Dịch giả: Tĩnh Hà - Kiều Oanh
Chương 12
Cái nhìn lệch lạc

Sau chuyến đi đến Việt Nam, tôi đã quyết định trở về Rand chứ không về Lầu Năm Góc. Một lý do chính là tôi muốn lại được tự do để nói về những gì tôi biết và những gì tôi tin về chính sách về Việt Nam của chúng ta với những quan chức của các cơ quan chính phủ đang công tác ở nước ngoài mà không phải lo lắng rằng mình đã làm trái với cương vị của một cấp trên hay một tổ chức nào đó. Tôi đã muốn làm điều đó ở Việt Nam, dưới sự giám sát lỏng lẻo của Lansdale và Porter, hơn là dưới sự giám sát của McNaughton ở Bộ Quốc phòng, nơi mà tôi phải thận trọng giấu những suy nghĩ của mình, cũng như John, khi chúng khác biệt với ý kiến của McNamara. Sau 3 năm quan sát và học hỏi nhiều điều, tôi tin rằng những điều tôi biết về tình hình ở Việt Nam chỉ có giá trị qua lời nói của tôi, vì tôi đã từng làm các công việc kiểm soát, chỉ huy và xây dựng kế hoạch hạt nhân ở Rand. Rand thực sự là một cơ quan hoàn hảo để làm điều đó Đó chưa phải là tất cả số người tôi muốn nói cho họ hiểu.
Vẫn còn những người đang gánh trách nhiệm trong việc hoạch định hoặc cố vấn về chính sách an ninh quốc gia nữa. Với tư cách là một chuyên gia phân tích của Rand tôi có thể vào rất nhiều phòng ban như một cố vấn và nói những gì mà tôi nghĩ theo cái cách mà có thể tôi chưa từng làm với tư cách là một đại diện chính thức của chính phủ hoặc của một cơ quan đặc biệt với quan điểm chính thức; với cấp trên tôi có thể bị mất mặt vì cách ăn nói bừa bãi này.
Trong một tuần tôi dành thời gian để chuyển công việc của mình khỏi Bộ Ngoại giao, ở Washington, tôi gặp gỡ rất nhiều người để nhấn mạnh quan điểm của mình về vai trò của chúng ta tại Việt Nam và những gì mà chúng ta nên làm. Tôi đã nói chuyện với McNamara một tiếng đồng hồ tại văn phòng của ông ta tại Lầu Năm Góc. Trước khi kết thúc tôi đưa ông ta một bản báo cáo ngắn gọn chỉ trích việc Mỹ đang ủng hộ Thiệu và Kỳ trong cuộc bầu cử tại Việt Nam và cần phải tạo cơ hội cho một ứng cử viên dân sự, người có mong muốn tìm kiếm hoà bình bằng cách thoả thuận với Mặt trận dân tộc giải phóng, ông ta đọc nó ngay trước mặt tôi.
McNamara nói rằng về cơ bản ông ta đồng ý với tôi nhưng chính sách chính trị như thế này thuộc về thẩm quyền của Rusk và ông ta không đảm nhận việc này. Ông ta nói ông ta đang tập trung vào một vấn đề khác. Qua các báo tôi biết được rằng Thượng nghị sỹ John Stennis đang dự định có một bài phát biểu trước công chúng để tạo cho Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân một tiền đề có thể mở rộng quy mô chiến tranh và loại bỏ những cản trở các mục tiêu và quy mô của việc ném bom miền Bắc. Tôi hỏi: "Đánh bom ở mức tối đa ư?", ông ta gật đầu. Tôi nói không gì có thể quan trọng hơn điều đó và tôi chúc ông ta thành công trước khi ra về.
Vào thời điểm đó, tôi không biết rằng 2 tháng trước đó Robert McNamara đã xúc tiến việc đàm phán về kế hoạch rút quân chiến lược. Bản thảo báo cáo trình Tổng thống của ông ta được đánh dấu "Tối mật", và mặc dù vậy, vẫn đến tai của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân; nó tạo nên một cơn bão chống đối kịch liệt cho rằng điều đó đánh dấu thời điểm bắt đầu của sự mất uy tín của ông ta đối với Tổng thống cũng như chức vụ của ông ta. Tôi không quan tâm đến việc liệu quan điểm của chúng tôi đồng nhất đến mức nào trong suốt cuộc gặp gỡ của chúng tôi, nhưng tôi cũng không lấy gì làm ngạc nhiên về điều đó.
Một ngày trước khi tôi có một cuộc nói chuyện với Chet Cooper, một sĩ quan tình báo của CIA lại trụ sở Hội đồng An ninh quốc gia (NSC), người đang là phụ tá cho đại sứ Averell Harriman về vấn đề nhân sự trong NSC. Cooper đã từng vài lần thử thương lượng với miền Bắc Việt Nam, và sau này Harriman đã được chọn là người đàm phán của Mỹ tại hội nghị Paris. Tôi đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình và Cooper thúc giục tôi nói chuyện với Harriman vào ngày hôm sau. Điều đó dường như càng khẳng định dự đoán của tôi rằng Harriman, cũng giống như Cooper, chỉ là bước trung gian để tôi bày tỏ quan điểm của mình. Cuối cùng tôi đề xuất một cuộc đàm phán và nó giống như dàn xếp tạm thời ở Lào vào năm 1962, và Harriman chính là người đã chỉ cho Kennedy thấy sự dàn xếp đó và cũng là người tán thành việc liên kết chống lại Bộ Quốc phòng và những kẻ hoài nghi trong CIA. Vì vậy, tôi đã thẳng thắn nói với Harriman giống như nói với Cooper.
Có thể là đã quá thẳng thắn. Kai Bird, người viết tiểu sử của anh em nhà Bundy, tình cờ bắt gặp phản ứng của Harriman đối với cuộc gặp gỡ của chúng tôi trong những tài liệu riêng của ông, trong một trích đoạn thuật lại cuộc đối thoại qua điện thoại giữa Harriman và Cooper vào ngày 27 tháng bảy: "Harriman: Tôi đã gặp người mà anh muốn tôi gặp. Tôi chẳng có ấn tượng gì với anh ta. Anh ta đã có một cái nhìn hằn học. Với anh ta mọi chuyện đều đen tối, chẳng có chuyện gì là sáng sủa cả. Tôi nghĩ là tôi đã đoán ra những suy nghĩ trong thâm tâm anh ta và nó đã đưa anh ta đi quá xa, loanh quanh sang một hướng khác. Tôi không nghĩ là anh ta cũng nói với nhiều người tất cả sự thật. Anh ta đã đi quá xa đến nỗi đã lạc hướng cũng giống như một vài người bạn của chúng ta đã chệch ra khỏi những định hướng khác. Anh phải biết cân bằng một số mặt. Anh ta bị viêm gan nên tôi nghĩ nó đã ảnh hưởng tới thái độ của anh ta".
Harriman nhầm khi nghĩ là tôi không nói thật với những người muốn nghe tôi như tôi nói với ông ta. Nhưng ông ta không phải là người duy nhất coi những đánh giá của tôi là lệch lạc, liệu có phải chính họ đã khiến tôi khăng khăng với quan điểm của mình. Một hay hai ngày sau đó, tôi trao đổi mối quan tâm của tôi với Murray Gell-Mann, người mà sau này giành giải Nobel vật lý và một vài người bạn đồng nghiệp của ông ta đang là cố vấn cho Bộ Quốc phòng. Tôi đã bị George Carver theo dõi, người đứng đầu của Lực lượng Đặc nhiệm Việt Nam trong CIA, người mà năm ngoái đã tán đồng ý kiến của Walt Rostow. Ngồi cùng tôi trong phòng nhỏ của E-ring tại Lầu Năm Góc, sau khi nghe nhận xét của tôi, ông ta bắt đầu nói một cách thận trọng: "Tôi không biết người của chúng ta (CIA) trên chiến trường có hút thuốc hay không, nhưng họ đang gặp phải một vấn đề khác từ những lời kể của Dan?". Ông ta xem xét tỉ mỉ những dấu hiệu đáng khích lệ của MACV trong những bước phát triển mới nhất. "Việt Cộng đang rất khó khăn thiếu thốn, họ đang cạn kiệt nhân lực, chúng tuyển cả những người 14 tuổi…"
Tôi thực sự khó chịu khi nghe thấy ông ta nói vậy. Gell-Mann quay lại và hỏi tôi có ý kiến gì không sau khi Carver nói xong. Tôi lướt qua bản báo cáo và chỉ ra rằng mỗi tin tức tốt lành đó trước đây cũng đã làm người Pháp lạc quan. Họ đã đánh lại người Mỹ và những đồng minh của chúng ta với những người 14 tuổi từ khi chúng ta đặt chân đến đó". Tôi đã phát điên lên. Có thể đó là cách sống của tôi. Tôi nói: "Tôi không biết người của các anh có hút thuốc trên chiến trường hay không, nhưng tôi biết những chuyện nhảm nhí như thế này đã làm Washington trì trệ trong suốt 20 năm qua".
Dường như xấu hổ, các nhà khoa học đứng dậy để đi dự một cuộc họp khác.
