Dịch giả: Tĩnh Hà - Kiều Oanh
Chương 11
Rời Việt Nam

Vào một tối giữa tháng giêng năm 1967, đại tá Châu mời tôi đến ăn tối tại nhà ông để gặp cấp trên mới của ông ta ở Bộ Tổng Tham mưu - Đại tướng Ngô Dzu. Ngày hôm sau dưới sự hướng dẫn của tướng Landsdale, tôi báo cáo lại cuộc trò chuyện đó dưới dạng một bản ghi nhớ cho phó Đại sứ thường trực Porter.
Dzu nói rằng tinh thần chiến đấu yếu kém của binh lính trong Quân đội Việt Nam cộng hoà là do sự thiếu tin cậy, và thiếu tôn trọng đối với ban lãnh đạo tối cao của GVN. Mỗi cấp bậc - từ tiểu đội trưởng đến những sư đoàn trưởng và cao hơn nữa - đều nhận thấy rằng thượng cấp của họ đều dính dáng đến những hành vi nhũng nhiễu hoặc lôi kéo về mặt chính trị và lấy đó làm cái cớ để cho mình có những hành động tương tự. Binh lính sẽ tiếp tục bị căm ghét vì những hành động trộm cắp và ngược đãi đến khi nào có sự cải cách triệt để từ cấp cao nhất. Ông ta cho rằng những việc làm phi pháp của sĩ quan và binh lính là sự phản ánh trực tiếp những cảm nhận của họ rằng cuộc chiến kéo dài khiến họ cảm thấy mệt mỏi, và không thể dành được chiến thắng với bộ máy nhà nước và những nhà lãnh đạo như hiện nay. Tôi gạch chân điều đó trong bản báo cáo, để nhấn mạnh sự bức xúc của ông ta khi nói tới điều đó một cách nghiêm túc, trong bóng tối bên chiếc bàn được thắp nến, phía sau nhà ông ta. Ông ta nói tiếp sự tham nhũng và hối lộ sự phản ánh nỗi tuyệt vọng. "Khi bạn nhận ra, từ bản chất của ban lãnh đạo của chúng ta, rằng không còn hy vọng gì cho sự tiến bộ, bạn chẳng thể đạt được điều gì ở địa phương, hay sư đoàn của mình, cả về mặt quân sự lẫn chính trị… bạn sẽ quay sang làm những gì có thể để phục vụ cho lợi ích của chính gia đình mình".
Khoảng một tuần sau, Đại tá Châu tới nhà tôi nói chuyện.
Lúc đó tôi vừa trở về sau một chuyến khảo sát cuộc hành quân, trong lần đó tôi đã phát hiện một đường hầm dài của Việt Cộng. Hiển nhiên, nó không hề bị bỏ hoang, bởi lúc đó tôi phát hiện ra những chân nến cháy dở dính vào những vỏ đạn, trong đó chất sáp vẫn còn lỏng và nóng. Tôi quyết định sẽ không tiến vào sâu hơn nữa. Tôi đem các chân nến về, cùng với những mẩu giấy viết tay cạnh đó, mà sau này khi chúng được dịch tôi mới biết đó là những lá thư tình. Tôi kể với Châu về cuộc hành quân, và nói rằng tôi có thứ này muốn cho anh ta xem. Tôi lên phòng ngủ và đem xuống một đôi dép Hồ Chí Minh tôi tìm thấy trong đường hầm, đó là một đôi dép xăng đan làm bằng cao su đã qua lưu hoá với đế dép được cắt từ những lốp xe tải phế thải, đó là đôi dép mà Việt Cộng và trước họ, những người Việt Minh trong thời kỳ chống Pháp đã đi.
Đôi mắt anh ta sáng lên, và đón lấy chúng từ tay tôi. Anh ta nâng niu chúng trong tay và ngắm chúng rất lâu như thể anh ta đang bế trên tay một đứa trẻ. Gương mặt anh ta trở nên dịu dàng khi nói và với một thanh âm mà tôi chưa từng nghe trước đó. Đó là một cảm xúc rất riêng tư. Anh ta nói: "Tôi đã từng đi nó trong suốt 4 năm", nghĩa là anh ta đã tham gia vào tổ chức Việt Minh vào cuối những năm 40 trong cuộc chiến với Pháp. Anh ta ngừng lại một lúc thật lâu, tôi cũng giữ im lặng. Anh ta nói: "Đó là những năm tháng đẹp nhất trong cuộc đời tôi".
Một lát sau, anh ta đặt đôi dép xuống và nói: "Anh biết không, có một điều mà tôi luôn tự hỏi bản thân mình rằng: tôi nói tôi rời bỏ Việt Minh và tham gia phục vụ đức vua Bảo Đại, sau là đến Tổng thống Diệm bởi vì Chủ nghĩa Cộng sản quá khắc nghiệt, họ không tôn trọng tôn giáo cũng như những truyền thơng dân tộc của chúng tôi, đường lối phát triển của họ quá cứng nhắc đối với chúng tôi, và chúng tôi cần sự giúp đỡ của Phương Tây. Nhưng đó có phải là sự thật không? Hay tôi đã theo phe khác chỉ vì tôi quá mệt mỏi khi phải sống dưới những đường hầm và ở trong rừng, tôi muốn đi giày da và mặc một bộ quân phục đẹp và ngủ trên một chiếc giường êm, trong một căn nhà? Tôi luôn tự hỏi mình điều đó".
