Tự Bạch

 

Tôi tặng cuốn sách này cho:

Những người con của nước Việt
đã cống hiến đời mình
cho một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ.
Hương hồn cha tôi,
và những người cộng sản
đã chết bởi tay các đồng chí của họ.
Mẹ tôi,
người dạy tôi sống không cúi đầu.
Vợ tôi,
người cùng tôi chia sẻ vô vàn khốn khó
trong những năm tháng đen tối của đời tôi.
Các bạn tù của tôi, cộng sản cũng như không cộng sản.
Các thế hệ sau tôi,
hi vọng họ sẽ không bao giờ phải sống như tôi đã sống,
dưới bất cứ gông cùm chuyên chế nào.

Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi ở miền Bắc Việt Nam nổ ra một vụ án lớn, cho đến nay vẫn còn là chuyện khó hiểu đối với nhiều người.
Trong nhân dân, vụ án này có tên nôm na là vụ "xét lại chống Ðảng". Tên chính thức của nó ít ai được biết, kể cả các đảng viên cộng sản, là "Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài"(1). Ðây là tấn bi kịch lớn nhất trong hàng ngũ những người cộng sản ở Việt Nam, từ nhà cách mạng lão thành suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc cho tới đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ trong nền độc lập đã giành được(2).
Trong vụ án này Ðảng(3) cầm quyền bất chấp luật pháp do chính mình đặt ra đã xuống tay hạ ngục, giam cầm và lưu đầy nhiều năm không xét xử những người có tư tưởng bất đồng. Nằm trong phạm vi trấn áp của vụ án do Ban tổ chức Trung ương Ðảng khởi xướng còn phải kể rất nhiều cán bộ, đảng viên có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với những người bị bắt. Ngoài ra, một số dân thường cũng bị Ðảng nhân tiện chụp cho cái mũ xét lại hiện đại để xử lý. Tất tật bị nhét chung vào một rọ, bị Ðảng trừng phạt bằng nhiều cách khác nhau, với mức độ khác nhau.
Bị bắt năm 1967, những người tù không có án, còn gọi là tù "xử lý nội bộ", tới năm 1973 mới lần lượt được thả.
Chưa hết. Sau sáu năm giam cầm họ còn phải chịu đựng những năm lưu đầy biệt xứ và quản thúc tại gia.
Tưởng chừng vụ án đến đấy là kết thúc, nhưng không phải.
Người cuối cùng trong số tù nhân được Ðảng ban cho ân sủng "xử lý nội bộ" mãi tới tận tháng Chín năm 1976 mới được ra khỏi cổng nhà tù.
Người tù ấy là kẻ viết những dòng này.
Ðáng ngạc nhiên là sau nhiều năm im lặng đáng sợ, nói theo cách của nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, những ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau tính từ thời tổng bí thư Lê Duẩn trở đi, vẫn khăng khăng khẳng định đảng của họ đúng trong cách xử lý vụ án, rằng những kẻ vi phạm luật pháp (của Ðảng và chỉ của Ðảng mà thôi) xứng đáng chịu những án hình lẽ ra phải nặng hơn những án hình mà Ðảng nhân từ đã ban cho.
Trong chín năm tù tôi chỉ làm được một việc có ích, cho bản thân và cho những người mà tôi thương yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế.
Sự nhìn lại đời mình cũng như sự quan sát số phận của đồng bào trong những nhà tù tôi đi qua đã mang lại cho tôi cái nhìn tỉnh táo không riêng đối với những hành động phi nhân của những vua chúa mới, mà cả một thể chế xã hội trong đó con người dù muốn dù không đều đánh mất mình.
Cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay là một phần những quan sát của tôi, một phần những suy nghĩ của tôi, về cái xã hội khó hiểu mà số mệnh đã an bài cho tôi sống trong lòng nó.
Xã hội này là khó hiểu bởi vì, căn cứ những gì tôi biết, nó khởi sinh từ những ý muốn tốt đẹp, bắt đầu bởi những con người lương thiện. Cũng căn cứ những gì tôi biết, tôi dám đoan chắc rằng trước kia, khi mới nhập vào dòng chảy không bao giờ ngưng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, họ không hề ấp ủ những mưu đồ xấu xa.
Trong sự biến dạng của những người cộng sản, trong sự tha hóa của họ, cái gì là tác nhân - chủ thuyết mà họ theo đã nhào nặn con người họ thành ra như thế hay chính họ tự biến đổi để trở lại nguyên hình, cho đúng với bản thể do trời đất tạo ra, hay là cả hai cái đồng thời, tôi không rõ.
Cuốn sách này chỉ là một chút ánh sáng soi rọi vào một vụ án cụ thể nhưng mang tính đại diện cho một thời kỳ cai trị của Ðảng cộng sản, một mảnh gương con phản ánh một số mặt ít người biết đến của xã hội Việt Nam.
Là cái nhìn từ phía người trong cuộc, mọi hồi ức đều mang tính chủ quan. Nhưng, cũng lại với tư cách hồi ức, nó vẫn là bằng chứng đáng được chú ý, cho dù chỉ là bằng chứng từ một phía. Tôi cố gắng, trong chừng mực có thể, đưa ra bằng chứng của tôi về vụ án nói trên bằng ngòi bút công bằng.
Trong cuốn sách này chỉ có sự thật. Hình thức văn học mà tác giả sử dụng trong cuốn sách chỉ vừa đủ cho bức tranh sự kiện không thành quá tẻ nhạt. Văn học đích thực không có chỗ nơi đây.
Vì mục đích cuốn sách giới hạn trong một vụ án, cho nên nó không thể là cuốn sách nói về chế độ lao tù ở Việt Nam. Ðể nói về nhà tù Việt Nam cần một cuốn sách khác. Mà đó là một đề tài đáng được chú ý, chí ít cũng là một sự quan tâm không thể thiếu đối với số phận đồng loại trong một nửa thế kỷ.
Quá khứ sẽ chẳng có ích cho ai bởi sự hồi tưởng đơn thuần. Quá khứ chỉ có ích khi con người lấy nó làm cái để mà suy ngẫm, rút ra từ trong lòng những sự kiện của nó bài học cho tương lai.
Cuốn sách này không phải là lời lên án một xã hội nay mai sẽ trôi vào quá khứ.
Tôi không dám đặt cho mình mục đích buộc tội. Chỉ vì lịch sử thường có sự lặp lại, cho nên tôi muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Tôi cũng không thể đóng vai người buộc tội được bởi trong xã hội mà tôi sống tôi không đơn thuần là nạn nhân. Về mặt nào đó, trong chừng mực nào đó, tôi còn là thủ phạm.