Tại Bộ Ngoại giao, Bill Bundy, người phụ trách vùng Viễn Đông, có vẻ đồng ý với quan điểm của tôi về triển vọng của chúng ta tại Việt Nam. Lúc đó đã là cuối ngày, và ông ta đã rất thiện chí nhưng vẫn tỏ ra mệt mỏi. Về lời đề xuất của tôi sử dụng cuộc bầu cử ở Việt Nam lúc đó đang diễn ra như là một cách để rút lui an toàn ông nói rằng đã quá muộn để thay đổi chính sách của chúng ta về Việt Nam. Để rút ra khỏi cuộc chiến nói chung, ông nói: "Tôi không nghĩ là chúng ta có thể có một động thái nào cho tới khi cuộc bỏ phiếu kết thúc". Ông không nói về cuộc bần cử ở Việt Nam mà ở Mỹ, vào năm 1968.
"Nhưng còn những một năm nữa", tôi nói.
Ông thở dài và lắc đầu buồn bã. "Tôi biết, nhưng tôi không nghĩ là Hà Nội sẽ có phản ứng gì nghiêm trọng về cuộc đàm phán cho tới khi họ biết họ đang đàm phán với ai sau tháng mười một tới đây. Chúng tôi đều biết, mà tôi không phải nói ra, rằng Hà Nội sẽ nhanh chóng phản ứng nếu chúng ta bắt đầu tuyên bố về sự rút khỏi Nam Việt Nam chứ không phải họ từ bỏ nó hay về chuyện chia sẻ quyền lực ở Sài Gòn.
Tôi đảm bảo (có thể là sai lầm) rằng những gì ông ta nói về sự cân nhắc về Việt Nam như việc làm chậm lại những tiến trình ở Việt Nam chỉ là một cách nói hàm ý rằng Johnson không định để mất Việt Nam trước khi ông ta được bầu lại làm Tổng thống. Một trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao không thể nói ra trực tiếp, công khai như thế, kể cả lúc riêng tư. Trong âm điệu của giọng nói, tôi còn nghe được ông ta nói rằng sẽ không cố gắng ngăn cản điều đó, nó không đáng để ông ta phải như vậy. Tôi có thể hiểu được điều đó, kể từ khi ông ta đã đứng về phía Lyndon Johnson. Điều làm tôi khó chịu, dúng ra là bị sốc, là làm sao ông ta có vẻ bình thản như vậy trước dự báo đó, làm sao ông ta có thể dễ dàng cam chịu viễn cảnh một năm chiến tranh nữa, kèm theo nó là hiểm hoạ, chắc chắn là như vậy, và nếu chiến tranh tiếp tục kéo dài, có thể nó sẽ còn lan rộng hơn.
Tôi nghĩ tôi có thể đã mong chờ một phản ứng rất khác từ Walt Rostow. Trước đây, là người đứng đầu bộ phận hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao, giờ đây ông ta làm việc trong Nhà Trắng, là người kế nhiệm của McGeorge Bundy làm Cố vấn An ninh quốc gia cho Tổng thống. Tôi gặp Rostow lần cuối cùng ngay trước khi tôi rời khỏi Việt Nam vào tháng tám năm 1965.
Kế hoạch đánh bom miền Bắc mà ông ta đã đề nghị từ 4 năm trước, giờ đã được thi hành từ tháng ba, và thêm 100.000 quân Mỹ nữa được đưa sang Việt Nam, lần bổ sung đầu tiên của lời cam kết đưa quân sang không giới hạn, ngay khi ông ta vừa mới rời miền Nam Việt Nam. Rostow đã sẵn sàng để đón mừng sự đầu hàng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Sau đó ông ta đã nói với tôi: "Dan, mọi chuyện đều có vẻ tốt đẹp. Cái mà chúng ta nghe được là Việt Cộng đã tan tác dưới các trận đánh bom. Chúng sẽ suy sụp trong hàng tuần liền. Không phải hàng tháng, chỉ hàng tuần thôi".
Hai năm sau tôi không có ý định nhắc lại cho ông ta việc này, nhưng những người khác nói với tôi rằng suy nghĩ của ông ta vẫn không thay đổi. Tôi đã quyết định không tranh luận về hoà hoãn hay về những tiến bộ trên chiến trường với ông ta nữa.
Từ những gì mà tôi đã nghe được, ông ta đã chai sạn với tin xấu, hay đúng hơn, là cố giữ vững tinh thần trước bất kỳ một tin tức nào. Tôi cũng không lo ngại khi mang theo người những bản báo cáo tình hình các địa phương gần đây nhất của mình.
Tôi rất ít khi bước vào trong văn phòng của Rostow ở Cánh Tây trước khi ông ta muốn chia sẻ với tôi niềm tin về sự tiến triển của tình hình mà ông đã báo cáo với Tổng thống về đàm phán và tình hình chiến sự trên chiến trường. Ông ta nói rõ ràng là cuối cùng chúng ta đã vượt qua được giai đoạn khó khăn.
"Phía bên kia đã gần như sụp đổ. Theo tôi, chiến thắng đã gần kề". Tôi nói rằng tôi rất muốn nói chuyện với ông ta về tình hình chính trị. Ông ta trả lời: "Nhưng, Dan này, anh phải xem những biểu đồ thống kê mới nhất. Tôi có chúng ở ngay đây thôi. Biểu đồ đều thể hiện rất tốt, Dan. Chiến thắng đã gần kề rồi".
Mặc dù tỏ ra lịch sự, ngay cả để nghe những vấn đề khác, tôi cũng không thể ngồi đó thêm được. Tôi nói: "Walt, tôi không muốn xem những biểu đồ đó của ông. Tôi vừa trở về từ Việt Nam. Chiến thắng không hề gần kề. Chiến thắng sẽ không diễn ra đâu".
Tôi không nhớ cuộc nói chuyện sau đó diễn ra như thế nào. Tôi đã không kéo dài cuộc tranh luận, ông ta cũng không đuổi tôi ra khỏi cửa, và tôi cũng không có ý định xem biểu đồ, nhưng tình trạng đó không kéo dài lâu. Mặc dù thế, nó kết thúc không đột ngột bằng cuộc gặp của John Vann với Wall một năm sau đó, sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân. Vann đã được sắp xếp một buổi gặp với Tổng thống, nhưng Rostow được yêu cầu nói chuyện trước với ông ta. Lúc đầu John thể hiện cái nhìn lạc quan của mình hơn tất thảy mọi người, trong đó có cả tôi, nhưng ông ta không nói về chiến thắng, ông ta nói về khả năng để tránh khỏi thất bại của chúng ta. Ông ta nói với tôi rằng Rostow ngay lập tức bắt đầu tỏ ra bồn chồn. Cuối cùng Walt nói: "Nghe này, tôi nghĩ là cuộc chiến này sẽ kết thúc vào cuối năm nay".
Cảm thấy thật xấc xược, John nói với một gương mặt rất lạ: "À, không, tôi nghĩ chúng ta có thể kéo dài lâu hơn thế nữa".
Rostow nhìn ông ta và đi ra khỏi phòng. Vann đợi ông quay trở lại nhưng một lúc sau một viên tuỳ tùng báo với John rằng Tổng thống không thể gặp ông ta.
Vào giữa năm 1967, trong gần cả một thập niên tôi được chính thức tuyển dụng, trong suy nghĩ của riêng tôi, là học cách hiểu biết về những quyết định của chính phủ đưa ra với hy vọng giúp cho Tổng thống và phần còn lại của chính quyền để làm cho mọi việc tốt đẹp hơn, không gây ra nguy hiểm hay sai lầm để có những quyết định trong tình trạng xung đột và bấp bênh, Việt Nam là một ví dụ điển hình về việc không có lý do gì thực sự là cấp bách - để sửa đổi. Sau hai năm ở đó tôi nghĩ tôi đã nhận thức được một phần của vấn đề và một câu trả lời hợp lý cho nó là: một nỗ lực có chủ ý của những quan chức cấp cao nhằm một cách thức để né tránh và lừa gạt trong nội bộ. Tôi tìm ra hai cách để làm điều này là: phớt lờ nó đi và trừng phạt nó.
Cái mà tôi coi như một "bài học lớn về Việt Nam" là sự tác động của những thất bại chính trị đối với các hoạt động đối nội mà thực chất sự lừa dối các nhà lãnh đạo, nhưng lại được họ ngầm khuyến khích. Đó là kết quả của một quá trình nhận thức sai lầm từ cấp Tổng thống cho tới những người thừa hành. Đây là thất bại của bộ máy quan liêu mà tôi đã nghi ngờ. Có những tình huống - như ở Việt Nam là một ví dụ - mà ở đó chính phủ Mỹ, bắt đầu trở nên kém cỏi, nhưng không hề nhận ra và sẽ không thể học được bài học đó. Ở Việt Nam có cả một đống những điều không thể học hỏi được một cách máy móc, lại bị giấu giếm và không được cập nhật bởi những cách cư xử thụ động. Đã có một bước thay đổi nhanh chóng về nhân sự và một sự thiếu hụt về tổ chức chính quyền ở tất cả các cấp. Rạch Kiến là một ví dụ hoàn hảo: một viên chỉ huy tiểu đoàn sĩ quan không có kinh nghiệm bộ binh nào, người vừa mới gặp viên chỉ huy đại đội của anh ta khi họ cùng chiến đấu trong một cuộc hành quân 8 tháng trên cùng một hoàn cảnh tương tự, đã thậm chí không hề ý thức được rằng đây chính là những quân Mỹ đã từng đến thăm họ trước đó.