Tôi đợi anh ta nói tiếp, nhưng anh ta đã im lặng. Tôi hỏi: "Thế câu trả lời của anh là gì?"
Anh ta đáp: "Tôi không biết".
Tháng hai, tôi quyết định thực hiện các chuyện thanh tra ở vùng châu thổ nơi tôi đã phải hoãn lại từ tháng trước. Trước tiên, tôi tới thăm một số địa phương, nhưng điều mà tôi thực sự mong đợi mục đích chính của chuyến đi, là được tham gia cùng với một đơn vị thuộc một sư đoàn người Việt, theo các cố vấn Mỹ của sư đoàn thì đơn vị này đang thực hiện một chiến dịch tuần tra vào ban đêm. Vì tôi được biết rằng không một đơn vị nào khác thực hiện việc đó, dù lớn hay nhỏ, và đó là sự thiếu sót tai hại đối với bất cứ triển vọng nào của chương trình bình định.
Trong bản báo cáo về nghiên cứu vai trò và nhiệm vụ chiến lược hồi tháng 6 vừa qua, tôi có viết: "Một đòi hỏi đặc biệt khẩn cấp đối với các đợt tuần tra và phục kích ban đêm - là phải xác định rõ nơi cuộc đụng độ có thể xảy ra theo báo cáo của tình báo. Trừ khi các cuộc hành quân đêm của các lực lượng Quân đội Việt Nam cộng hoà (RVANF) bắt đầu với mục đích làm cho Việt Cộng không được an toàn khi di chuyển, hoặc tiến vào làng trong đêm, chứ dứt khoát là không thể cắt bỏ được gốc rễ của họ đã ăn sâu trong lòng dân chúng để từ đó tiêu diệt những nhóm quân du kích hoặc giảm bớt sự kiểm soát của họ".
"Họ đã giành lại màn đêm từ tay Việt Cộng!" Đó là những gì người ta nói về sư đoàn này. Tôi đã từng nghe điều này trước đó nhưng những người ở sở chỉ huy của MACV nói rằng đây là điều có thực, đoàn cố vấn đề có mối quan hệ đáng kinh ngạc đối với một sư đoàn trưởng nổi tiếng, và việc đó thực sự đang xảy ra.
Tôi tin những người đang nói ra điều này và cách họ nói về nó.
Tôi muốn được tận mắt trông thấy chứ không phải vì tôi có chút nghi ngờ mà vì tôi muốn biết được điều kỳ diệu này đã xảy ra và được truyền bá như thế nào.
Chắc chắn rằng, tại sở chỉ huy của sư đoàn, viên Đại tá, Trưởng đoàn cố vấn đề có một biểu đồ lớn cho thấy số lượng của những đợt tuần tra đêm được thực hiện bởi mỗi tuần một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn trong suốt vài tháng qua. Số lượng thay đổi tuỳ thuộc vào các tiểu đoàn khác nhau, và dao động hàng tuần, nhưng cũng có thể dễ dàng nhận thấy xu hướng được tổng kết trên các đường cong của một biểu đồ khác. Số lượng các đợt tuần tra, bắt đầu ở số 0 hoặc gần tới đó, đã đều đặn đạt tới chỗ mà sư đoàn sắp kết thúc là hàng trăm đợt trong một tuần, hàng tá các đợt trong một đêm. Trong 2 năm ở Việt Nam, tôi chưa từng gặp một điều tương tự như thế. Viên Đại tá tự hào về điều này cũng là điều dễ hiểu. Tôi muốn nghe toàn bộ câu chuyện về việc ông đã làm thế nào để có kết quả ấy nhưng tôi phải chờ đến ngày hôm sau. Trời đang xế chiều, tôi muốn chắc chắn rằng mình có đủ thời gian để xuống một tiểu đoàn để tham gia vào cuộc tuần tra đêm đó. Tôi xem lướt.qua tấm bản đồ rộng, nơi các khu vực tuần tra được đánh dấu bằng bút chì cho các trung đoàn và tiểu đoàn tôi chỉ ra một trung đoàn và nói ý định của mình với viên đại tá Viên đại tá có vẻ rất ngạc nhiên với ý định của tôi, nhưng tôi đã giải thích bằng cơ sở và những kinh nghiệm của mình ở Rạch Kiến. Ông ta thấy tôi đã rất sẵn sàng với tất cả những trang bị cần thiết. Ông ta cũng biết cấp bậc của tôi, nên không tranh luận nữa. Nhưng ông ta nói, không chắc về việc có thể sắp xếp với một lời yêu cầu bất thình lình như thế. Tôi nói, sẽ tốt hơn nếu thực hiện việc đó một cách không chính thức. Đây không phải là một cuộc thanh tra chính thức mà thật ra chỉ muốn có một câu chuyện ấn tượng hơn nhiều để chọn ra một trong hàng tá các đợt tuần tra đêm, tham gia cùng với họ, sau đó miêu tả lại sự khác nhau mà nó đã tạo ra ở vùng nông thôn khi có một sư đoàn người Việt đang hoạt động vào ban đêm. Tôi chưa từng nghe tới một đơn vị người Việt nào khác nơi bạn có thể thực hiện việc này, vì thế chúng tôi có được câu chuyện này càng sớm càng tốt.