Tôi viết vì tôi không thể không nói lên tiếng nói của mình. Tôi quan niệm kẻ không dám nói "không" trước tội ác là kẻ đồng lõa với tội ác.
Và sau hết, theo cách biểu đạt của nhà văn Nga Prishvine, tôi chỉ là "một cái lá trong hàng triệu cái lá của cây đời, và nói về một cái lá thì cũng là nói về những cái lá khác". Số phận tôi được nói đến trong cuốn sách này cũng là số phận của nhiều người cùng thế hệ.
Xin hãy coi cuốn sách này là lời sám hối trước đồng bào của cha tôi nay đã không còn. Nó được thực hiện theo lời trăn trối của Người.
Cuốn sách còn là một vòng hoa muộn, một nén hương thêm đặt lên mồ những nạn nhân xấu số của một thời kỳ đen tối, những con người bất hạnh đã không chờ được đến ngày cuộc đời lập lại lẽ công bằng cho họ.
(1) Mãi tới năm 1995 tôi mới được biết tên gọi chính thức của vụ án nhờ bức thư của ông Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng thời kỳ đó, đề ngày 3.2.1995, gửi Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Việt Nam, trong đó ông Thành yêu cầu giải oan cho hơn 30 đồng chí bị bắt và bị xử lý. Tính riêng số người bị bắt không thôi đã vượt quá con số do ông Thành đưa ra. Có lẽ ông chỉ nói tới những người là đảng viên.
(2) "Có thể nói, sau những sai lầm, oan trái rộng rãi trong Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức (1956), thì đây là vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử Ðảng ta, xét về quy mô, tính chất. Và, có thể nói không ngoa, đây là vụ án oan sai lớn nhất trong hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam của thế kỷ XX" (trích thư của ô. Lê Hồng Hà, nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ, trong thời gian xảy ra vụ án, gửi cho Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam khóa VII, đề ngày 18/7/1995, về vụ "nhóm xét lại chống Ðảng").
(3) Trong các tài liệu chính thức ở Việt Nam từ Ðảng viết hoa được dùng để chỉ Ðảng cộng sản Việt Nam, với ý nghĩa tôn sùng. Trong cuốn sách này nó cũng được viết hoa như vậy cho tiện, cho vắn tắt, chứ không hàm nghĩa đó.

Truyện Đêm giữa ban ngày Tự Bạch Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 hiểu anh ta nghe ai nói, thành khẩn khai trong lý lịch có ông chú làm việc cho chính quyền Sài Gòn. Từ đó anh không được giao một công việc quan trọng nào, không được cử đi nước ngoài, mỗi lần xét tăng lương là một lần lý lịch anh được giở ra. Sau khi đất nước thống nhất mới biết ông chú làm cho địch của anh chỉ là một ông tùy phái trong một trường tư thục, gọi nôm là loong-toong.
Nhà báo Chính Yên mai mỉa:
- Khi nào có suất đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, thì chúng nó rêu rao thằng Chính Yên là con quan tuần phủ(9), để nó đi Tây cho nó chạy sang với địch à? Còn khi nào phải sang Lào viết phóng sự chiến tranh thì chúng nó khiêm tốn nhường ngay cho đồng chí Chính Yên, đồng chí ấy có kinh nghiệm chiến đấu. Tổ sư đời!
Chính Yên làm biên tập viên báo Nhân dân, một nhà báo có tài theo chúng tôi đánh giá, một "bồi bút siêu hạng" theo anh tự nhận. Anh tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chiến đấu bảo vệ thủ đô, là sĩ quan lâu năm trong quân đội. Nhưng suốt cuộc đời đi với cách mạng (đi theo cách mạng, nói cho đúng cách thời ấy), anh chỉ là kẻ ăn nhờ ở đậu, gánh vác mọi khó khăn, phần ngon anh chưa kịp nhường đã có kẻ khác hưởng.
Chẳng phải chỉ chúng tôi khổ về chuyện lý lịch. Ngay thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng khổ. Ông Ðặng Xuân Thiều, anh em con chú con bác với nguyên tổng bí thư Trường Chinh, không rõ từ đâu lại biết được câu chuyện hi hữu trong lịch sử nước ta, rằng do sự trớ trêu của số phận vị thủ tướng thâm niên cao nhất thế giới lại... chưa từng vào Ðảng cộng sản(10) bao giờ.
Huỳnh Ngự hài lòng. Tôi hoàn thành bản lý lịch một cách xuất sắc, không nói gì tới hai ông bác, cũng không bỏ sót đứa em nào.
- Anh thấy đó! Anh sinh trưởng trong một gia đình cách mạng nòi, có lý mô anh lại đi với bọn phản cách mạng? Con đường anh đi đã được Ðảng vạch sẵn. Ðó là con đường duy nhất: đi theo sự lãnh đạo của Ðảng, của Bác Hồ vĩ đại. Ðược đi dưới lá cờ vinh quang của Ðảng, của Bác là hạnh phúc vô cùng lớn lao của mỗi cán bộ cách mạng!
Từ trên bức tường đối diện, ngay trên đầu Huỳnh Ngự là Bác Hồ tiên phong đạo cốt, với vầng trán cao lồng lộng, cặp mắt anh minh và chòm râu thưa phơ phất, đang hiền từ nhìn xuống đứa cháu bị bỏ tù. Bên dưới chân dung Bác là lời Bác dạy "Công An Là Bạn Dân" viết nắn nót, chữ đỏ rực trên nền giấy vàng!
Chúa ơi, tôi đang ở đâu thế này? Phải sống với một ông bác và đám bạn bè thế kia mà gọi là hạnh phúc được ư?
Tôi buồn. Hi vọng mau chóng được ra khỏi đây nguội dần.
Thành tìm cách an ủi tôi. Nhưng anh không vẽ ra một viễn cảnh dễ chịu, mà làm ngược lại - cho tôi quen với sự thật.
- Ai sa chân vào đây mà mang tội chính trị là coi như đời tàn. Anh ta chỉ có một sự lựa chọn: hoặc là quyết sống, hoặc là tự sát.
- Anh cho rằng với tù chính trị người ta cứ giam miết, không thả??
- Sao không? Có thả chứ. Nhưng người ta chỉ thả khi nào tin chắc tên tù đã mất hết ý chí. Mà biết đến mùa quít nào người ta mới tin chắc?