Như Trần Ngọc Châu nói với tôi vào năm 1968: "Người Mỹ các ông có cảm giác như đã đánh trận trong bảy năm. Các ông không hề như vậy. Các ông chỉ mới đánh trong một năm, bảy lần". Đã có một thất bại chung nhất để học bài học lịch sử hoặc để phân tích hoặc thậm chí để ghi lại những kinh nghiệm chiến đấu, đặc biệt là những sai lầm. Hơn nữa, những ảnh hưởng gây hậu quả của những báo cáo một cách lạc quan sai lệch ở mọi cấp độ, về việc miêu tả "sự tiến bộ" của tình hình hơn là đề cập đến những vấn đề tồn tại hoặc sai lầm mắc phải, đã che đậy đi sự cấp thiết cần phải thay đổi trong cách tiếp cận hay tiếp thu vấn đề đặt ra.
Khi trở lại Washington vào mùa hè năm 1967, tôi biết rằng McNamara đã thực hiện một cuộc nghiên cứu có tính lịch sử của việc đề ra những quyết định về Việt Nam. Đề cập đến cuộc điều tra bước đầu đối với Tổng thống Kennedy với thất bại nghiêm trọng về hoạch định chính sách ở cấp cao, Bộ trưởng Quốc phòng đã phân công kế hoạch cho John McNaughton trong cơ quan cũ của tôi, Cục An ninh quốc tế, nơi Paul Warnke được bổ nhiệm thay thế vào tháng bảy.
McNaughton đã giao nhiệm vụ cho cấp phó của ông ta, Mort Halperin, người đã giao cho cấp phó của mình, Lesile Gelb, trọng trách đó. Gelb đã từng là sinh viên tốt nghiệp khoá sau Henry Kissinger tại Harvard và giống như Halperin, đã cộng tác với Kissinger trong các khoá học. Ông ta đã chuyển tới Lầu Năm Góc từ một vai trò của trợ lý về pháp luật của Jacob Javits, Thượng nghị sỹ Cộng hoà của New York.
Nghiên cứu của McNamara đã được thực hiện với hàng loạt các câu hỏi mà ông ta muốn có câu trả lời. Trong việc chọn nhưng người nghiên cứu, Gelb đã đề nghị chọn những nhà nghiên cứu lịch sử như là một sự đáp ứng toàn diện hơn. Ông ta và Halperin muốn có những người có kĩ năng phân tích lành nghề, có khả năng phân chia các nhóm vấn đề và đề xuất những vấn đề cần nghiên cứu. Nếu có thể, ông ta cũng muốn có những người đã từng tham gia phục vụ ở Việt Nam (cả Halperin và Gelb đều chưa từng đến đó) hoặc đã tham gia vào quá trình ra quyết định về vấn đề Việt Nam ở Washington. Tôi phù hợp với cả 3 tiêu chuẩn đó, vì thế tôi là một trong số những người đầu tiên họ đặt vấn đề mời tham gia. Tôi đồng ý giúp họ soạn thảo một tập với hy vọng rằng điều đó sẽ cho tôi một dịp tiếp cận với toàn bộ công việc nghiên cứu để có được một sự phân tích đối chiếu và tìm kiếm các kênh khác nữa, mà tôi thực sự quan tâm.
Gelb chỉ cho tôi chỗ làm việc mà ông ta đã sắp xếp. Một căn phòng lớn gần phòng Bộ trưởng, với một dãy bàn ngăn nắp cho những nhà nghiên cứu, được ngăn cách bởi những chiếc tủ bốn ngăn đựng những tài liệu mật. Chúng đều đã đầy hoặc đang đầy lên, với những bức điện và những báo cáo về Việt Nam từ các quan chức trong tất cả các ban ngành của chính phủ. Gelb bảo tôi có thể chọn bất cứ vấn đề hay giai đoạn nào mà tôi muốn nghiên cứu. Nếu không phải mất quá nhiều công sức, dĩ nhiên có thể chọn năm 1964 -1965, thời điểm mà tôi làm việc cho McNaughton ở Washington, nơi tôi đã tận mắt chứng kiến những quyết định được đưa ra đầu tiên. Thay vào đó, tôi chọn nghiên cứu những quyết định của Kennedy vào năm 1961, khoảng thời gian mà tôi nắm được rất ít và muốn được tìm hiểu thêm. Như tôi đã miêu tả trước đây, chuyến đi đầu tiên của tôi tới Sài Gòn là vào mùa thu năm 1961, hhông lâu trước chuyến đi của Taylor -Rostow. Điều mà chúng tôi nghe được về chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm dường như không có triển vọng sáng sủa để có thể dựa vào đó để tăng cường sự can thiệp của Mỹ. Lúc đó tôi đã vui mừng khi thấy rằng Tổng thống Kennedy nhanh chóng bác bỏ những ý kiến, mà tôi được biết đến ở Sài Gòn về việc gửi những đơn vị lính Mỹ sang Việt Nam, mặc dù ông ta đã làm như vậy.
Có thể hiểu, ông ta tiếp tục ủng hộ người cầm đầu nhóm theo Đạo Thiên chúa chống lại các nhà lãnh đạo Cộng sản và lăng sự ủng hộ đó một cách có chừng mực.
Tôi đã không thực sự ngạc nhiên bởi điều này vào thời điểm năm 1961, mặc dù tôi nghĩ nó đã đưa chúng ta tới một hướng sai lầm. Điều làm tôi ngạc nhiên là những lý do chính giải thích cho sự lựa chọn của ông ta. Kennedy nói rằng ông ta gần như làm theo những chỉ dẫn của Walt Rostow và Maxwell, hai trong những cố vấn hàng đầu của ông ta, những người mà cá nhân ông đã cử tới Sài Gòn để nắm bắt tình hình và đặc biệt là tìm cơ sở pháp lý cần thiết để đưa bộ binh Mỹ sang. Sau khi trở về từ chuyến đi, tướng Taylor và các thành viên trong đoàn đã kết luận đúng như dự đoán rằng nguồn lực của quân đội miền Nam Việt Nam, với chi viện không đáng kể của Mỹ đã có đủ khả năng để đương đầu với cuộc nổi dậy. "Tôi tin tưởng chắc chắn rằng quân đội miền Nam Việt Nam có khả năng kiểm soát được mọi việc trong phạm vi bên trong biên giới của họ"(76). Taylor nói, và "để bảo vệ đất nước chống lại những cuộc tấn công thông thường". Khi ông ta trở về, tờ Thời báo New York đã viết: "Các quan chức đã đúng khi suy luận rằng tướng Taylor không tán thành việc gửi quân Mỹ sang vào thời điểm này… Trong khi phản đối việc gửi quân, tướng Taylor nghiêng về sự cần thiết của việc gửi các nhân viên kỹ thuật quân sự… "(77).
Từ tất cả những gì được nghe khi tôi đến Sài Gòn lần đầu, tôi nghĩ rằng đó là một điều ngu xuẩn. Tôi có thể hiểu lý do cơ bản phản đối việc đưa quân sang. Nhưng liệu Tổng thống có thể làm cho công chúng yên tâm như thế vào tình thế mà ông ta đang dấn sâu vào nếu ông biết được những điều mà tôi đã biết hay không? Và ông ta đã nghe hay chưa về chuyện đó? Taylor và Rostow hẳn đã nói chuyện với những người mà tôi đã tiếp xúc một tuần trước đó. Những người trong đoàn của ông ta phải nghe được những chỉ thị, giống nhau, đọc những bản báo cáo giống nhau. Làm sao họ có thể kết luận như vậy, làm sao họ có thể nói với Tổng thống, rằng chỉ cần những cố vấn, với máy bay trực thăng và những chuyên gia, là có thể xoay chuyện được tình hình?
Tôi không nghĩ điều đã xảy ra với tôi vào năm 1961 mà Nhà Trắng lại có thể nói sai lệch đi về những gì Tổng thống được báo cáo. Theo kinh nghiệm riêng của bản thân với tư cách là cố vấn làm việc ở Lầu Năm Góc, rất dễ để tôi giả định rằng vì một số lý do quan liêu nào đó mà những người đại diện của Tổng thống đã bị mê muội. Hoặc nếu không định lừa dối, thì họ ít nhất phải nghe từ nhiều người với những ý kiến khác nhau, những người mà tôi từng tiếp xúc.