Ông ta đã hiểu được vấn đề, nhưng ông nói rằng vào thời điểm này sẽ rất bất tiện cho tôi khi tới thăm trung đoàn mà tôi đã chọn trên bản đồ. Ông ta không nói rõ lý do. Có lẽ mọi thứ sẽ được tiến hành một cách tốt hơn nếu như hoãn lại tới chuyến đi sau của tôi. Nhưng tôi không dám chắc khi nào mình có thể quay lại lần nữa, tôi đã chờ đợi điều này từ rất lâu rồi, và cuối cùng cũng thành công. Tôi thúc ép ông ta cho tôi tới thăm một trung đoàn khác và sau vài cuộc nói chuyện trên điện đài, ông ta đưa tôi tới một trạm chỉ huy trung đoàn cách đây khoảng một dặm.
Ở đó, cố vấn trung đoàn cũng có thái độ ngập ngừng khi đưa tôi xuống tiểu đoàn. Tôi hiểu sự dè dặt này của họ. Với tất cả những gì tôi đã nói chỉ là: đây không phải là chuyện thanh tra chính thức, tôi là người của đại sứ quán, và không một người chỉ huy hay cố vấn nào, sẽ cảm thấy hoàn toàn dễ chịu với một chuyến viếng thăm không trong kế hoạch những hoạt động quân sự của một trong số các đơn vị chiến đấu của họ mà không hề được báo trước. Ai có thể đoán trước được điều gì sẽ xảy ra, hoặc đơn vị sẽ như thế nào trong đúng cái đêm đó, hoặc ai biết được việc này thì sao? Thế nên tôi không hề ngạc nhiên khi lại được nghe nói rằng điều này quâ bất ngờ, và rằng không biết có thể sắp xếp được không, nhưng tôi cũng không dễ dàng bỏ cuộc. Tôi đe doạ ông ta nhưng không nhằm một ý đồ xấu nào; tôi biết rằng tôi không nên ở đó để họ phải lúng túng. Tôi không quan tâm tới chất lượng của các hoạt động. Điều mà tôi thật sự quan tâm là câu chuyện về họ, về những binh lính người Việt đang tiến về phía vành đai của tiểu đoàn trong đêm tối.
Trên thực tế, có một vấn đề trong chuyện này, cuối cùng tôi đã biết được ở bốt chỉ huy tiểu đoàn mà tôi đã được đưa tới lần cuối và đến đúng lúc trời vừu sập tối. Một thiếu tá người Mỹ, cố vấn cho một tiểu đoàn, đã chỉ cho tôi xem tấm bản đồ có những tuyến đường tuần tra trong đêm. Khi biết tôi sẽ tham gia vào một trong số đó, ông ta nói rằng không thể. Tôi hỏi tại sao, và lần này tôi nhận được câu trả lời hết sức thẳng thắn. Các cuộc tuần tra trên bản đồ thật ra không hề có thực. Không hề có một cuộc tuần tra ban đêm nào. Không chỉ ở trung đoàn đoàn này mà còn ở tất cả các đơn vị khác thuộc sư đoàn, theo như viên thiếu tá biết được.
Vậy còn những thống kê và các khu vực tuần tra, các danh sách có trên tất cả các biểu đồ ở sở chỉ huy trung và sư đoàn?
Bịa đặt. Dưới áp lực của cố vấn sư đoàn và đối tác người Việt Nam của mình, mỗi tiểu đoàn phải lập ra các kế hoạch tuần tra cho từng ngày và gửi các báo cáo và tính toán lên trên, nhưng trên thực tế không có một đại đội người Việt nào cho quân của mình đi tuần tra đêm trong khu vực hoạt động của Việt Cộng. Không rõ đã có ai từng cố gắng khiến họ thử làm việc đó chưa?
Vị đại tá của Sư đoàn đã có những con số để đưa lên biểu đồ. Hàng trăm cuộc tuần tra trong một tuần. Nhưng không một cuộc nào thực sự diễn ra. Không phải 10, 50, mà là 0. Không có cuộc nào để tôi có thể đi cùng. Tôi cám ơn vị thiếu tá vì sự ngay thẳng của ông, điều khá hiếm hoi ở những người có cùng địa vị của ông, dẫu điều đó có thể khiến ông gặp rắc rối. Nhưng tôi cũng cảm thấy mình như một kẻ ngốc. Họ lại lừa tôi. Tôi giống như Charlie Brown 11 lần đá vào khoảng không. Tôi không thể tin được rằng mình lại có thể bị lừa một cách dễ dàng như vậy.
