Dịch giả: Tĩnh Hà - Kiều Oanh
Chương 23
Rời RAND

Cuối năm 1969 tôi tính rằng mình có lẽ còn phải ở lại làm việc cho Rand thêm một năm rưỡi nữa. Tôi nghĩ Nixon sẽ rút quân chậm chạp và Bắc Việt có xu hướng để yên cho ông ta hành động mà không gây rắc rối gì. Cuối cùng, khi ông ta dần ổn định được tình hình và dần chấm dứt rút quân, thương vong của quân Mỹ cũng giảm dần do các đơn vị lính Mỹ không còn tham gia các hoạt động tấn công quân sự quy mô lớn, thì Bắc Việt có lẽ sẽ làm nóng chiến trường với hy vọng rằng điều đó sẽ gia tăng sức ép của công chúng đối với Nixon để ép ông ta giảm quân hoặc rút hẳn khỏi Việt Nam. Từ những gì Mort nói thì tôi e rằng nếu như vậy, Nixon sẽ lại leo thang bằng cách nối lại các đợt không kích ác liệt vào miền Bắc. Nhưng điều đó hầu như chỉ diễn ra sau một năm rưỡi hoặc hai năm tới. Trong thời gian đó, công chúng có lẽ chẳng phản ứng gì mấy trước những chỉ trích đối với chính sách của Tổng thống, do họ tin rằng ông ta vẫn đang dần rút hẳn.
Nixon cố ý cho Hà Nội biết ông ta sẵn sàng mạnh tay hơn cả Johnson bằng hành động chứ không chỉ nói suông nếu như Bắc Việt tiến công lớn vào các mục tiêu của Quân lực Việt Nam cộng hoà hay số quân Mỹ còn lại. Halperin đã hiểu việc bí mật ném bom Campuchia bí mật theo ý như vậy và nghĩ rằng sẽ còn có thêm những hoạt động nữa. Nhưng Nixon vẫn giấu kín vụ ném bom này.
Như tôi đã đề cập, tình hình đã được miêu tả một cách thật mỉa mai, do trên trang nhất tờ Thời báo New York vào tháng ba xuất hiện một bài báo của William Beecher miêu tả vụ ném bom này. Nhưng khi Lầu Năm Góc bác bỏ bài báo thì cả báo giới, Quốc hội và công chúng đều chấp nhận bác bỏ này và để vấn đề trôi qua. Và dù cho các hoạt động ném bom không hề giảm bớt, vẫn không có thêm một bài báo nào, và người ta vẫn gửi đến Quốc hội những báo cáo tối mật, nhưng lại sai sự thật, về các mục tiêu tấn công. Trong những ngày này chính quyền chỉ dùng mỗi một cách là bác bỏ thông tin để ỉm đi sự thật. Nhiều người vẫn coi L.B. Johnson là một kẻ nói dối, nhưng cả báo giới và công chúng vẫn không thực sự biết họ bị L.B. Johnson lừa tới mức nào, chưa nói đến những người tiền nhiệm, và giờ đây là người kế nhiệm của ông ta.
Đối với tôi Hồ sơ Lầu Năm Góc, cũng như những câu chuyện lịch sử, không còn là một công cụ hữu hiệu để chống lại chính sách của Nixon. Tài liệu cuối cùng là vào tháng 3-1968, khá lâu trước khi Nixon lên cầm quyền. Ông ta đã thuyết phục dân chúng Mỹ rằng ông ta có một chính sách mới. Có lẽ Hồ sơ Lầu Năm Góc khó thay đổi được nhận thức sai lệch này.
Theo lời Fulbright thì nếu như công bố những hồ sơ đó vào lúc này thì người ta coi đó "chỉ là lịch sử" và nó chẳng thể có mấy ảnh hưởng tới quá trình mà Nixon được coi là đang tiến hành để dần rút khỏi Việt Nam. Nếu tôi cho lập luận rằng việc cả bốn Tổng thống trước đều lừa bịp theo một cách giống nhau có thể gợi ý rằng Nixon rồi cũng có thể đánh lạc hướng đất nước này theo chủ ý của ông ta, thì cảnh báo này của tôi sẽ bị coi là hoài nghi quá đáng, kiểu như một sự cảnh báo về việc leo thang hoặc kéo dài chiến tranh thêm nhiều năm nữa. Tôi tin rằng trước sau gì cả hai điều này cũng sẽ xảy ra, nhưng đồng thời tôi cũng nghĩ trong thời gian gần thì không việc gì phải vội đưa công khai những tài liệu này. Cũng không cần phải ủng hộ Uỷ ban đòi hoãn nhập ngũ nữa. Sau phát biểu ngày 3-11 của Nixon và việc hai cuộc biểu tình khổng lồ tỏ ra thiếu hiệu quả, chiến dịch này có vẻ đã xì hơi.
Nhưng cuối cùng Hồ sơ Lầu Năm Góc có thể sẽ đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh. Một ngày nào đó, chúng sẽ giúp đa số trong Quốc hội có dũng khí đứng lên thách thức Tổng thống và chấm dứt chiến tranh bằng cách cắt ngân sách. Đó là vào lúc có đủ số nghị sỹ nhận ra lịch sử của những trang tài liệu đang được tái diễn. Để chuẩn bị cho tình hình đó, dù không cần quá vội vàng, tôi tiếp tục sao chụp phần còn lại của tập tài liệu và gửi tới Fulbright.