Tôi cũng nghĩ rằng chúng ta không nên gửi quân, nhưng không phải là vì lạc quan, mà ngược lại. Có những ý kiến khác nhau ở Sài Gòn là liệu lời cam kết đưa sang không giới hạn quân chiến đấu Mỹ cuối cùng có thể thắng trong cuộc chiến này hay không - nếu không tính đến những chi phí, hiểm hoạ và thương vong. Nhưng một bài học hết sức rõ ràng mà tôi có được từ những gì mình nhìn, nghe thấy, là chỉ những cố vấn quân sự với những đơn vị hỗ trợ, mà Kennedy đã gửi sang, chắc chắn sẽ không đáp ứng được nhu cầu. Tại sao cũng những thiếu tá và đại tá vừa nói chuyện rất thật thà với tôi lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác cho Maxwell Taylor? Họ có thể đánh lừa ông ta thậm tệ như thế ư ngay cả khi họ muốn đi chăng nữa? Hay có lẽ ông ta muốn lừa gạt Tổng thống?
Giả thuyết tôi đưa ra vào mùa thu năm 1967 đối với những sự kiện năm 1961 là những gì chung nhất rút ra từ những báo cáo trong suốt khoảng thời gian đó, đến bây giờ bao gồm các báo cáo của David Halberstam và M. Athur, Jr. Schlesinger. Đây thực sự là một tình trạng mắc kẹt trong bãi lầy; rằng báo cáo chiến sự lạc quan cộng với sự không vững chắc của những đánh giá tình hình của những cố vấn ở Washington, đặc biệt là các chuyên gia về quân sự đã khẳng định với Tổng thống, một cách sai lầm rằng kế hoạch ông ta chọn là đúng đắn. Đầu tiên phải đề cập đến quyết định được gửi cho những cố vấn vào năm 1961, Schlesinger viết: "Đây là chính sách "tiến từng một bước một" - mỗi bước đi mới luôn hứa hẹn thành công mà bước ngay trước đó cũng đã hứa hẹn mà bước ngay trước đó cũng đã hứa hẹn thành công nhưng không may khi đưa ra đã gánh chịu thất bại"(78). Để mở rộng nó trong những năm tiếp theo, Schlesinger khẳng định: "Mỗi bước tiến trong cam kết sâu hơn của Mỹ đã được xem xét một cách hợp lý như là bước cuối cùng vào thời điểm đó là một điều tối cần thiết. Giờ đây, khi hồi tưởng lại, mỗi bước đi chỉ dẫn đến bước tiếp theo, cho tới khi chúng ta nhận ra chúng ta đang mắc kẹt trong cơn ác mộng của những nhà chiến lược Mỹ đề ra, một vừng đất chiến tranh ở châu Á, một cuộc chiến mà không một Tổng thống nào mong muốn hay dự kiến thực hiện, kể cả Tổng thống Johnson"(79)
Trước khi tôi đọc được những tài liệu này, điều đó xem ra có vẻ hợp lý. Tôi đã làm việc theo quan điểm đó ngay từ những ngày đầu làm việc cho dự án nghiên cứu của McNamara - hoặc, vì nó cũng đã được biết đến, trong tài liệu mật của Lầu Năm Góc. Từ kinh nghiệm của bản thân khi ở Lầu Năm Góc, tôi biết Schlesinger, cũng như những người khác, đã sai lầm khi dựa vào những lý lẽ tương tự cho sự leo thang của Tổng thống Johnson vào năm 1965. Nhưng tôi tưởng tượng ra rằng như năm 1967, thời kỳ 1964-1965 là một sự khủng hoảng khác thường của chủ nghĩa bi quan.
Xét cho cùng, từ những kinh nghiệm trong lĩnh vực của mình trong những năm ngay sau đó, thật khó để tôi không nghi ngờ rằng Tổng thống Johnson đã lạc lối bởi những sai lầm không kiểm soát được, những báo cáo lạc quan mà tôi biết là đã được nộp cho văn phòng ở Nhà Trắng của Walt Rostow và Bob Korner thật khó có thể cung cấp một thông tin được chọn lọc cho Tổng thống. ảnh hưởng của những suy luận trên phạm vi rộng này đã làm giảm một cách đáng kể gánh nặng trách nhiệm, hoặc buộc tội, vì sự bất lực và chính sách sai lầm đối với mỗi vị Tổng thống và đặt trách nhiệm đó lên vai những cố vấn của họ, nhất ỉà những chuyên gia về quân sự, và về sự nhận thức hạn chế và những bản tường trình, đó là thất bại về nhận thức một cách hệ thống. Giải pháp dường như là tìm ra cách để cung cấp những thông tin chính xác hơn cho Tổng thống (Nếu Nga Hoàng chỉ biết…!"). Như tôi đã cố gắng làm bằng những thông báo trực tiếp và lời khuyên của tôi là làm thế nào để hiểu được McNamara, Korner và Đại sứ đặc nhiệm ở Sài Gòn.
Tôi biết từ những điều mà báo chí đã khẳng định rằng những báo cáo và những đề nghị quân sự lạc quan của đoàn đi tìm hiểu đưa ra mà tôi được chứng kiến vào năm 1966-1967 cũng tương tự như những đặc điểm của các năm 1962-1963, cũng như vào cuối những năm 50 và giống báo cáo của viên chỉ huy Pháp thời kỳ ngay trước chiến dịch Điện Biên Phủ. Không có điều gì trong số những điều đã xảy ra những năm vừa qua, mà những quyết định chủ chốt để leo thang chiến tranh được thực hiện: nhưng giống như những nhà phân tích khác, tôi cho rằng kiểu lạc quan giả dối và tự lừa dối bản thân đồng hành cùng với sự thật, cũng như vậy, là của những năm tháng cam kết bị phê phán (trừ năm 1965). Điều này còn bao gồm cả quyết định của Truman viện trợ trực tiếp cho Pháp vào năm 1950, cam kết của Eisenhower với Diệm vào năm 1954, và quyết định của Kennedy phá vỡ giới hạn của hiệp định Geneva về cố vấn của Mỹ năm 1961.
Trong vòng một tháng tìm hiểu hồ sơ trong văn phòng nghiên cứu của McNamara, tôi đã phát hiện ra rằng giả thiết này là sai lầm. Mọi quyết định quan trọng này đều liên quan mật thiết với chủ nghĩa bi quan trong thực tế, chủ tâm che giấu đối với công luận, như trong thời kỳ năm 1964-1965.
Tôi bắt đầu bằng việc chắt lọc những tài liệu ở Lầu Năm Góc và những đánh giá của Cục Tình báo Trung ương liên quan tới Đông Dương trong những năm 1950 - 1960, mà tôi đã yêu cầu và được CIA đáp ứng, trước khi chuyển sang năm 1961. Có điều là bằng chứng trong từng năm của những năm tháng có quyết định quan trọng mà Tổng thống lựa chọn lại không được tìm thấy dựa trên những báo cáo lạc quan hoặc dựa trên những đảm bảo sự thành công trong quá trình lựa chọn của Tổng thống.
Trái ngược gần như hoàn toàn so với các báo cáo công khai, không một yếu tố nào trong số các yếu tố đã nêu trên được đưa ra cho Truman vào năm 1950 hay Eisenhower vào thời kỳ 1954-1955. Chúng cũng không thích hợp với Kennedy vào năm 1961 và kể cả cho Johnson vào năm 1965. Thực chất là đã có những thời kỳ lạc quan hão huyền trước hoặc ngay trong những năm đưa ra quyết định. Nhưng chúng không bao giờ có thể giải thích được cho sự leo thang tiếp ngay sau đó, mà thường ngay lập tức được dự báo trước và luôn đi kèm với sự tăng lên của chủ nghĩa hiện thực u ám, bao gồm một sự hiểu ngầm trong nội bộ rằng cam kết mới của Tổng thống đã chọn có thể sẽ không đưa đến thành công. Về phương diện này, cách lựa chọn một cuộc leo thang dường như có một cái gì đó rất khó hiểu.
Tôi chọn nghiên cứu năm 1961 vì tôi luôn băn khoăn về những lựa chọn của Kennedy ở Việt Nam vào mùa thu năm đó.
Ông ta đã bị thuyết phục tin vào cái gì vậy? Liệu ông ta có hiểu điều ông ta đang bắt đầu thực hiện không? Tôi đã đi tìm một lời: giải đáp cho những mâu thuẫn hiển nhiên giữa những gì tôi được nghe và được chứng kiến vào tháng 9-1961 và những gì mà Taylor và của ông ta, đã kết luận vào tháng mười, căn cứ vào những thông cáo báo chí và những lời tuyên bố chính thức: với giả thiết là những biện pháp mà Kennedy đã phê duyệt vào tháng mười một là thoả đáng. Những mâu thuẫn đó đã nhanh chóng biến mất khi tôi nắm được thực chất về con người của Taylor, những khuyến cáo mang tính cá nhân của ông ta đối với Tổng thống và những cơ sở pháp lý mà ông ta dựa vào. Những thông cáo báo chí ở thời điểm đó là sai lầm. Những lời tuyên bố chính thức đều là những lời dối trá.