Trong những cuộc học tập chính trị, giảng viên bao giờ cũng nhấn mạnh mục đích tiêu diệt ý chí của địch. Tiêu diệt sinh lực đã đành là quan trọng, tiêu diệt ý chí mới là cơ bản. Tiêu diệt sinh lực cũng nhằm mục đích cuối cùng là tiêu diệt ý chí.
Bây giờ tôi là địch rồi. Họ sẽ sử dụng đối sách như đối với địch. Mà tôi có ý chí quái gì đâu cơ chứ!
- Anh có hay nhận được thư nhà không? - tôi hỏi Thành.
- Thi thoảng.
- Chị với các cháu lười viết à?
- Ðâu phải. Chấp pháp có cho nhận mới được nhận chứ. Thời gian mới bị bắt tôi không được nhận thư, người ta sợ thông cung. Sau, họ cho nhận, nhưng kiểm duyệt kỹ, cái nào đúng lập trường, khuyên mình cải tạo tốt thì họ cho nhận, thư nào có giọng oán trách Ðảng thì họ hủy.Ðược nhận thư hay không còn phụ thuộc vào thái độ cải tạo của mình nữa...
Tôi rõ ràng không phải là tù cải tạo tốt rồi, ngay từ ngày đầu tiên.
Cái sự vô công rồi nghề làm tôi rầu rĩ. Không rầu rĩ sao được khi cả ngày ngồi bó gối nhìn vào bức tường trước mặt và không sao xua đuổi được hàng đống bòng bong những ý nghĩ quậy lộn trong đầu.
Huỳnh Ngự cho quản giáo mang vào cho tôi mấy tờ Nhân dân có đăng "Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng". Tôi hiểu: y muốn cho tôi thấy chúng tôi là loại tội phạm nào theo pháp lệnh này. Khi đã ra tù tôi có ý tìm lại, mới biết Trường Chinh ký "Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng" vào ngày 30.10.1967, nhưng hồi đó hoặc giả tôi không chú ý, hoặc giả mãi tới tháng 12 người ta mới đăng, nhưng tôi nhớ rất rõ rằng tôi được đọc nó trong Hỏa Lò, tức là vào cuối tháng 12 chứ không sớm hơn. Sự việc Trường Chinh ra sức hợp pháp hóa việc làm của Lê Ðức Thọ chứng tỏ Trường Chinh đã cum cúp tuân lệnh Duẩn-Thọ, chứng tỏ họ đã kết lại với nhau thành một băng rồi, và như vậy thì chúng tôi chẳng còn gì để mà trông đợi. Giọng hàn lâm phố huyện của pháp lệnh này, với những khái niệm mơ hồ về sự liên hệ với "nước ngoài" và "người nước ngoài" xới lên mảnh đất màu mỡ cho những hành động không kiềm tỏa của bọn độc tài.
Thành nhìn tôi ái ngại. Bằng những câu chuyện xa xôi, anh khuyên tôi đừng tuyệt vọng. Người tù mang tâm trạng tuyệt vọng sẽ thua ngay từ trận đầu trong cuộc chiến dai dẳng với những nỗi khốn khó trong cuộc sống giam cầm. Người tù chỉ có thể sống được đến ngày ra khỏi nơi tù ngục nếu anh ta không để nỗi tuyệt vọng hủy hoại. Cách tốt nhất là buộc mình quên mình đi, tự xóa sổ sự hiện diện của mình đi trong tâm thức, như cách các đạo sĩ yoga thường làm.
Tôi buồn rượi. Làm sao học được cách biến mình thành gỗ đá vô tri vô giác đây? Con người từ tấm bé vốn chỉ quen học sự khẳng định mình, bằng mọi cách nó nhắc nhở mọi người rằng nó có, nó đang hiện diện trong cộng đồng, nó không phải vô hình vô ảnh, thế mà giờ đây nó lại phải học cách quên mình đi, xóa mình đi, khốn nạn là thế!
Phải mất bao nhiêu thời gian tôi mới học được nghệ thuật đó?
Viên cai ngục không nhắc nhỏm gì tới việc tôi nhờ anh ta nữa. Tôi nghĩ anh ta chưa có thời gian. Sau mới biết lời hứa của cai ngục với tù là thứ lời hứa tào lao nhất trần đời. Chẳng bao giờ anh ta nhắn hộ tôi cả.
Sau mấy ngày hỏi cung liên tục, với những câu hỏi lăng nhăng nhảy từ đề tài này qua đề tài khác, đề tài nào cũng xa cách cái mà tôi rất muốn biết - họ định buộc tôi vào tội gì - Huỳnh Ngự bỗng nhiên bỏ bẵng, không gọi tôi ra đi cung tiếp.
Một hôm tôi lại bị điệu ra. Lần này không phải đi cung. Ðón tôi là mấy tay công an trẻ, lạ hoắc. Họ đưa tôi tới một góc sân đầy rêu, bảo tôi ngồi xuống một cái ghế đẩu, đàng sau là một mảnh vải xám bẩn thỉu mắc vào một sợi dây phơi quần áo.
Thì ra họ đưa tôi ra chụp ảnh, lăn tay. Một phó nháy ra lệnh cho tôi ngồi trong mọi tư thế thẳng, nghiêng phải, nghiêng trái. Tôi phải đeo một biển số trước ngực, đúng cách chụp ảnh tội phạm. Một người khác, phụ việc cho anh ta, ép mười đầu ngón tay tôi vào cái bảng mực in đen xì để lấy dấu. Sau đó tôi được đưa đi rửa tay. Không có xà phòng, tôi phải chà tay vào đất cát đến khi hai bàn tay đỏ ửng. Thế mà cái mực in quái ác vẫn không đi. Cả tuần sau tay tôi vẫn còn đen.
Thế là rõ. Ðây là cách người ta làm với tù chứ chẳng phải xử lý nội bộ gì hết.
Tôi cho rằng diễn biến của tình hình có chiều hướng xấu đi, chí ít thì cũng không tốt lên. Là đoán vậy thôi, chứ làm sao biết được ở ngoài kia cái gì đang xảy ra. Từ khi vào xà lim tôi không được đọc một tờ báo nào.
Que sera sera(11), ngồi bó gối trong cái chuồng chật hẹp tôi hát khẽ, tự an ủi, tự khuyến khích, cảm thấy lòng mình dần tĩnh lại. Bên ngoài, bầu trời mùa đông vẫn xám xịt một màu chì bức bối.