Điều gì đã khiến tôi xuống tới tận đây mà không một chút nghi ngờ cho đến khi tôi biết được những thông tin tồi tệ từ viên thiếu tá ấy? Đó là cái cách mà người ta thường nói: "Đây mới là sự thật, đây mới thật sự là điều đang xảy ra. Một khi nó không phải là chuyện nhảm nhí, như thể họ đã biết tỏng rồi". Có lẽ họ không biết, tôi không nghĩ rằng họ đã cố tình lừa tôi. Điều gì đã lừa dối họ. Đó hẳn là nội dung chi tiết của bản báo cáo, nỗ lực đã được thể hiện trong đó.
Viên đại tá có biết không? Tôi nhận ra rằng mình không quan tâm đến điều đó. Nếu là một năm trước, tôi sẽ nghĩ đó là trách nhiệm của mình phải quay trở lại Sở chỉ huy Sư đoàn để thông báo với ông ta - nếu như ông ta thực sự không biết - hoặc để cảnh cáo ông ta, nhưng đó không phải là lý do làm tôi phải xuống đây lần này. Tôi ngồi nói chuyện với viên thiếu tá một lát, rồi ngủ lại trên cái giường mà ông ta chỉ cho tôi, và ngày hôm sau tôi lái xe quay về Sài Gòn.
Tôi đã quá mệt mỏi với việc thu thập và báo cáo cùng một vấn đề hết lần này đến lần khác ở 43 tỉnh khác nhau. Tôi mệt mỏi vì phải vạch trần sự dối trá của Quân đội Việt Nam cộng hoà và chương trình bình định. Bây giờ tôi khá thoải mái trong việc quyết định mình sẽ làm gì. Điều xuất hiện trong đầu tôi lúc này là mong muốn được quay trở lại làm việc với đám lính Hoa Kỳ, quan sát, theo kiểu tôi đã làm ở Rạch Kiến. Tôi có lý do chính đáng để làm điều đó; để đánh giá chiến dịch bình định cho ngài phó đại sứ, tôi cần theo dõi khá nhiều các kiểu hành quân và các loại đơn vị khác nhau của quân đội Mỹ. Tôi có thể bắt đầu tại Khu vực phi quân sự (DMZ) ở phía bắc và sau đó sẽ đi suốt dọc dài miền Nam Việt Nam, quan sát hết đơn vị này đến đơn vị khác.
Tôi bắt đầu chương trình trong vòng khoảng một hoặc hai tuần vào một ngày bình thường với một đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hoà ở phía Bắc gần khu phi quân sự. Một vài ngày sau, khi đang làm việc ở phía nam tôi đã tới dự một chương trình nghe có vẻ rất hay ở gần Đà Nẵng. Cố vấn là William Corson, một trung tá lính thuỷ đánh bộ, người đã Phát minh ra cái gọi là CAPs, các trung đội hành động phối hợp. Đó là các tiểu đội trong đó hai phần ba lính là người Việt Nam và một phần ba là lính thuỷ đánh bộ người Mỹ. Tiểu đội trưởng là một người Việt Nam, và một tiểu đội phó phụ trách nhóm lính thuỷ đánh bộ. Nhóm lính này được học đủ ngôn ngữ của nhau nên có khả năng giao tiếp với nhau một cách cơ bản.
Nói một cách dễ hiểu thì đó là điều mà Lyndon Johnson đã từng đề nghị theo cách kết hợp các đơn vị người Việt và người Mỹ trở lại vào năm 1965. Giới lãnh đạo bên quân đội lúc đó đã không đồng tình với điều này. Họ muốn các đơn vị của Mỹ có thể hoạt động độc lập với các đơn vị của người Việt Nam, để tránh việc phải chi quá nhiều viện trợ. Họ thừa nhận một điều rằng các đơn vị của Việt Nam đã bị tình báo của Việt Cộng thâm nhập vào, và họ không muốn các đơn vị của Mỹ bị chia nhỏ ra để trở thành điều mà người ta luôn nghĩ là sẽ đóng vai trò huấn luyện chủ yếu.
Nhưng ý tưởng của Corson, theo như những gì ông ta đã giải thích với tôi chiều hôm đó, là cả hai bên sẽ cùng tạo ra được sức mạnh cần thiết. Phía Việt Nam rõ ràng nắm rất rõ về con người và đặc điểm của các vùng lãnh thổ. Quân lính thuỷ đánh bộ sẽ học tập từ họ và sẽ huấn luyện cho các đối tác của mình về các kỹ năng chiến thuật qua những ví dụ. Sự có mặt của họ sẽ đảm bảo cho quân đội Việt Nam hoả lực yểm trợ tốt, không quân và pháo binh, mà thuỷ quân lục chiến có thể điều động từ các căn cứ của Mỹ. Quan trọng hơn cả, đó là nhờ có sự hiện diện của thuỷ quân lục chiến, các cuộc tuần tra có thể được thực hiện vào ban đêm.