Maxwell Taylor đã không khuyên Tổng thống rằng chương trình mà ông ta cuối cùng đã chấp nhận là thoả đáng, thậm chí trong thời gian ngắn, thậm chí để ngăn ngừa thất bại, mà chỉ là để giành chiến thắng. Taylor cũng tỏ ý chống lại việc gửi quân chiến đấu sang. Mà ngược lại (ông ta đã trình), trong tập hồ sơ tối mật "Những đánh giá chỉ dành cho Tổng thống" ("Eyes only for the president") Taylor không chỉ gợi ý đến việc đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam "một cách không chậm trễ"(80), mà còn nói ông ta đã đi đến một kết luận rằng đây là một hành động duy nhất đúng nếu chúng ta muốn đảo ngược lại xu hướng thất bại hiện tại… Trong thực tế, tôi không tin rằng kế hoạch của chúng ta để cứu miền Nam Việt Nam sẽ thành công nếu thiếu nó (quân Mỹ - ND).
Ông ta đã đề xuất gửi một lực lượng ban đầu gồm 6 đến 8 ngàn lính, nhưng với một sự thừa nhận rõ ràng rằng có thể sẽ có nhiều người hơn nữa được gửi sang: Mặc dù thanh thế của Mỹ đã được xây dựng ở Nam Việt Nam nhưng nó sẽ còn được tăng lên nếu gửi thêm quân. Nếu lực lượng ban đầu đó vẫn chưa đủ để đạt được kết quả cần thiết, thì sẽ khó để có thể chống lại được áp lực phải tăng viện. Nếu kết quả trông đợi cuối cùng là đóng cửa biên giới và quét sạch các cuộc nổi loạn ở bên trong miền Nam Việt Nam, thì sẽ không có giới hạn nào cho sự cam kết có thể thực hiện được của chúng ta (trừ phi chúng ta tấn công vào nguồn lực ở Hà Nội).
Ông ta cũng không đơn độc trong đề xuất về gửi lực lượng trên bộ của mình hay những suy luận khác: rằng đội quân này dĩ nhiên là sẽ đẩy lùi chiến thắng của Cộng sản, rằng gửi những lực lượng vừa phải ban đầu nhưng cuối cùng có thể dẫn đến sự tham chiến của một đội quân Mỹ đông đảo và có thể có chiến tranh với cả Trung Quốc, rằng nếu không có bất cứ đơn vị chiến đấu nào được gửi sang thì, tất cả những biện pháp đã đề xuất (mà Kennedy chấp nhận và công bô) sẽ không phù hợp để ngăn chặn sự thất bại. Như Bộ trưởng Quốc phòng McNamara viết trong một bản ghi nhớ báo cáo trình Tổng thống vài ngày sau đó, nói về chính ông ta, cấp phó của ông ta, Roswell Gilpatric, và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân thì: "Thời cơ đang chống lại chúng ta, thực sự là rất bất lợi, để ngăn chặn (sự sụp đổ của Nam Việt Nam trước chủ nghĩa Cộng sản bằng bất kỳ biện pháp cấp bách nào của việc gửi quân Mỹ sang với số lượng lớn).
Chúng tôi chấp nhận những suy luận của tướng Taylor rằng những giải pháp khác nhau mà ông ta đề nghị là có thể thực hiện được nhưng tự thân nó sẽ vô dụng khi lấy nó để khôi phục lòng tin và đưa Diệm tới chiến thắng trong cuộc chiến của ông ta.
Theo như McNamara và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 8.000 binh sĩ ban đầu sẽ không đủ để làm "cán cân nghiêng hoàn toàn về một phía"(81). Họ đề nghị - giống như Taylor và Rotstow đã làm - rằng nước Mỹ "tự mình cam kết mục tiêu rõ ràng là ngăn chặn miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa Cộng sản"(82), và đi cùng với cam kết này là những đơn vị đầu tiên làm theo "một lời cảnh báo qua một số nguồn tới Hà Nội rằng việc tiếp tục ủng hộ Việt Cộng sẽ dẫn đến sự trả đũa ác liệt chống lại miền Bắc Việt Nam. Nếu chúng ta hành động theo cách này, thì cuối cùng có thể sẽ phải mở rộng cam kết quân sự của chúng ta để đương đầu với tình hình. Cuộc chiến có thể kéo dài và Hà Nội, Bắc Kinh có thể can thiệp công khai… Tôi tin rằng chúng ta có thể cho rằng lực lượng quân đội tối đa trên bộ cần cho vùng Đông Nam Á sẽ không vượt quá 6 Sư đoàn hoặc khoảng 205.000 người"(83).
Nhìn lại vấn đề, đó là một đánh giá không đúng mức - chúng ta đã từng đóng nhiều quân như thế ở miền Nam Việt Nam vào đầu năm 1966, mặc dù Trung Quốc đã không can thiệp và 2 năm sau chúng ta vẫn chưa giành chiến thắng được, khi chúng ta đã gửi gần như gấp 3 lần số quân như thế mà nó không phải là một con số nhỏ.
Cùng những kế sách giống nhau, cùng những cơ sở giống nhau, có sự hậu thuẫn của MC George Bundy - trợ lý đặc biệt của Tổng thống về An ninh quốc gia - và người anh của ông ta là William Bundy, sau đó đóng vai trò như trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế - người đã tham gia xử lý vấn đề về hội nghị Geneva và hậu quả của nó khi ông ta đang ở CIA. Đó là một sự nhất trí ý kiến của bất cứ một quan chức an ninh quốc gia cấp cao nào trừ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là Rusk.
Sự e dè của Rusk về việc gửi quân không phải vì chúng không cần thiết hay quyết định đó có thể bị trì hoãn một cách an toàn mà bởi vì ít nhất dưới chế độ Diệm, nó không có sự rõ ràng, thậm chí quân Mỹ sẽ tạo ra một tình hình mới làm khác đi. Trong một bức điện từ Nhật Bản, Rusk cảnh báo Kennedy: "Nếu Diệm không sẵn sàng tin vào các chỉ huy quân đội để giải quyết mọi việc và từng bước tập hợp những phần tử không Cộng sản vào những nỗ lực quan trọng của quốc gia thì thật khó có thể chứng kiến được quân Mỹ sẽ có ảnh hưởng quyết định như thế nào. Trong khi tham gia những kế hoạch khả thi có tầm quan trọng nhất ở Đông Nam Á, tôi ngán ngẩm chứng kiến những cam kết quan trọng nhằm làm tăng vị thế của Mỹ đang đi tới thất bại"(84).
Tuyên bố đầu tiên của Rusk, thực ra mà nói, đã chỉ rõ (một cách thực tế, nhìn lại vấn đề) cần thêm hai điều kiện cơ bản cho thành công. Rusk cũng chỉ cho thấy việc không có những thay đổi dưới chế độ Diệm (vốn được coi là không thích hợp và chưa chín muồi) làm cho Diệm giống như một "con ngựa thua cuộc" mặc dù Mỹ có làm gì đi chăng nữa; người cấp phó của Rusk, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao George Ball, thậm chí còn tranh luận về vấn đề này mạnh mẽ hơn.
Tóm lại, điều mà tôi nhận thấy qua việc đọc các tài liệu về năm 1961 cho dự án nghiên cứu của McNamara là không phải chỉ riêng một cá nhân cố vấn dân sự và quân sự nào của Kennedy đã nói với ông ta rằng kế hoạch tăng cường cố vấn và những đơn vị hỗ trợ mà ông đã tuyên bố vào giữa tháng mười một có lẽ là phù hợp để ngăn chặn chiều hướng tình hình đang xấu đi ở miền Nam Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn, hãy tự mình giành lấy thành công cuối cùng.
Tốt thôi, điều đó đã trả lời cho một vấn đề. Taylor và cấp dưới của ông ta khi còn ở Sài Gòn đã không nghe và cũng không nói với Tổng thống được tin gì khác với những gì tôi đã nghe một vài tuần trước đó về tình trạng phổ biến và những triển vọng ở Việt Nam. Những tuyên bố chính thức và những tin tức, câu chuyện về nhận xét, đề xuất của họ, và về quan điểm của họ rằng các cố vấn sẽ được chấp nhận, đơn giản là một sự sai lầm. Tại sao chính phủ lại nói dối về những vấn đề vốn không quá khó giải thích. Nếu Tổng thống, bác bỏ những lời khuyên gần như bất đồng của những cộng sự thân cận - là sẽ gửi cố vấn và các đơn vị hỗ trợ nhưng không nhiều hơn mức dự kiến - thì điều đó sẽ là vô ích khi nói sự thật về những lời nhận xét thực tế mà ông ta đã nghe được về sự vô hiệu quả của chương trình này hay những đề xuất khẩn cấp mà ông đã nhận được để gửi nhiều cố vấn và binh lính sang Việt Nam hơn.
Tất cả điều này làm dấy lên một nỗi băn khoăn mới. Phải đối mặt với những đề xuất này và những sự chỉ trích, làm cách nào để Kennedy có thể thực hiện được điều đó, không nhiều hơn cũng không ít đi? Không một tài liệu nào mà tôi đọc được có thể trả lời được thách thức này; thay vào đó chúng được đặt ra một cách nghiêm trọng. Vào cùng thời điểm đó, chúng bác bỏ những diễn giải rối rắm của Schlesinger trước đây. Cái mà những tài liệu mật này chỉ ra là những lời giải thích của ông ta không phù hợp với quyết định vào năm 1961 của Kennedy cũng như của Johnson vào năm 1965 hay của Truman và Eisenhower trước đó.