Thường một lần đi cung kéo dài cả buổi sáng hoặc chiều, thành thử tôi cứ đinh ninh trong lúc tôi vắng mặt những người tù ở xà lim bên cạnh cũng bị gọi ra đi cung như tôi. Hóa ra không phải. Chỉ những người mới bị bắt mới đi cung nhiều. Sau một thời gian làm việc liên tục, thỉnh thoảng họ mới bị gọi ra. Thành nói anh không đi cung đã hơn hai tháng. Có xà lim cả năm không đi cung.
Cũng Thành cho biết, ở Hỏa Lò có vài khu xà lim nằm rải rác ngoài rìa, giữa là trại chung gồm những nhà giam lớn mà tôi đã đi qua. Nơi chúng tôi đang ở gọi là xà lim 3, nằm ở khu vực bên trái Hỏa Lò, gần nhà bếp. Con đường gần xà lim 3 nhất là đường Hai Bà Trưng. Nhà tôi nằm ở đầu đường đàng kia con đường này, phía sông Hồng. Từ đây đi bộ về nhà tôi mất chừng mười lăm phút.
Tù xà lim Hỏa Lò không được đi dạo hàng ngày. Cũng không được đọc báo, không được mượn sách. Tôi đồ rằng Hỏa Lò không có cả thư viện cho công an, đừng nói gì thư viện cho tù. Nói tóm lại, nó chẳng giống như cái nhà tù mà tôi hình dung qua sách báo và phim ảnh nước ngoài.
Một ngày cửa xà lim được mở ra năm lần: buổi sáng một lần cho tù ra đổ bô, rửa ráy; trưa và chiều mỗi bữa hai lần cho tù nhận cơm và trả bát rếch. Thay vào viên cai ngục nông dân hôm trước là một người đàn ông, cũng dáng nông dân nhưng đã được cách tân, rất hách dịch, rất ít lời, tù sợ một phép. Thành nói y tên Hách, nhưng tôi đồ rằng đó là biệt hiệu tù đặt cho y chứ không phải tên thật. Quả vậy, tên cúng cơm của y là Dư, chắc hẳn cha mẹ y đặt cho với hi vọng đời y sẽ sung sướng trong thừa thãi.
Cai ngục thường không tự giới thiệu tên họ với tù. Phép lịch sự ở đây đại khái cũng giống như phong tục nước ngoài, người ta biết nhưng không theo. Viên cai ngục thoạt vào Hỏa Lò tôi gặp có hai biệt hiệu: Sứ giả Hòa bình hoặc Ðiền Mũi đỏ. Tên Sứ giả Hòa bình là do tù đặt. Viên quản giáo này bao giờ cũng thân mật đáp lễ khi tù chào chứ không kênh kiệu lặng thinh như các quản giáo khác. Ði kiểm tra khu xà lim anh ta luôn dừng lại ở các judas, nói một câu hỏi thăm, cho tù lửa hút thuốc hoặc vui vẻ đáp lại một câu hỏi về ngày giờ. Người tù cảm thấy mình được an ủi với một viên quản giáo như thế. Ðiền là tên thật. Anh ta có cái mũi lúc nào cũng đỏ lựng như mũi người nát rượu, mặc dầu anh ta không phải dân nghiện.
Tôi thích quan sát Hách. Tôi nghĩ nếu rồi đây tôi có may mắn được làm phim về nhà tù Việt Nam thì anh ta sẽ là nguyên mẫu không chê vào đâu được. Cai ngục phải như anh ta mới đúng là cai ngục chứ. Một vai cai ngục giống Sứ giả Hòa bình thì thể nào cũng bị khán giả chê, cho là không giống, không đúng. Thế mới biết cuộc đời phong phú hơn trí tưởng tượng, còn chúng ta thường nô lệ những hình dung giáo điều.
Thấp bé, với số tuổi đáng trọng, Hách đi những bước đĩnh đạc, khoan thai, rõ ràng là vay mượn, nhưng đã nhập thần. Người tù cúi đầu len lén chui qua cái nhìn lừ lừ bên trên cặp tròng kính lấp loáng của viên quản giáo quyền uy. Hách đứng đó, nhìn những con vật ở trong chuồng chui ra, mái đầu còn xanh của y hơi cúi, như thể bị sức nặng của vẻ đường bệ đè xuống, đôi giày tây khẽ nhún nhẩy trong một nhịp chậm chạp cố ý. Tôi khoái mẫu người của Hách đến nỗi nhiều lần tôi bắt chước dáng điệu trịnh trọng của anh ta. Thành cười rúc rích khen tôi bắt chước khéo, còn tôi thì hình dung nếu có lúc phải hướng dẫn cho diễn viên thì phải biết cách đóng thế nào cho thật giống.
Khi mở cửa xà lim bao giờ Hách cũng lùi ra xa, nhún nhẩy ở bức tường đối diện. Tôi nghĩ y cẩn thận, lo bị tù tấn công bất ngờ.
- Dào, có gì đâu. - Thành giải thích - Trong xà lim hôi thối lắm. Mình ở quen không nhận thấy chứ người ở ngoài vào uế khí xộc vào mũi chịu không nổi đâu.
Niềm mong ước của cha mẹ Dư đã thành. Y không giàu, nhưng so với các quản giáo khác, y có nhiều thứ sang trọng hơn người. Trong các trại giam mọi thứ đều rẻ - một phong thuốc lào có thể đổi lấy một cái quần simili mới, một bao Tam Ðảo là giá cho một cái áo len. Thành kể cặp kính gọng đồi mồi của Hách giá ba cái bánh mì.
Kể ra ở trong xà lim ngày này qua ngày khác mà không có lần đi cung nào thì cũng chán. Ði cung cũng ví như một sự đổi gió, cho dù nó căng thẳng. Căng thẳng thì căng thẳng, vẫn còn hơn là sự đơn điệu kéo dài. Người tù ở hàng năm trong xà lim không đi cung hệt như con thú bị nhốt trong chuồng.