Thế nên đêm hôm đó là lần đầu tiên tôi hành quân trong đêm cùng với đội quân người Việt. Trong tiểu đội còn có 4 người Mỹ nữa, họ đi dọc theo những con mương dẫn nước, dưới ánh trăng. Trong buổi giới thiệu vắn tắt tình báo của Quân đội Việt Nam cộng hoà đã cho chúng tôi biết rằng có khoảng 500 Việt Cộng đang qua nơi chúng tôi đang hành quân. Đây không phải là một thông tin ngẫu nhiên hay một thông báo thông thường, do vậy chúng tôi phải hết sức cảnh giác.
Đôi lúc, quá nửa đêm chúng tôi tạm dừng chân ở một cánh đồng để phục kích trong vài giờ. Chúng tôi rời khỏi chỗ con mương, ngồi dưới nước nấp giữa những cây lúa. (Các cánh đồng lúa ở Việt Nam được bón bằng phân bắc, nên khi tôi bị suy sụp vì bệnh viêm gan một vài tuần sau đó, tôi đã nghĩ đến điều này).
Tôi quan sát một hướng, còn một người lính Việt Nam đứng ngay sau lưng tôi, quan sát một hướng khác. Chúng tôi cảm thấy tự tin vì nghĩ rằng người kia cũng sẽ thức để cảnh giác và bảo vệ lẫn nhau, bảo vệ những người còn lại. Đó là một cảm giác thật gần gũi. Một lát sau chúng tôi kiểm tra xung quanh cho nhau, khoảng cách giữa những người Mỹ và người Việt Nam trở nên gần gũi hơn rất nhiều so với bình thường. Ngay trước khi trời sáng chúng tôi đã trở về doanh trại.
Chúng tôi không gặp phải cuộc đụng độ nào, bản báo cáo về hoạt động của Việt Cộng có vẻ như không chính xác. Nhưng một trung đội hành động phối hợp khác cũng hành quân trong đêm đó đã bị rơi vào ổ mai phục khi đi qua một ngôi làng nhỏ. Tôi tới nói chuyện với viên tiểu đội trưởng người Việt Nam, một trong số những người bị thương. Anh ta nằm trên một chiếc giường bạt, bị băng bó khá nặng, nhưng vẫn có thể nói chuyện.
Tôi khá ấn tượng với mối quan hệ giữa lính Mỹ và lính Việt đêm hôm đó; lý luận của Corson, theo tôi, có vẻ khá hiệu quả.
Nhưng người đội trưởng này lại có một câu chuyện hoàn toàn khác Anh ta nói tiếng Việt thông qua một người phiên dịch, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy sự cay đắng trong giọng. Anh ta nói, người Mỹ thực sự không hề quan tâm đến ý kiến của người Việt. Rõ ràng người Mỹ mới là người chỉ huy cuộc hành quân.
Khi viên tiểu đội trưởng cố gắng thông báo một điều gì đó với một lính thuỷ đánh bộ, người lính này cũng chẳng hề quan tâm.
Tôi hỏi anh ta qua người phiên dịch: "Anh định nói gì với anh ta?". Tiểu đội trưởng chống khuỷu tay cố nhỏm dậy và nói mấy câu với tôi. Tôi không thể hiểu chúng, dù nghe không hề giống tiếng Việt. Tôi đề nghị anh ta nhắc lại, và anh ta đã nhắc lại chậm rãi và rõ ràng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu được. Tôi hỏi người phiên dịch: "Anh ta đang nói tiếng gì vậy?
Người phiên dịch trả lời: "Tiếng Anh".
Tôi hỏi người phiên dịch có hiểu anh ta nói gì không, người phiên dịch trả lời là không. Tôi bảo phiên dịch hỏi lại xem anh ta vừa nói gì bằng tiếng Việt và sau đó nói lại với tôi.
Họ trao đổi với nhau vài câu bằng tiếng Việt. Người phiên dịch, với vốn tiếng Anh khá tốt, dịch lại cho tôi: "Chúng ta đang đi vào ổ mai phục".
Tôi nói, "Hừm," và hỏi viên tiểu đội trưởng tại sao anh ta lại biết điều đó. Anh ta trả lời, thông qua phiên dịch, rằng khi họ tới một ngôi làng, "không có tiếng chó sủa, và cũng chẳng có ánh đèn". Anh ta giải thích, vào thời điểm đó của đêm, thường họ phải nhìn thấy vài ánh đèn, hoặc ánh lửa trong các túp lều xuyên qua cửa chính hoặc cửa sổ, và vài con chó xồ ra đuổi và sủa ầm ĩ. Sự im lặng và bóng tối cho thấy các cửa chính và cửa sổ đều đóng, và có ai đó đã nhốt và bịt mõm lũ chó. Việt Cộng đang chờ họ. Nhưng khi anh ta cố gắng nói với viên trung sĩ người Mỹ rằng có mai phục ở phía trước thì viên trung sĩ lại lờ đi và tiếp tục tiến lên phía trước như thể người đội trưởng chưa từng nói gì. Thái độ của người Mỹ luôn như vậy, anh ta nói. Thế nên khi bị bắn, họ bị thương mất 3 người, và cũng thật may mắn là còn cơ hội chạy thoát.