Bất cứ điều gì mà mỗi Tổng thống thầm nghĩ đến thì ông ta có thể đạt được nếu quyết định tiến hành, nó có thể không chỉ đơn giản là sản phẩm của sự quan liêu hay sự lừa dối. Thực tế trong mỗi năm khủng hoảng đó - trái ngược với những năm mà lúc đó - có đầy đủ những nhà phân tích tình báo thực thụ và có cả những báo cáo về các cuộc hành quân cho Tổng thống rằng thật khó để có thể tưởng tượng là có nhiều lời nói thật hơn hay thậm chí là bi quan có thể thay đổi những sự lựa chọn của Tổng thống Liệu có thể. về sau này, rằng không có lời nói dối đối với Tổng thống nào đã ảnh hưởng đến quyết định của họ hay không?
Vì vậy vấn đề còn lại là giải thích làm thế nào và tại sao Tổng thống đi tới lựa chọn mà ông ta đưa ra. Nếu mỗi Tổng thống được báo cáo về kế hoạch leo thang rằng điều mà ông ta đang chọn lựa để thực hiện có thể không giải quyết được vấn đề, thì sau đó ông ta sẽ dựa vào cái gì? Tại sao ông ta không thực hiện nhiều hơn hay ít hơn? Hơn nữa, tại sao mỗi Tổng thống đều lừa dối công chúng và Quốc hội về cái mà ông ta đang làm ở Đông Dương và về những gì ông ta đã được báo cáo?
Quyết định cử các cố vấn mà không cử một đơn vị quân đội nào của Kennedy thực tế có thể coi như một bước đi nhỏ nếu so sánh với kế hoạch leo thang sau này của Johnson, nhưng vì tôi đã biết được nội tình từ các tài liệu đã đọc nên không một hành động nào như vậy hứa hẹn sẽ thành công. Nó cũng "không được quan tâm đúng lúc" hay thậm chí không được quan tâm - bởi bất cứ ai trong chính phủ như "là một bước tiến cần thiết cuối cùng".
Điều tương tự cũng xảy ra dưới thời Johnson. Thực tế là, với Kennedy, cũng như Johnson, chính Tổng thống là người đang lừa gạt công chúng, chứ không phải là những cấp dưới đang lừa gạt ông ta.
Kennedy đã lựa chọn việc tăng cường sự dính líu của Mỹ và đầu tư cho uy tín của người Mỹ ở Việt Nam và tái xác nhận những cam kết hoa mĩ của chúng ta - không nhiều như những gì cấp dưới của ông ta dề nghị, nhưng cũng ở một mức độ đáng kể - trong khi loại bỏ một yếu tố là lực lượng lục quân, điều mà tất cả nhân viên của ông ta miêu tả là rất cần thiết để giành thắng lợi.
Trong thực tế, cùng thời điểm đó ông ta đã loại bỏ một yếu tố khác nữa mà tất cả các cố vấn của ông ta, kể cả Rusk, cũng miêu tả như một sự sống còn là một bản cam kết đầy đủ để Cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Tại sao lại như vậy?
Tôi nhanh chóng nhận được một sự bình xét quan trọng về sự ngược đời này của Kennedy, cũng giống như tôi đã nghĩ về nó, từ người anh của ông ta. Vào mùa thu năm 1967 tôi được mời tới đọc diễn văn tại một buổi họp mặt của các uỷ viên quản trị của các chi nhánh hãng truyền hình CBS trên cả nước. Tôi đã có một bài phát biểu dài cũng theo những chủ đề mà tôi đã đưa ra cho những nhóm cấp cao khác kể từ khi tôi trở về từ Việt Nam mùa hè năm đó: những điều không thể chối cãi về thực trạng không lối thoát ở Việt Nam, những trò lừa bịp và sự nuôi dưỡng ảo tưởng của chính phủ về sự "tiến bộ", và sự cần thiết về việc chấm dứt những dính líu của chúng ta. Vào thời điểm đó, điều đó là rõ ràng đối với tôi - cũng như hầu hết những viên chức đã phục vụ tại Việt Nam, mặc dù chưa phải là đã rõ ràng đối với toàn bộ công chúng - rằng những dự báo bi quan mà tôi đã nghe vào năm 1961 đã trở thành sự thật. Không chỉ những viên cố vấn và các đơn vị yểm trợ mà Kennedy đã gửi sang là hoàn toàn không thoả đáng, mà cả cam kết không giới hạn gửi quân đội mà ông ta đã bác bỏ và Johnson đã chấp thuận đã được chứng minh là không còn thành công nữa.
Boby Kennedy cũng lên tiếng. Dường như ông ta hết sức lo lắng về tình thế khó khăn của chúng ta mà tôi chưa được nghe từ bất cứ một quan chức nào tôi đã tiếp xúc vào mùa hè đó. Vào cuối bữa trưa, Frank Mankiewicz, thư ký báo chí của Kennedy, nói với tôi rằng Kennedy muốn nói chuyện thêm với tôi và gợi ý tôi trở về văn phòng Thượng nghị sỹ cùng ông. Trong xe Kennedy nói với tôi rằng ông ta rất thích những điều tôi nói, nó khẳng định điều ông ta nghĩ là đúng và ông ta muốn được nghe thêm.
Tôi mới chỉ gặp Bobby có một lần cách đây 3 năm, khi ông ta đang trong những ngày cuối cùng giữ chức Tổng chưởng lý lúc đó ông ta đã không gây cho tôi một ấn tượng nào, đặc biệt với tư cách là một ứng cử viên tiềm tàng cho chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao, một chức vụ mà ông ta mong muốn sau này. Ông ta trông có vẻ rất trẻ, không tự tin lắm về bản thân mình, và có một trí nhớ tồi một cách đáng ngạc nhiên về các sự kiện quốc tế. Tôi đã phỏng vấn ông ta trong văn phòng tại Bộ Tư pháp về một nghiên cứu chính thức đã được phân loại ở mức độ mật cao mà tôi đã thực hiện về khủng hoảng về lên lửa Cuba tháng mười năm 1962. Ông ta nói một ý: "Có một điều gì đó cũng đang xảy ra trong cùng thời điểm này, rất quan trọng, nó thu hút sự chú ý của chúng ta… nó là cái gì?" ông ta nhìn lên trần, ngẫm nghĩ một lúc, sau đó nhìn thẳng vào tôi và hỏi: "Sự kiện Vienna diễn ra khi nào?"
Ông ta đã đề cập tới cuộc gặp thượng đỉnh ở Vienna với Khruschev gần một năm rưỡi trước cuộc khủng hoảng tên lửa.
Tôi nói: "Đó là vào tháng sáu năm 1961"
Ông ta nói: "Thế à!" và tiếp tục nhìn lên trần nhà nghĩ ngợi, sau đó thì dừng lại. Ông ta không có vẻ gì là xấu hổ. Tôi thầm nghĩ "Đây là một Bộ trưởng Ngoại giao ư?"
Nhưng giờ đây ông ta đã gây ấn tượng hơn nhiều, trưởng thành hơn, độc lập và tự tin vào bản thân hơn. Là chính mình trong Thượng nghị viện sau khi mất đi người anh (Kennedy bị ám sát tháng 11-1963 - ND) của mình và hiện người cha đang bị liệt, chắc hẳn ông có rất nhiều điều phải làm. Ông ta hỏi tôi về kinh nghiệm ở Việt Nam và điều gì đã dẫn tôi đi đến kết luận như tôi vừa mô tả. Tôi rất mừng vì có cơ hội nói với ông ta những gì tôi đã chứng kiến và những gì tôi nghĩ là nên làm, nhưng tôi cũng muốn hỏi ông ta về thời kỳ mà tôi phụ trách trong dự án nghiên cứu của McNamara, về việc Kennedy đưa ra quyết định năm 1961.
Tôi kể ngắn gọn với ông lý do tại sao lại chọn năm đó để nghiên cứu và giờ đây tôi lại càng băn khoăn hơn bao giờ hết bởi sự phối hợp của những quyết định mà Tổng thống đã đưa ra.
Trong khi bác bỏ việc gửi quân chiến đấu trên bộ và phải có một cam kết chính thức để giành thắng lợi, Kennedy đã bỏ ngoài tai những lời khuyên khẩn thiết của các cố vấn quân sự và quan chức dân sự cao cấp của ông. Với sự nhận thức về sau này, điều đó không được xem là ngu ngốc; đó chính là những lời khuyên tồi. Nhưng Tổng thống đã dự kiến một sự dính líu sâu của chúng ta trong khi phải đương đầu với một sự đồng thuận lớn trong đội ngũ những cố vấn của ông ta mà không có lấy một giải pháp nào khả dĩ nên ông đã bác bỏ, thực tế là không có sự chấp nhận (lời khuyên - ND) ngay lập tức, các cố gắng của chúng ta đang thất bại. Tôi đã nói với Bod là thật khó khăn để làm tiêu tan cảm giác của sự phối hợp các quyết định. Liệu ông có nhớ làm thế nào để thoát khỏi cảm giác đó không? Tôi cảm thấy không dễ dàng gì để diễn tả vấn đề bằng cách đó cho người anh của Tổng thống (tức Bod - ND), nhưng tôi biết nó có thể là cơ hội duy nhất của tôi để tìm ra câu trả lời, mà thái độ của ông ta đối với tôi đã động viên tôi nắm lấy cơ hội này.