Nằm trong xà lim những ngày đầu tiên, ngoài nỗi nhớ vợ nhớ con, tôi bỗng nổi cơn nhớ Hà Nội da diết. Ai đời nằm giữa lòng Hà Nội mà nỗi nhớ cứ bổi hổi bồi hồi như thể mình đang ở nơi nào tít tắp bên kia địa cầu. Nhớ cồn cào. Nhớ lắm lắm. Bỗng thấy Hà Nội như một người. Bỗng phát hiện Hà Nội có bộ mặt không lẫn với bất cứ bộ mặt nào khác. So
sánh Moskva với Hà Nội, tôi thấy Hà Nội đáng yêu vô cùng. Có lẽ chỉ có người Hà Nội mới coi thành phố là ngôi nhà của mình. Người Moskva coi Moskva là thành phố, là tài sản của nhà nước. Người Moskva chỉ ra đường khi có việc. Người Hà Nội bắc cái chõng ra hè, ngồi đấy mà cảm thấy như ngồi trong nhà. Sau năm 1954 người tứ chiếng theo chân đoàn quân chiến thắng ùa vào, người Hà Nội tản mát khắp bốn phương trời, kẻ di cư vào Nam, người bị đẩy đi mạn ngược lập vùng kinh tế mới. Tưởng chừng Hà Nội không còn là Hà Nội nữa, thế mà không - Hà Nội vẫn là Hà Nội. Nó nuốt chửng những người xa lạ vào lòng, nhào nặn họ theo kiểu của nó, biến họ nếu không thành người Hà Nội hẳn thì cũng thành người của hè phố, nhưng là hè phố của nó.
Tôi là người Hà Nội tính theo đàng mẹ. Hà Nội là quê ngoại của tôi, là nơi tôi ra đời, vì mẹ tôi là "con gái hàng Bạc". Người Việt vẫn quen với phụ hệ, tính quê theo bên nội, mà như thế thì tôi lại là người của đồng bằng đất thịt.
Ðể về quê, tôi phải đáp xe lửa tới Nam Ðịnh, qua Ðò Quan sang hữu ngạn sông Hồng, đi ô tô theo đường hàng tỉnh số 21 tới thị trấn Cổ Lễ rồi từ đó cuốc bộ vài cây số nữa theo con đê Vàng mới về đến làng. Tôi cũng gắn bó với cái quê nội đất thịt lắm, một phần tuổi thơ của tôi đã trôi qua ở đó. Thỉnh thoảng ở đâu đó bên ngoài Hỏa Lò người ta đốt lá rụng đầu đông, gió đưa khói những đống lá cháy âm ỉ lọt vào tận xà lim, y như khói những đống rấm ở nông thôn, và thế là nỗi nhớ cái quê đất thịt lại nổi lên xao xuyến lạ lùng.
Những ngày đầu tiên trong tù tôi không hề nghĩ tới một thời hạn giam giữ lâu tới vài năm. Chỉ vài tháng thôi, trong cái chuồng người gọi là xà lim, đã đủ chết rồi.
Suốt ngày anh bạn tù của tôi ngồi bó gối nhìn chòng chọc vào một điểm nào đó rất xa, mặc dầu trước mặt anh là bức tường xám xịt lốm đốm máu muỗi máu rệp và những tên người, trái tim bị mũi tên xuyên thủng, hai cổ tay bị xích, ngày bị bắt, những lời than van, những lời nguyền rủa, những câu chửi đời... Thành thử bức tường vì thế giống vách đá chùa Hương hoặc hang Ðầu Gỗ trên vịnh Hạ Long.
Lâu lâu đang ngủ Thành choàng tỉnh, ngồi dậy cục cựa một lát để sửa soạn cái nghi thức trang trọng của sự hưởng lạc trong xà lim. Trước hết, anh sờ soạng lấy cái điếu và gói thuốc giấu trong bọc quần áo ra, vê rất lâu những sợi thuốc màu cánh gián cho tới khi chúng xoắn vào nhau thành một viên tròn xoe đúng kích cỡ và tiêu chuẩn ngầm định rồi mới từ tốn nhồi vào nõ. Những sợi rơi ra ngoài được anh thu vén nhặt cho bằng hết cho khỏi phí. Ðoạn, anh khẽ khàng quẹt diêm lấy lửa, châm vào mảnh giấy đã vê sẵn thành đóm, dùng đóm này hút thuốc. Hút xong, Thành từ từ nhả khói rồi gục mặt vào hai đầu gối hồi lâu, người hơi đung đưa. Ðó là anh đang ngụp mình trong khoái lạc mà điếu thuốc mang lại.
Tôi thèm thuốc lá lắm nhưng làm sao có được nó trong bốn bức tường xà lim bây giờ? Thành mời tôi thuốc lào, nhưng lần nào hút tôi cũng ho sặc sụa.
Tôi không thể đừng để không nói thêm vài lời về cái điếu tự tạo của anh bạn tù. Nó là một cái hộp dẹt, hình chữ nhật, làm bằng hai vỏ bao diêm ghép lại, được bồi cho cứng thêm bằng giấy. Nõ điếu là khúc đầu của tuýp kem răng lộn ngược. Cái điếu có bề ngoài sặc sỡ bởi những ảnh mầu cắt trong họa báo, chắc hẳn từ giấy gói đồ tiếp tế. Tuy không có nước bên trong nhưng cái diếu kín hơi và thỏa mãn được cơn nghiền chẳng kém gì điếu ống hoặc điếu bát.
Ðể tiết kiệm diêm Thành chẻ một que thành hai, dùng tới đâu chẻ tới đó. Khi tôi vừa vào anh còn kín đáo quay mặt vào tường để chẻ diêm, cái chăn lòa xòa che khuất hành động giấu giếm. Trong xà lim chỉ có hai người với nhau, giấu cũng chẳng được, anh đành tiết lộ:
- Trong tù cấm ngặt không được giữ dao hoặc vật gì có thể dùng làm dao. Chết nỗi con dao ở đây lại cần lắm, bao nhiêu việc phải dùng nó, không có không xong: cắt móng chân móng tay, vót que tăm hay là chẻ diêm thế này chẳng hạn... - anh rì rầm giải thích - Không phải người ta sợ mình dùng dao đâm cán bộ đâu, thứ dao này thì đâm chết ai, cơ mà người ta sợ cái khác...
Anh cho tôi xem con dao anh chế tạo. Nó là một mẩu sắt đai thùng dài lối bốn năm phân, rất bén. Tôi không hiểu anh làm cách nào để cho mẩu đai thùng nọ trở thành cứng và bén như thế. Trong xà lim tất nhiên không có lửa để tôi, không có đá để mài. Với kích cỡ liliput con dao dễ dàng chui gọn vào nẹp quần nẹp áo.
- Họ sợ tù tự sát?