Tôi nói với người phiên dịch, và sau đó là với Corson, rằng tôi đã biết được vấn đề thực ở đây là gì. Vấn đề dạy ngoại ngữ cần thực hiện và cần tập trung hơn nữa. Có một số cụm từ cụ thể họ nên nắm được một cách chắc chắn, và người phiên dịch sẽ giúp kiểm tra xem họ có hiểu không. "Chúng ta đang bị mai phục" là một trong số cụm từ đó. Điều đặc biệt quan trọng là binh lính người Việt có thể nói câu đó bằng một giọng Mỹ, vì người Mỹ đã quen với cách nói như vậy. Trên thực tế, sự việc này đã chứng minh cho điểm mạnh trong ý tưởng của Corson, của những người Mỹ đang làm việc cùng với người Việt, nếu họ có thể giải quyết tốt vấn đề giao tiếp. Đây là một trường hợp hiếm thấy khi tôi có thể ca ngợi một kế hoạch nào, khi trở về MACV, mặc dù họ có vẻ không tha thiết nghe lắm. Họ vẫn không muốn quan tâm đến việc lãng phí khi để binh lính Mỹ cộng tác với binh lính người Việt Nam.
Trong vòng vài tuần kể từ khi đi tuần tra vào ban đêm, tôi bắt đầu suy sụp vì bệnh viêm gan. Bệnh phát trong thời gian tôi đi nghỉ ở Pattaya, một bãi biển ở Thái Lan tôi đã tới để thăm Patricia vào năm ngoái. Tôi nằm dưỡng bệnh trong một nhà điều dưỡng ở Bangkok trong vòng một tháng, cho tới khi tôi có thể tự bay về Sài Gòn, để tiếp tục nằm bẹp thêm một tháng nữa. Cùng lúc đó, kế hoạch bình định đang được tái lập, dưới sự điều khiển của MACV và Westmoreland, nhưng đứng đầu là Bob Korme, người của NSC, không thuộc giới quân sự. Nếu tôi tiếp tục làm việc ở đây, tôi sẽ làm phó hoặc làm trợ lý cho Kormer, một người bạn cũ của tôi từ những ngày còn ở Rand và Washington. Nhưng vì cần phải tĩnh dưỡng để hồi phục nên tôi đã không thể tham gia được ít nhất trong vòng 6 tháng. Trong hoàn cảnh đó, tôi quyết định trở về Mỹ. Harry Rowen đã trở thành chủ tịch của Công ty Rand, và ông ta rất muốn tôi quay trở lại.
Nằm ngửa trên giường với chiếc máy tính trên bụng, tôi giành thời gian để viết một bản ghi nhớ dài tóm tắt lại những kết luận mà tôi đã rút ra cho câu hỏi tại sao chúng ta lại lâm vào tình trạng không lối thoát như hiện nay và làm thế nào chúng ta có thể hình dung ra cách để làm mọi thứ tốt hơn. Đây là những việc giành cho Hội đồng đặc nhiệm của các đồng nghiệp dân sự và quân sự của tôi ở Sài Gòn, thế nên tôi đã không nêu ra gợi ý cho rằng chúng tôi phải tìm cách thoát ra khỏi tình trạng này, điều mà cá nhân tôi luôn quan tâm tới trong suốt một năm qua. Tôi dành lời khuyên đó cho Washington khi tôi về nước. Những người ở đây không thể quyết định được việc đó, thậm chí cũng không để đưa ra gợi ý một cách có hiệu quả. Họ được cử đi để dốc hết sức mình, làm đến hết mức có thể, cho nên tôi chỉ tập trung vào các biện pháp làm thế nào thực hiện mọi công việc tốt hơn những gì chúng tôi đang làm, để giảm thiểu mọi sự cản trở, để có thể phát triển hơn, mà không cần tạo thêm những việc mới trên con đường thoát ra khỏi khó khăn.
Một bản ghi nhớ dài đề đạt xem xét lại những quyền ưu tiên và những nỗ lực cho toàn bộ kế hoạch bình định năm 1967.