Ông ta nghĩ về những gì tôi đã đưa ra một lúc và sau đó nói:
"Chúng ta không muốn mất Việt Nam cũng như rút ra khỏi đó. Chúng ta muốn giành chiến thắng nếu chúng ta có thể làm được điều đó. Nhưng anh tôi lại kiên quyết sẽ không gửi các đơn vị chiến đấu trên bộ nào tới Việt Nam. Ông ta nói rằng, anh ông ta đã đoán chắc nếu chúng ta làm như thế thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh giống người Pháp. Người Việt Nam bên phía chúng ta sẽ phó mặc cuộc chiến cho Mỹ, và nó sẽ trở thành cuộc chiến của chúng ta chống lại chủ nghĩa dân tộc và quyền tự quyết, cuộc chiến của người da trắng chống lại người châu Á. Đó là cuộc chiến chúng ta không thể thắng, chẳng hơn gì người Pháp trước đây".
Tôi nài ép ông ta nói thêm. Vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965 điều đó cũng xảy ra đối với những cố vấn như thể sự dính líu của lục quân Mỹ giờ đây đã trở thành thiết yếu để tránh khỏi sự thất bại chỉ trong một thời gian ngắn. Nhưng tại thời điểm đó thậm chí sẽ còn khó hơn để rút lui hay chấp nhận thua cuộc một cách sáng suốt hơn là năm 1961. Nếu Kennedy còn sống thì ông ta sẽ làm gì?
Bobby trả lời một cách thận trọng theo cách làm cho những lời nói của ông ta trở nên đáng tin hơn: "Không ai có thể nói chắc chắn về điều mà anh tôi có thể sẽ làm trong những hoàn cảnh cụ thể năm 1964 hay 1965. Tôi không thể nói như vậy, và ngay cả anh ấy cũng không thể nói như vậy vào năm 1961. Có thể mọi việc sẽ đi theo những gì chúng đang diễn ra. Nhưng tôi biết chắc cái mà anh ấy mong đợi. Tôi chỉ có thể nói rằng anh ấy hoàn toàn không có ý định cử các đơn vị trên bộ sang".
Tôi tiếp tục đề cập đến những vấn đề hóc búa. Liệu John F. Kennedy có thực sự sẵn sàng chấp nhận thất bại, để nhìn Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản, thay vì không gửi quân sang?
Bobby lại một lần nữa trả lời tôi với một giọng điềm tĩnh:
"Chúng ta có lẽ đã làm tình hình rối tung lên. Chúng ta có lẽ đã dựng lên một chính phủ giờ đây muốn chúng ta rút đi hoặc họ muốn có sự thoả thuận với phía bên kia. Chúng ta sẽ phải nắm chắc lấy chính phủ này giống như ở Lào".
Tại Lào, Kennedy đã bác bỏ những đòi hỏi tăng viện binh và thay vào đó là đàm phán dẫn tới chính phủ liên hiệp, bao gồm cả những người Cộng sản. Hầu hết những cộng sự của Tổng thống và chính bản thân ông ta trong những cuộc thảo luận công khai, đã luôn loại trừ khả năng đối phó với Việt Nam cũng như đối với Lào.
Nhận xét của Bobby mà tôi được nghe lần đầu tiên và đây cũng là lần duy nhất tôi được biết rằng J.K. Kennedy ấp ủ khả năng áp dụng "giải pháp đối với người Lào" cho Nam Việt Nam. Không có một bằng chứng nào về việc Lyndon Johnson hay Richard Nixon đã từng định làm như vậy. Nhưng lời tuyên bố của Bobby là hoàn toàn sự thật.
Một điều rõ ràng với tôi vào năm 1967 là ông ta đang nói đến một con đường thực tế duy nhất có thể đưa đến việc kết thúc chiến tranh. Vì thế, làm cho người ta có ý nghĩ rằng một Tổng thống Mỹ, ít nhất đã không coi thường điều này.
Nhưng điều không rõ ràng với tôi là làm thế nào Kennedy có thể thấy trước được mọi chuyện vào năm 1961, hay từ đâu ông ta đã có một cam kết cá nhân mạnh mẽ như vậy, để vạch ra đường lối chống lại việc gửi lục quân Mỹ đến Việt Nam. Bobby đã không nói rằng người anh của ông ta đã quyết định rút khỏi Việt Nam; năm 1961 ông ta chỉ đơn giản nói với tôi J.K. Kennedy muốn thế và có ý định làm điều đó hơn là gửi quân đi nếu điều đó dẫn tới chỗ dường như chỉ có hai khả năng lựa chọn trước sự thất bại có thể nhìn thấy trước của quân đội. Tôi chưa nghe thấy có người Mỹ nào - trong số những người miễn cưỡng phải rời khỏi Việt Nam, vì lý do chiến tranh lạnh - đưa ra một quan điểm đáng giá như vậy trước 1964 (mặc dù một số người, đáng kể nhất là George Ball, không hề muốn cử tới đó, thậm chí chỉ các cố vấn quân sự). Rõ ràng là không một cố vấn thân cận nào của Kennedy đồng ý với quan điểm này. Tôi còn không nghĩ đến J.K. Kennedy như là một người có những quan điểm mang đậm phong cách riêng, huống hồ lại bị người ta kết lội như thế, về vấn đề Đông Dương. Tôi hỏi, với đôi chút sỗ sàng: "Điều gì khiến ông ta trở nên thông minh như vậy?"
"Chết tiệt!", ông ta đập tay xuống mặt bàn. Tôi giật mình nhảy dựng lên trong ghế bành. "Vì chúng ta đã và đang ở đó!", ông ta lại đập bàn lần nữa. Gương mặt ông ta co rúm lại vì tức giận và đau đớn: "Chúng ta đã ở đây từ năm 1951. Chúng ta đã chứng kiến những gì xảy đến với quân Pháp… Chúng ta đã chứng kiến… Anh trai tôi đã nhấn mạnh, nhấn mạnh rằng, đừng bao giờ để những chuyện đó xảy ra với chúng ta".
Tôi đã gặp Bobby Kennedy đôi lần trong vài tháng sau đó, có lúc chúng tôi có những cuộc thảo luận khá lâu, nhưng đây là lần duy nhất tôi chứng kiến một sự bùng nổ cảm xúc ở ông ta như thế. Nó gây một ấn tượng mạnh đối với tôi. Tôi đã và vẫn sẽ tin tưởng vào ông ta, rằng anh trai ông ta đã khẳng định sẽ không bao giờ gửi quân sang Đông Dương, và rằng ông ta đã sẵn sàng chấp nhận cái gọi là "giải pháp Lào" nếu như cần thiết để tránh phải đưa quân sang. Nếu đúng như thế thì, những lời buộc tội mang tính chủ quan và thái độ sẵn sàng đã chứng tỏ John F. Kennedy là một người có quan điểm khác biệt rất có ý nghĩa đối với sự đánh cược của chúng ta và tôn trọng chiến lược đã được vạch ra ở Việt Nam từ thời các Tổng thống Lyndon Johnson và Richard Nixon, mà không một ai trong số họ chia sẻ cái cảm giác bị ép buộc cũng như sự sẵn sàng thừa nhận thất bại trong một số trường hợp nào đó. Nhưng liệu Tổng thống Kennedy, nếu không bị ám sát, có những cư xử phù hợp trước sự lên án này trong việc phải đương đầu với các cuộc khủng hoảng trong năm 1965 hay không (như em trai ông ta đã thừa nhận) lại là một vấn đề khác, và chưa thể có câu trả lời.
Sau khi nghe Bobby nói chuyện, tôi băn khoăn tự hỏi rằng điều mà họ đã mắt thấy tai nghe ở Việt Nam đã tác động đến suy nghĩ của ông ta mạnh mẽ đến như vậy. (Và đến giờ phút này nó cũng tác động đến tôi như thê). Họ đã ở đó bao lâu? Phải mất hàng năm trời trước khi tôi biết được câu trả lời.
Một hôm, tôi đã tìm ra được câu trả lời. Theo Richard Reeves, Kennedy đã ra lệnh triệu hồi Taylor và Rostow ngay trước khi họ rời Việt Nam vào tháng 10- 1961.
Kennedy đã nói với Taylor về những kinh nghiệm của ông ta, sau chuyến thăm Việt Nam vào một ngày năm 1951 trong chuyến đi vòng quanh thế giới khi ông còn là một hạ nghị sỹ trẻ tuổi. Ông ta bắt đầu chuyến thăm ngày hôm đó ở Sài Gòn bằng việc tiếp xúc với vị tổng chỉ huy của 250.000 người thuộc đội quân viễn chinh Pháp đang chiến đấu với những chiến sĩ du kích Việt Minh.
