỏi thêm một vài câu.
Madeleine có vẻ suy tư:
- Tôi chẳng có gì bí mật.
- Tôi hỏi được?
- Anh tự nhiên.
- Cô có còn nghĩ đến việc biến mất nữa không?
Madeleine dừng lại, ngước mắt nhìn anh, đôi mắt giống như cầu khẩn. Nàng thều thào:
- Anh không hiểu gì đâu.
- Cô trả lời tôi đi.
Một nhóm nhỏ khách tham quan đang tụ tập tại một bức tranh. Favières chợt thấy một chữ thập, một cái xác đầu ngoẹo xuống, một dòng máu từ phía ngực bên trái. Phía xa là một người đàn bà ngước mắt nhìn trời cao.
Madeleine chỉ là một cái bóng nơi tay anh.
- Anh đừng hỏi nữa!
- Không, anh cần biết.
- Roger Flavières, em van anh.
Giọng nàng không đủ hơi, nhưng anh vẫn cảm thấy xúc động. Anh quàng tay qua vai nàng và kéo nàng sát vào người.
- Em hiểu anh yêu em nhiều lắm không. Anh không muốn mất em.
Hai người đi như người máy giữa những bức tượng tranh và những bức tranh vô danh, trong đó có những cảnh đồi Golgotha. Nàng xiết chặt tay anh thật lâu:
- Anh làm em lo sợ. Em cần có anh. Em cũng cảm thấy sợ hãi... Để chán cuộc đời hiện anh sống... Nếu em chắc chắn là em không tự lừa dối mình.
- Chúng ta đi thôi.
- Họ đi vào những gian phòng trống trải tìm một lối ra. Nàng không rời khỏi tay anh, càng lúc càng siết chặt hơn.
Họ qua những nấc thang, ra đến một đám cỏ, có một vòi nước xoay vòng chân trời. Flavières dừng lại:
- Anh tự hỏi, chẳng lẽ hai ta hơi điên? Em nhớ anh nói gì vừa rồi.
- Vâng!
- Anh vừa thú nhận yêu em. Em nghe rõ chứ?
- Vâng!
- Nếu anh lặp lại là anh yêu em. Em giận không?
- Không.
- Kỳ lạ thật. Em có muốn hai đứa mình đi dạo thêm một lát nữa không? Chúng ta hẳn có nhiều chuyện cần phải nói.
- Không, em thấy mệt. Em cần trở về.
Nàng xanh xao, sợ hãi. Flavières đề nghị:
- Để anh gọi taxi. Nhưng trước tiên xin em nhận tặng vật này của anh.
- Cái gì vậy?
- Em mở đi.
Nàng tháo dây băng, xếp gọn tờ giấy lại, lấy ra ống điếu và bật lửa, rồi ngẫn đầu lên, lấy tấm giấy ra đọc:
- Ôi anh yêu dấu.
- Đi theo anh.
Anh kéo nàng về phía cuối đường Vilori nói tiếp:
- Em đừng nói cám ơn anh. Anh biết em đang cần bật lửa, mai mình gặp lại?
Nàng gật đầu:
- Được, mai mình đi đồng quê chơi. –Anh yêu dấu.
- – Em đừng nói gì cả.
Hãy cho anh giữ nguyên kỷ niệm buổi chiều này. Taxi kia rồi, Eurydice, em làm sao hiểu được hạnh phúc mà em ban cho anh to lớn đến dường nào?
Anh cầm lấy tay nàng và hôn bàn tay đeo găng.
- Em đừng ngoái nhìn lại. Vừa đóng cửa xe anh vừa dặn nàng. – Anh đuối sức nhưng yên bình, giống như xưa kia chạy suốt ngày bên bờ sông Loire