- Cũng chỉ trong thời kỳ giam cứu thôi. - Thành lắc mạnh cái đầu bù xù - Trong thời kỳ này, là khi còn đang hỏi cung, cán bộ chấp pháp phải chịu trách nhiệm về người tù. Có trường hợp cán bộ chấp pháp dọa dẫm thế nào không biết, anh tù vừa mới vào được mấy ngày đã treo cổ chết tốt. Ðiều tra xong mới biết anh ta chẳng có tội tình gì ráo. Dĩ nhiên, trách nhiệm là liên đới - không riêng cán bộ chấp pháp, cả cán bộ quản giáo, cả bộ đội gác cũng có khuyết điểm.
- Chỉ là khuyết điểm thôi ư? Có ai trong bọn họ bị truy tố không?
- Làm gì có! Tất nhiên, cũng bị lôi thôi tí chút. Giả thử anh tù nọ bà con với cán bộ cỡ, người ta moi móc ra, cố tình kiện cáo thì cũng phiền lắm đấy. Nhưng kiện công an thì phải coi chừng, công an người ta bênh nhau lắm, có khi đã chẳng được gì mà còn mắc vạ. Con kiến mà kiện củ khoai. Với dân đen thì họ chẳng lo, cứ lờ tịt đi là xong. Thằng tù ấy mà, cái mạng nó có giá gì!
- Anh tù lấy đâu ra thừng mà treo cổ?
- Xì, có gì khó, xé cái quần ra, hoặc cái chăn, bện lại một loáng là xong.
Thảo nào, người ta phát cho tôi cái quần không có dải rút.
- Còn xong cung rồi thì xin mời, muốn tự sát tự sinh gì mặc mẹ mày. Càng đỡ tốn gạo. ấy là nói tù xà lim, chứ tù ở các trại làm ra của cải gấp bao nhiêu lần tiền nuôi họ ấy chứ. Thử tính mà xem, nuôi thằng tù hết có mười hai kí rưỡi gạo một tháng, mà nó làm như trâu, nó chẳng cần ai nuôi, tự nó làm ra cái để nuôi nó, nhà nước chẳng mất gì sất. Nước sông công tù, đã có câu như vậy.
- Thế thì nhà nước lợi nhỉ? Càng nhiều tù càng lợi.
- Thời Pháp thuộc chỉ có mấy trại ai cũng biết tên Hỏa Lò là một, Chí Hòa là hai, Sơn La là ba, Ban Mê Thuột là bốn, Lao Bảo là năm, Bá Vân là sáu, Côn Ðảo là bảy... - Thành thủng thẳng liệt kê các nhà tù của Tây - đếm đầu ngón tay còn thừa. Thời ta thì sao? Trung ương hàng chục trại, tỉnh nào cũng trại... Chẳng nói đâu xa, ngay ở Hà Nội ngoài cái Hỏa Lò ra, còn có một nhà tù nữa, cũng lớn lắm, thuộc Bộ quản lý, là trại B, hay là trại Thanh Liệt. Ông có nghe nói đến trại Thanh Liệt bao giờ không?
- Không.
- Ông không nghe nói là phải. Chẳng ai biết cái trại này đâu, người ta giữ kín lắm. Nó đâu ở gần thị xã Hà Ðông. Xà lim ở đấy mới thật ác, không có chút ánh sáng nào lọt vào. Diện tích còn hẹp hơn xà lim Hỏa Lò nhiều. Mấy ngày rồi ông chưa đi cung nhỉ?
- Bốn.
Anh gật gù.
- Lạ thật. Thường tù mới bắt vào người ta hỏi cả ngày lẫn đêm, cho đến khi mệt lử ra rồi họ còn chưa tha, đàng này... Cái ông chấp pháp của ông có dễ chịu không?
- Tôi không rõ anh cho thế nào là dễ chịu? Có thể tay này là dễ chịu cũng nên, phải qua vài tay mới so sánh được. Mà này, anh có biết vì sao người ta gọi cái anh công an
hỏi cung là chấp pháp không? Trước kia người làm việc hỏi cung gọi là dự thẩm, nếu tôi không nhầm.
Thành suy nghĩ một lát.
- Tôi nghĩ đó là do mấy chữ chấp hành pháp luật nói tắt.
Cách Thành giải thích không đủ thuyết phục tôi.
- Chấp hành pháp luật thì mọi công dân đều phải chấp hành. Nếu anh ta thừa hành pháp luật thì sao không gọi là thừa pháp, hoặc hành pháp? Lại còn cái lối nói đi cung nữa, nghe chướng không chịu được.
- Thoạt kỳ thủy, tôi cũng không hiểu như ông, nghe cũng chướng lắm, nghe mãi rồi quen, thấy nó cũng bình thường. Ngôn từ trong ngành công an này tựa như tiếng lóng của lưu manh vậy, không ở trong nghề chúng nó nghe cứ như vịt nghe sấm. Thế mà ở tù ít lâu là hiểu hết, chẳng cần ai giải thích.
Cách so sánh của Thành làm tôi bật cười.
Thành kiên nhẫn giải thích cho tôi những điều đối với tôi là lạ lẫm, anh độ lượng không coi lỗ hổng kiến thức của tôi là sự đần độn. Mà làm sao tôi có thể biết được những từ quỷ quái ấy kia chứ, khi trại giam là một thế giới cách biệt hoàn toàn với thế giới người thường. Người đọc Việt Nam hầu như chẳng biết gì về cái thế giới đóng kín ấy. Ðề tài trại giam là đề tài cấm kỵ. Các nhà báo không được phép thò mũi vào công việc của ngành trừng phạt, xin lỗi, tôi nói nhầm, ngành cải tạo. Trong những người tôi quen chỉ có anh Trần Ðĩnh, phóng viên báo Nhân Dân, là đã có dịp tham quan Hỏa Lò để lấy tư liệu cho cuốn hồi ký Bất Khuất anh ghi chép cho ông Nguyễn Ðức Thuận. Trần Ðĩnh rồi cũng rơi vào số những người bị gọi là xét lại hiện đại, nhưng anh chỉ bị ép về hưu non, bị trù úm, chứ không bị đưa vào ở trong những cái xà lim anh đã được xem ở Hỏa Lò.
Thảng hoặc cũng có vài nhà văn nhà báo được mời đi xem để viết về trại giam xã hội chủ nghĩa. Họ ngồi trên com-măng-ca phóng vù vù qua những cánh đồng, những lán sản xuất thủ công của tù để tối đến dự các cuộc chè chén với Ban Giám thị, với tư cách khách quý của ngành. Ðể hiểu tâm tư người tù, họ vừa ngồi xỉa răng vừa nghe anh tù do Ban Giám thị lựa chọn cho gặp. Anh tù, tất nhiên, một mực ca tụng hệ thống cải tạo của Ðảng và Nhà nước. Về sau tôi có được đọc mấy bài báo loại này. Cứ như mấy nhà văn nọ miêu tả thì hệ thống cải tạo của Việt Nam là tuyệt hảo, là cây gậy thần gõ vào đầu tên tội phạm nào là tên ấy lập tức cải tạo tốt, thành người tử tế, thành công dân lương thiện, thậm chí thành công dân gương mẫu.