Tướng Jean de Lattre de Tassigny đã cam đoan với ông ta rằng những binh sĩ của ông ta không thể thua những người bản xứ. Và ông ta đã kết thúc ngày làm việc của mình vào buổi tối ở trên tầng cao nhất của khách sạn Caravelle với một nhân viên lãnh sự quán người Mỹ tên Edmund Gullion. Bầu trời xung quanh thành phố sáng lên bởi những trận pháo cầm canh và những cuộc oanh tạc bằng súng cối đều đặn hàng đêm của Việt Minh.
"Anh học được điều gì khi ở đây?" Kennedy hỏi nhà ngoại giao.
"Trong vòng 20 năm nữa, nơi này sẽ không còn chỗ cho những nhà thực dân", Gullion trả lời.
"Chúng ta không thể làm gì được ở đây. Người Pháp đã thua. Nếu chúng ta tới đây và làm điều tương tự như thế, chúng ta cũng sẽ thua, cũng vì một lý do tương tự. Không có sự quyết tâm cũng như sự ủng hộ cho cuộc chiến kiểu này từ phía Paris. Họ đã mất đi chỗ dựa. Điều tương tự cũng sẽ xảy đến với chúng ta".
Hỏi đúng người, đúng việc, và bạn sẽ nhanh chóng có được câu trả lời rõ ràng.
Vào mùa thu năm 1967, tôi biết được rằng Westmoreland và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quan đã đẩy mạnh việc mở rộng cuộc chiến, điều mà McNamara đã phản đối kịch liệt. Điều chúng tôi không thể biết được là Tổng thống đứng về phe nào.
Ông thỉnh cầu công chúng tin rằng chúng ta đang tiến bộ một cách đáng hài lòng ở Việt Nam, nhưng điều đó chẳng thuyết phục được tôi, kể từ khi McNamara đã từng làm một việc tương tự như vậy. Vào giữa tháng mười, tôi đọc được một tài liệu từ một nguồn đáng tin cậy của chính quyền, đó là từ viên thư ký báo chí của Johnson, Bill Moyers. Tuyệt nhiên không có ai khác ngoài Lady Bird biết rõ về những ý định của Lyndon Johnson hơn ông ta. Những ghi chép của tôi về cuộc gặp với ông ta ngày 17-10 ở Cambridge cho thấy ông ta nhận định "rằng Tổng thống có vẻ như không chỉ tiếp tục một cách thô bạo kế hoạch cho cuộc chiến hiện nay - về những mục tiêu và chiến lược trong tương lai - cho tới kỳ bầu cử, mà còn cả sau khi bầu cử, khi biết chắc rằng mình sẽ thắng (điều mà Moyers nghĩ là sẽ chắc chắn xảy ra), ông ta có vẻ muốn chuyện hướng leo thang chiến lược của chúng ta hơn là giảm thiểu các mục tiêu của Mỹ và sử dụng những chiến thuật ít tham vọng. Ví dụ, ông ta có thể thể hiện thái độ sau đó tạo áp lực, và tìm ra cách thúc ép bản thân một cách logic để xâm chiếm miền Bắc Việt Nam. Việc đó hầu như có thể chắc chắn thực hiện theo từng giai đoạn: tiến quân thăm dò qua khu phi quân sự (DMZ), xâm chiếm một cách có giới hạn qua những con đường xâm nhập ở phía bắc DMZ, cuối cùng là đổ bộ theo kiểu Inchon".
Ai đó đã hỏi một cách hoài nghi rằng liệu có thể hiểu được một chính trị gia cỡ như Lyndon Johnson lại có thể đi lệch hướng quá xa so với mong đợi của công chúng để phục vụ cho những mục tiêu chính trị trong nước của mình không. Moyers nói rằng điều đó tuỳ thuộc vào liệu Tổng thống có tiếp tục tin tưởng nữa hay không, như ông ta đã từng khát khao thực hiện trong một năm qua hoặc nhiều năm trước đây, rằng vị trí của ông ta trong lịch sử có thể sẽ được xác định rõ bằng sự kiên định đối với cuộc xung đột ở Việt Nam. Như Moyers đã nhìn nhận, Johnson có khuynh hướng mạnh mẽ là muốn được chứng kiến vai trò của ông ta và những vấn đề sẽ được giải quyết như trong nhiệm kỳ của Truman, và tin rằng trách nhiệm của mình là thực hiện những quyết định khó khăn vì lợi ích của đất nước, và bằng mọi giá phải giành được sự ủng hộ của công chúng trong một thời gian ngắn nếu điều đó là cần thiết. Lịch sử sau này sẽ phán xét là ông ta đúng hay sai.
Quan điểm cá nhân của Moyers là thậm chí có kéo dài thêm 1, 2 năm xung đột trong bối cảnh hiện nay - với những sự mơ hồ về mặt đạo đức và hậu quả của những cuộc tranh cãi và với sự không tiến bộ hiển nhiên của bất kỳ một mục tiêu nào của Mỹ - sẽ gây ra những tổn thất không thể bù đắp được đối với sư đoàn kết, tinh thần, thể chế, sự cân bằng chính trị nội bộ của quốc gia.
Việc mở rộng chiến tranh sẽ làm cho tình hình trở nên xấu hơn, và ông ta nhận thấy điều đó đang trở thành vấn đề quan trọng nhất của Mỹ, cũng như sự thay đổi quan điểm của Tổng thống, điều mà ông ta rất không muốn hoặc là ông ta sẽ bị thay thế. Tôi hỏi ông: "Những gì ông đã nói liệu có đúng với những gì ông nghĩ không?". Ông ta trả lời một cách nhã nhặn: "Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tình hình sẽ có thể tiến triển trong khi tôi mong đợi sự thất bại của Lyndon Johnson, và điều đó khiến những trăn trở trong đầu tôi càng trở nên đau đớn. Bây giờ tôi chỉ có thể nói rằng: "Điều đó phụ thuộc vào đối thủ hiện giờ của ông ta là ai?"
Moyers xác nhận với tôi rằng có một thực tế trong cơn ác mộng lớn nhất của tôi. Kể từ khi chúng ta tạo được uy thế bằng những cố gắng quân sự vào mùa xuân năm 1965, tôi đã lo lắng rằng nếu có bế tắc ở đó (Việt Nam) thì nó sẽ đẩy bất kỳ tổng thống nào rơi vào tình thế phải phá bỏ nó để thoát ra, để theo đuổi chiến thắng mà Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đang hối thúc ông ta. Giờ đây, cũng như trước kia, con đường đó dẫn đến miền Bắc Việt Nam, ngay gần biên giới của Trung Quốc, và chính xác là xa hơn nữa. Đó là hy vọng ngăn chặn sự bế tắc và kết cục này đã thôi thúc tôi cố gắng tìm hiểu, có lẽ từ tướng Lansdale hoặc John Vann, cái cách để đạt được thành công mà không cần phải mở rộng chiến tranh. Cố gắng đó là một sự thất bại. Nếu như có một cách như vậy, chính phủ Mỹ cũng sẽ không cố gắng lìm ra nó kịp thời và triển khai nó.
Tôi vẫn là một chiến binh của chiến tranh lạnh đang đi tìm những bài học từ kinh nghiệm cuộc chiến tranh Việt Nam của chúng ta để có thể giúp cho Mỹ đánh bại sự nổi dậy của Cộng sản ở bất cứ đâu trên thế giới, nơi có những hoàn cảnh khác biệt và cơ hội chiến thắng của chúng ta cũng lớn hơn. Nhưng tôi cũng đã nhận thấy sự khẩn cấp trong việc tránh một sự leo thang chiến tranh cao hơn, và lời nhận xét của Moyers đối với những hành động của Tổng thống có vẻ như thích hợp hơn so với những điều tôi nghĩ. Để ngăn chặn chuyện này, tôi còn không buồn nghĩ đến việc thay một Tổng thống mới, thời gian không đủ để làm việc đó. Điều cần thiết lúc này là cảnh báo cho người dân về khả năng leo thang chiến tranh, để tạo nên một lực lượng đối lập với nó, và làm cho chiến tranh kết thúc bằng cách nào đó trước khi hoàn cảnh buộc phải dẫn đến điều đó. Tôi cần hàng năm trời để làm điều đó, tôi đã bị chi phối bởi nhận thức "Cuộc chiến này chưa kết thúc, và có vẻ như nó sẽ mở rộng hơn bây giờ rất nhiều nếu như chính sách của Tổng thống không thay đổi".
Chú thích:
(76) "Tôi tin tưởng chắc chắn rằng" - Tờ Thời báo New York, 26-10-1961.
(77) "Các quan chức nói" - Sđd, 4-11-1961.
(78) "Đây là chính sách" - Schlesinger, 39.
(79) "Mỗi bước tiến sâu hơn của Mỹ" - Sđd, 47.
(80) "Không hề chậm trễ", "đã đi đến kết luận" - Tài liệu Lầu Năm Góc, Gravel xuất bản, tập 2, tr. 90-92.
(81) "làm cán cân nghiêng" - Sđd
(82) "tự mình cam kết" - Sđd, 109.
(83) "lời cảnh báo qua một số nguồn" - Sđd, 108.
(84) "Nếu Diệm không sẵn sàng" - Sđd, 105.