Nhưng nỗ lực chủ yếu của tôi là bản tài liệu 38 trang kín chữ về sự giúp đỡ của Mỹ trong các kỳ bầu cử sắp tới ở Việt Nam và tại sao chính phủ của chúng ta nên thay đổi quan điểm từ việc ủng hộ các ứng cử viên quân sự như Kỳ hoặc Nguyễn Văn Thiệu tới khích lệ, hoặc đơn giản là cho thừa nhận việc thay thế họ bằng những nhà lãnh đạo dân sự đáng được tôn trọng. Theo như một nhà báo khá nổi tiếng của Việt Nam, Tôn Thất Thiên, đã nói với tôi rằng ban lãnh đạo của một đất nước cần phải được tôn trọng, và có một chính phủ được tôn trọng thì nó chắc chắn phải nghiêm túc". Tướng Kỳ thuộc lực lượng không quân, hiện đang làm việc trên cương vị là thủ tướng (được sự ủng hộ của các tướng lĩnh khác và người Mỹ), cũng khó có thể tiến xa hơn nếu phải đáp ứng các tiêu chí đó. Người Việt Nam đánh giá ông ta là một kẻ thiếu chín chắn, thiếu tinh thần dân tộc, một kẻ ăn chơi, trác táng, trình độ hạn hẹp, vụng về, hấp tấp, chỉ thỉnh thoảng mới tỏ ra nghiêm túc, và khoa trương (thường xuyên tới thăm những vùng nông thôn với bộ vét nylông bóng bảy, chiếc khăn quấn cổ tẩm nước hoa oải hương và một khẩu súng lục có báng súng nạm ngọc trai, trên đó khắc tên cô tình nhân của ông ta. Mà đây là một nền văn hoá chịu ảnh hưởng của Nho giáo cho nên tuổi tác, phẩm cách, sự trưởng thành, học vấn, đạo đức được đánh giá rất cao. Theo như Thiên nói, đối với nước Mỹ việc thiên vị hay ủng hộ cho Kỳ - tại thời điểm tôi viết về những việc này, là sự lựa chọn duy nhất cho vị trí Tổng thống - như là một kẻ lãnh đạo bù nhìn, bị đánh giá là một sự sỉ nhục, một sự khinh bỉ, bởi chính bản thân ông ta và một số đông người Việt Nam.
Nhưng cá tính và vẻ bề ngoài của Kỳ ít ra còn vớt vát lại cho ông ta phần nào. Kỳ là người miền Bắc, một quân nhân, đã từng là một sĩ quan của Pháp ít chống đối, và luôn tin rằng mình nợ người Mỹ để có được vị trí này. Nhìn chung, tôi cho rằng: "Sẽ là một sự rèn luyện thử thách khi tưởng tượng làm thế nào một người có thể thay đổi hoặc bổ sung thêm một loạt những tiêu chuẩn này để tạo ra một kẻ ít được chấp nhận hơn và xa lạ hơn trong vai trò của người lãnh đạo dân tộc ở Việt Nam".
Còn về phần tướng Thiệu, đối thủ chính về phía quân sự của Kỳ trong việc tranh cử, quyền hạn của ông ta chỉ kém Kỳ một chút. Ông ta không phải là người miền Bắc, mà là người miền Trung, không phải là người miền Nam, và ông ta thêm vào lý lịch của mình rằng ông là người theo đạo Thiên Chúa. Theo như tôi biết, ông ta có đạo đức, chín chắn, giàu kinh nghiệm và khôn ngoan hơn Kỳ, nhưng vì một số lý do, những phẩm chất này cũng không làm ông ta tự tin hơn khi đứng trước công chúng. "Kỳ không có được niềm tin và sự tôn trọng của người Việt Nam vì ông ta quá khác lạ so với những tập tục và văn hoá của người Việt, Thiệu không giành được lòng tin của họ vì ông ta đơn giản bị coi là người không đáng tin cậy: bí ẩn, quỷ quyệt, "quá thông minh", một sức mạnh khá ấn tượng được tạo ra bởi vai trò của ông ta trong các cuộc đảo chính nhằm hất cẳng những người tiền nhiệm. "Với những điều đã nói ở trên, như chính ông ta thừa nhận, Thiệu và Kỳ cùng có một trở ngại chính trị chung đó là cả hai đều trong lĩnh vực quân sự, vì ông ta được chỉ định phải có báo cáo cách đây vài tuần, người Việt Nam rất khó chịu với những kỷ luật quân đội". Tôi trích dẫn ở đây một câu nói của thành viên trẻ trong Hội đồng Lập hiến: "Hãy cho chúng tôi bất cứ ai. Già hay trẻ, tôi không quan tâm, miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, miễn là anh ta không thuộc lĩnh vực quân sự".
Ba mươi trang kín chữ tiếp theo tập trung vào vấn đề chi tiết tại sao không có bất cứ một triển vọng thực sự nào cho tiến trình hoạt động kéo dài ở miền Nam Việt Nam, kể cả là dân sự hay quân sự mà lại không có sự thay đổi mạnh mẽ trong bản chất của chính quyền từ cấp cao nhất. Kỳ tổng tuyển cử sắp tới sẽ là cơ hội tốt nhất kể từ nhiều năm nay để thực hiện việc này một cách yên ổn, nếu như các tướng lĩnh được Mỹ bật đèn xanh của sự cho phép một cuộc tổng tuyển cử diễn ra một cách trung thực không cần bảo đảm cho chiến thắng của một ai trong số họ bằng các hành động lôi kéo hay ép buộc.