Trong thời gian ở trại Phong Quang (Lao Kai) tôi biết nhà văn Bùi Huy Phồn tức Ðồ Phồn có đến thăm trại này. Chắc chắn ông phải biết tôi đang ở đó, nhưng ông không gặp tôi, hoặc vì người ta can gián, hoặc chính ông coi tôi là tên cầm bút phản động. Những người tù được Ban Giám thị lựa chọn trong số cải tạo tốt sau cuộc gặp gỡ kể rằng họ vừa gặp "một thằng nhà văn nói láo nhà báo nói điêu".
- Thế còn cai ngục? Bây giờ được gọi là quản giáo, có phải vì ngoài việc canh giữ cho tù khỏi xổng anh ta còn phải dạy dỗ chúng mình không?
Thành cười toác. Anh có tiếng cười thật hồn hậu.
- Làm gì có chuyện dạy dỗ! Trình độ của quý vị ấy thường chỉ trên mức thoát nạn mù chữ một ít thôi thì hỏi giáo dục ai? Giáo dục cái con khỉ!
Anh cho biết ngành công an đặc biệt coi trọng lý lịch cán bộ. Người được chọn vào ngành này nhất thiết phải thuộc thành phần cơ bản (tức là bản thân hoặc cha mẹ thuộc các tầng lớp vô sản - công nhân, nông dân hoặc bộ đội), hơn thế, phải tuyệt đối trong sạch, tức là không có dây mơ rễ má gì với các giai cấp bóc lột bởi huyết thống, trực hệ cũng như bàng hệ. Người ta nói vào ngành công an bị truy xét lý lịch bốn đời là chuyện không ngoa đâu, nếu không phải bốn thì cũng ba. Nếu anh đã là công an thì con anh, cháu anh được nhận vào công an dễ hơn hẳn so với người khác, cho dù họ cũng con bần cháu cố. Cũng theo Thành thì trong ngành này đông nhất dân Thanh Nghệ Tĩnh, những tỉnh không có chiến sự trong kháng chiến chống Pháp. Những cán bộ đắc thọ này, kháng chiến thành công rồi, mới dắt díu con cháu vào theo. Trong ngành quản lý trại giam nhiều người Sơn Tây và Thanh Hóa, cái đó cũng có ý nghĩa truyền thống - hai tỉnh này có những trại giam đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tôi nghe Thành dẫn giải, phục lăn. Càng ngày tôi càng tin Thành không phải một tên giết người. Anh phải là cán bộ đã lăn lộn nhiều, hiểu biết rộng, có cách nhìn nhận, phân tích sự việc sắc bén, chứ nhất quyết không phải cán bộ thường. Dần dà, qua những câu chuyện tâm tình tôi thấy trong anh lộ ra hình ảnh một cán bộ quân đội lâu năm, dày dạn kinh nghiệm. Bằng cách gợi đến những chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp, nhắc đến những người tôi quen ở các cấp tiểu đoàn, trung đoàn, Thành cho biết anh đã từng gặp ai trong những người đó. Quan hệ giữa chúng tôi vì thế càng thêm gần gụi. Ðiều tôi không hiểu là nguyên nhân nào làm anh không dám thổ lộ với tôi về vụ án của anh?
Khi tôi làm ra vẻ tình cờ nói tới tướng Ðặng Kim Giang, hỏi anh có biết tướng Giang không thì anh nói:
- Ông ấy tôi biết. Ông ấy còn có một cái tên nữa là Lý Giang. Chả là trước ông có chân lý trưởng hay phó lý trong hội đồng kỳ mục(12). Thế mà tác phong lại rất chi là bình dân mới lạ, lính tráng lắm. Hồi Ðiện Biên ấy, tiếng là ông Trần Ðăng Ninh làm tổng cục trưởng, chứ toàn bộ công tác hậu cần cho mặt trận này, tôi biết, là do một tay ông Giang lo, công to lắm. Anh cũng biết ông Giang à?
Tôi lắc đầu:
- Tôi không quen.
Lát sau, tôi nói thêm:
- Nghe nói ông ấy vừa bị bắt.
Ðang nằm gối đầu trên đôi tay, Thành bật dậy:
- Sao? Anh nói sao? Bậy, làm gì có chuyện ấy được? Ông Giang là bậc lão thành cách mạng, hoạt động chống Pháp từ trước khi có Ðảng, là bậc khai quốc công thần, công lao còn hơn cả mấy ông lãnh đạo bây giờ, ai bắt được ông ấy?
Nhìn vẻ mặt Thành, tôi hiểu tin này làm anh choáng váng.
- Vừa qua nhiều người bị bắt lắm. Cùng bị với thiếu tướng Ðặng Kim Giang còn có một số người nữa, như viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính...
- Anh nghe nói hay biết chắc?
- Tôi nghe, nhưng chuyện đó là chắc chắn. Cả Hà Nội biết.
- Lạ thật! Lạ thật! - Thành lẩm bẩm - Phải anh Hoàng Minh Chính trước kia làm công tác thanh niên không?
- Chính anh ấy. - tôi đáp.
- Tôi không quen Hoàng Minh Chính, nhưng nghe tiếng anh ấy thì nghe nhiều - anh nói, tư lự - Anh Chính này hồi 54 lãnh đạo một đội quyết tử quân đánh sân bay Gia Lâm mà, người giỏi lắm, được ông Trường Chinh quý lắm. Sao lại thế được? Chà chà, chuyện gì đang xảy ra ở ngoài kia vậy? Anh còn nghe nói những ai bị nữa?
- Cục trưởng Cục quân báo Lê Trọng Nghĩa, anh biết chứ?
- Anh Nghĩa, cục trưởng Cục 2?
Thành kêu lên. Lần này anh nhảy hẳn sang bên phản tôi.
- Thật thế không? - anh thì thào.
- Thật. Anh biết anh Nghĩa à?
Thành vỗ đùi đánh đét.
- Biết quá đi chứ. Ai nữa?
- Còn ai nữa nhỉ? À, còn ông này, không biết anh có biết không: ông Vũ Ðình Huỳnh, nguyên vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao?
Thành trợn mắt.