Trong số những người Việt Nam được tôi giấu tên, nêu ra trong bản báo cáo thì Trần Ngọc Châu có tác động lớn đến những suy nghĩ của tôi, một phần vì ông ta giới thiệu tôi với những người khác. Tôi đã đưa bản báo cáo của mình cho ông ta xem qua. Một tuần sau ông ta nói đã đưa nó cho Thiệu, một người bạn lâu năm của ông ta. Tôi đang nằm im trên giường, không định dậy làm gì. Nhưng điều đó đã dựng tôi bật dậy khỏi giường. Tôi nói: "Cái gì? Làm sao ông có thể làm thế?"
Châu nói: "Ông ta rất thích bản báo cáo của anh. Tôi chắc chắn như thế. Ông ta đọc từng từ một. Ông ta nói ông ta chưa từng gặp một người Mỹ nào ở Việt Nam lại có thể hiểu rõ tính cách của người Việt Nam như anh".
"Nhưng Chúa ơi, Châu, còn những điều tôi đã viết về ông ta thì sao?"
Châu nói: "Ồ, không vấn đề gì. Ông ta rất vui với những gì anh đã viết về Kỳ và không buồn quan tâm tới những điều anh đã viết về ông ấy".
Buổi sáng mà Kormer sẽ đến, tôi tới đại sứ quán để đón ông ta. Tôi vừa hồi phục được mấy ngày sau 2 tháng dưỡng bệnh trên giường. Khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, tôi đang ngồi trong phòng làm việc của ông ta, nói chuyện với các nhân viên, chúng tôi đã nghe trên đài phát thanh cuộc họp báo của ông ta ngay sau khi bước xuống máy bay.
Ông ta tỏ ra rất quyết đoán về tình hình ở Việt Nam và về kế hoạch bình định đã theo dõi ở Washington và tỏ rõ mong muốn được tiếp tục công việc đó cho tới thắng lợi. Đó là cách mà McNamara, Lyndon Jhonson và Westmoreland vẫn thường nói, nhưng kiểu nói hoa mỹ này không phải là phong cách của Korner. Tôi đã biết được những điều này từ các bài trên báo rằng Korner là một người rất năng nổ và luôn đối chọi với đám phóng viên, biết cách đập tan mọi sự nghi ngờ, nhưng tôi chưa từng nghe nói về thái độ ứng xử của ông ta trước công chúng bao giờ. Điều đó làm tôi lo lắng. Korner hình như rất tin rằng ông ta đang nói lên sự thật. Rất dễ để biết được rằng lúc nào ông ta đã về đến đại sứ quán; bạn có thể nghe thấy tiếng chào sang sảng từ tầng dưới.
Ông ta nổi tiếng vì tính hăng hái, hoàn thành tốt mọi công việc, và rất thích biệt danh Blowtorch của mình. Tôi có thể nhận ra tiếng chân của ông ta khi ông đi lên cầu thang, xông vào phòng làm việc phía bên ngoài của mình. Ông bắt tay và phát vào lưng mọi người trong phòng. Ông ta giống y như khi trên đài phát thanh, sôi động và lạc quan. Ông ta như một cơn lốc, làm căn phòng tràn ngập sinh khí và sự hăng hái. Tôi nói với ông rằng tôi tới chào và cũng để tạm biệt ông, ông ta gật đầu và nói: "Vào đi, Dan, rồi bước vào căn phòng bên cạnh và đóng cánh cửa phía sau chúng tôi lại. Ông ta ngồi xuống bàn và ngả người xuống ghế và cười rất thoải mái.
Tôi nói: "Bob, ông có tin vào những điều ông vừa nói ở sân bay không?"
Ông chống khuỷu tay xuống bàn và rướn người về phía trước, hai tay ôm đầu. Ông cúi mặt xuống bàn và nhắm mắt lại.
Trông ông có vẻ mệt mỏi. Ông nói nhẹ nhàng: "Dan, anh có nghĩ rằng tôi bị điên không?"
Im lặng một lúc, tôi hỏi: "Bch, sao ông lại nhận công việc này?"
Ông ta nhổm dậy và nói: "Đó cũng là điều mà vợ tôi hỏi tôi. Cô ấy cứ hỏi đi hỏi lại rằng: "Sao anh cứ phải tới đó? Sao anh không từ chối đi? Rời khỏi chính phủ nếu anh bắt buộc phải thế". Tôi phải nói đi nói lại với cô ấy rằng: "Khi Tổng thống Mỹ nói với anh rằng ông ấy muốn anh phải làm một điều gì đó, anh không thể nói không với ông ta. Khi ông ấy nói rằng anh là người mà ông ta muốn phải thực hiện việc đó, anh phải làm, dù điều đó vô vọng đến đâu đi chăng nữa".
Một vài ngày sau, tôi rời khỏi Việt Nam.