- Cả ông Vũ Ðình Huỳnh nữa ư?
Tôi giả bộ ngạc nhiên:
- Anh cũng quen ông ấy?
- Không. - Thành thần ra, lắc đầu - Tôi cũng chỉ biết tiếng. Trước ông này làm bí thư cho cụ Hồ.
- Ðúng đấy.
Thành bậm môi suy nghĩ rồi thở dài:
- Tôi biết tiếng ông ấy là do thế này. Tôi có anh bạn thân, anh ấy chịu ơn ông ấy lắm. Nếu không có ông Vũ Ðình Huỳnh thì ông cụ anh ta đã bị bắn. Công ông ấy là công sống tết chết giỗ với gia đình bạn tôi. Hồi Cải cách ruộng đất nghe nói ông ấy còn cứu nhiều người nữa, không phải chỉ mình gia đình anh bạn...
- Chuyện ông Huỳnh bị bắt là chính xác. Nhà ông chú tôi ở sát nách nhà ông ấy, tin ấy không sai được. Ông chú tôi còn trông thấy công an xích tay ông ấy giải đi.
- Chà chà, - Thành buồn bã lắc đầu - Chẳng lẽ cụ Hồ còn đấy mà lại để mặc cho người ta muốn làm gì thì làm?
Tôi im lặng một lát rồi nói:
- Biết đâu chả phải chính cụ Hồ muốn thế? Anh thử nghĩ mà xem: Cụ là lãnh tụ tối cao cơ mà, ai dám qua mặt Cụ.
- Anh nghĩ thật như vậy à?
Anh nhìn tôi như nhìn một tên khiêu khích.
- Tôi không biết, - tôi lắc đầu - nhưng trước nay có việc gì quan trọng ở đất nước mà không có sự chỉ đạo của cụ Hồ?
- Ừ nhỉ.
Thành thở dài:
- Tội nghiệp quá!
Ðúng là Thành chẳng biết gì về vụ án chúng tôi. Anh không đóng kịch.
- Anh có nghe nói vì sao các ông ấy bị bắt không?
- Ban Tổ chức Trung ương Ðảng có thông báo gì đó, nhưng chỉ trong phạm vi nội bộ Ðảng. Tôi không được dự, cũng không biết đích xác là thế nào. Nghe nói các ông ấy bị buộc tội có âm mưu phản loạn...
- Bậy. Anh có tin thế không?
- Chuyện quốc gia đại sự ai thèm cho dân đen biết. Thông báo vậy thì biết vậy, biết có thật hay không?
Thành buồn xỉu. Anh bò về phản mình hút hai điếu thuốc liền.
- Không hiểu nổi! Chịu! Không thể tưởng tượng được!
Suốt hôm ấy anh không nói gì nữa. Một nỗi buồn, mà cũng có thể nỗi lo âu, xâm chiếm lòng anh. Trước khi đi ngủ, anh xem xét mọi xó xỉnh trong xà lim, rồi xuống ngồi bên tôi.
- Này, anh đừng có nói gì về chuyện hôm nay nhá! - anh thì thào - Nói chẳng có lợi gì đâu, mà hại cho cả hai. ê trong nhà tù, tốt nhất là câu trả lời: không. Không biết, không nghe, không thấy.
- Tại sao vậy?
- Trong tù nó thế.
Tôi ngạc nhiên:
- Mình có nói chuyện gì ghê gớm đâu.
- Rồi anh sẽ hiểu. Nhà tù, nó phức tạp lắm. Phức tạp vô cùng. Tôi không dọa anh đâu, nhưng có khi chỉ vì chuyện không đâu mà mình đâm ra thêm tội. Tôi đã có một tội kinh tế rồi, thêm một tội chính trị nữa là tàn đời...
(1) Tên gọi An toàn khu của chính phủ kháng chiến tại Tuyên Quang - Thái nguyên (khu Việt Bắc). Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu cũng nằm trong khu vực này.
(2) Garde-corps theo tiếng Pháp.
(3) Ngày 1.2.1942, trong lễ khai giảng trường Ðảng của Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc tại Diên An Mao đã đọc diễn văn về "Chỉnh đốn tác phong của Ðảng". Ðó lần chỉnh phong đầu tiên ở Trung Quốc nhằm chống chủ nghĩa giáo điều, về thực chất là chống ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản.
(4) Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như trong những người này có Nguyễn Ðức Bình, về sau này là ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VII.
(5) Hủ hóa ở đây không còn nghĩa gốc là tồi tệ đi, xấu đi, hư hỏng đi. Nó có nghĩa là sự ăn nằm với phụ nữ không phải vợ mình (ngủ với vợ hoặc chồng chưa cưới cũng bị coi là hủ hóa). Trong các cuộc chỉnh huấn người ta thường lục vấn nhau chuyện hủ hóa, dường như nó quan trọng hơn những khuyết điểm khác.
(6) Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, về sau đổi tên thành Ðoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam.
(7) Bỏ vùng kháng chiến về nội thành, do tiếng Pháp entrer.
(8) Nghĩa là không ra cái gì, theo cách nói hồi ấy.
(9) Thực ra Chính Yên cũng không phải con quan tuần. Cha anh chỉ là một ông huyện, nhưng quê ở Hà Nội, nhà cửa khang trang, khiến những cán bộ không biết gì về hệ thống hành chính thời Pháp thuộc đôn ông lên làm ông tuần phủ.
(10) Ông Ðặng Xuân Thiều (1911-1965) tham gia cách mạng rất sớm, bị tù nhiều năm. Tôi tin ông nói có sở cứ. Cha tôi cho rằng trong chuyện này có lẽ chỉ có vấn đề thủ tục kết nạp không được rõ ràng (ngày tháng, người giới thiệu), do một sự ngẫu nhiên nào đó, chẳng hạn những người giới thiệu đã chết và không có ai xác nhận việc kết nạp, chứ cuối năm 1940 các ông Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan cùng dự một lớp huấn luyện ở Hoa Nam do ông Hồ Chí Minh tổ chức, điều này có nghĩa ngay từ hồi ấy ông Ðồng đã hiển nhiên là đảng viên cộng sản.
(11) Muốn ra sao thì ra (tiếng Tây-ban-nha).
(12) Một hình thái quản lý hương thôn cổ, gồm những người có uy tín trong làng, được tập hợp lại theo sự tiến cử của những bậc tiền nhiệm và các bô lão chứ không phải do dân cử, có nguồn gốc từ xã hội bộ lạc.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Mõ Hà Nội
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--