Tôi mang theo những tài liệu này trong một chuyến tới New York phòng trường hợp tôi xuống Washington. Tôi còn khoảng ba nghìn trang. Tôi gọi và báo cho Norvil Jones - trợ lý của Fulbright - tôi mang theo cái gì. Anh gợi ý khi tới sân bay để về Los Angeles thì tôi nên gửi bằng đường không cho nhanh và an toàn. Tôi không chắc những thứ tôi mang theo có bản sao dự phòng không, nên tôi tra danh bạ tìm một cửa hàng sao chụp gần khách sạn. Tôi gọi thử một cửa hàng. Họ nói họ sẽ làm ngay khi tôi mang tài liệu đến.
Cửa hàng sao chụp là một căn phòng đông đúc nằm trên một toà nhà văn phòng rộng. Tôi điền phiếu yêu cầu. Người thư ký ở đó nói phải mất vài tiếng. Trước khi đưa cho họ, tôi quyết định xem qua xem tài liệu có theo đúng thứ tự không. Trong vòng vài giây, tôi bắt gặp một trang ghi rõ "Tối Mật". Tôi vội lật qua và xem tiếp. Qua vài trang, tôi lại gặp một trang như vậy, phần trên của nét chữ bị mất, nhưng vẫn đọc được. Do một vài ký hiệu trên trang bị ghi quá thấp, mà những người phân loại và giải mã thì chỉ đọc phần trên của các trang nên đã không bỏ đi những trang ghi thấp như vậy. Tôi đóng tập tài liệu lại, lấy từ quầy thu tiền nhét lại vào cặp xách. Tôi không biết những người photocopy sẽ phản ứng thế nào nếu họ nhìn thấy những ký hiệu đó, nhưng dù sao cẩn thận vẫn hơn.
Tôi nói với người phụ nữ đứng ở quầy thu ngân là tôi sẽ chóng quay trở lại rồi đi ra ngoài. Tôi mua một cái kéo to ở cửa hàng văn phòng phẩm. Gần đó có một tiệm cà phê. Tôi ngồi ở một bàn giữa tiệm, đặt cặp xách trên ghế cạnh chỗ tôi gọi một cốc cà phê và một ổ bánh mỳ ngọt. Giờ ăn sáng qua đã lâu nên ở đây tôi là khách hàng duy nhất. Tôi đặt một chồng tài liệu trước mặt và bắt đầu kiểm tra từng tờ một, tờ sau úp lên tờ trước. Được vài trang thì thấy một trang có ghi chữ "Tối Mật" để ngang với số trang. Tôi dùng kéo cắt lề trên và nhét giấy vụn vào túi áo mưa. Cứ khoảng nửa giờ tôi lại gọi một cốc cà phê hoặc nước hoa quả rồi làm tiếp.
Những người đứng sau quầy thu tiền chẳng hề để ý gì đến tôi, nhưng càng lúc thì quán càng đông. Đột nhiên một nhóm người rất đông bước vào chật kín cả quán và đứng đợi để mua đồ ăn mang về. Lúc đó là giờ ăn trưa của các cơ quan xung quanh.
Để giữ chỗ tôi phải gọi đồ ăn trưa, khiến trên bàn chẳng còn chỗ để đống tài liệu nữa. Tôi còn hơn một nghìn trang chưa xem qua.
Tôi rút một tập tài liệu rồi để nghiêng trong lòng, mở xem vài trang một lúc để xem có ký hiệu tối mật trên đầu hay cuối trang nào không.
Cứ độ bốn mươi năm mươi trang lại có một trang như vậy.
Không muốn để ai nhìn thấy, tôi để trang giấy ngay trước ngực, lấy kéo cắt phần đầu trang hoặc cuối trang rồi lại nhét giấy vụn vào túi áo. May là mọi người xung quanh đều đang bận ăn.
Trong quán rất ồn. Hành động của tôi rõ ràng là bất thường, nhưng tôi cố gắng tỏ ra tự nhiên và những người New York chẳng có vẻ gì là quan tâm cả. Cứ một lúc tôi lại ăn vài miếng.
Cuối cùng thì quán lại trống trơn, nhanh như khi toán khách kia bước vào vậy. Chỉ còn lại có một mình, tôi không phải để vài trăm trang còn lại sát trước ngực để kiểm tra nữa. Khi xong việc thì túi tôi đã ních chặt những dải giấy vụn ghi ký hiệu "Tối Mật".
Tôi quẳng hết vào một thùng rác ven đường.
Tôi mang cặp xách trở lại hàng photocopy và đưa cho họ để chụp. Phải mất một lúc khá lâu, vì thới đó thì cả những cái máy photocopy to chạy cũng chẳng nhanh lắm. Hết cả thảy khoảng ba trăm đô la. Tới sân bay tôi lại tốn thêm bốn lăm đô la để đóng gói tài liệu và gửi cho Norvil Jones tại Uỷ ban đối ngoại Thượng viện. Tôi gọi nói với Norvil tài liệu đang được chuyển đi rồi.
Anh nói: "Thật tuyệt, chúng tôi đang sốt ruột đây? Đương nhiên là chúng tôi sẽ thanh toán chi phí cho anh".
Tôi đã ngạc nhiên. Anh ấy không hề nói trước về điều đó.
Nghe vậy tôi rất mừng. Photocopy một trang mất mười cents thì sao chụp cả tập tài liệu hết cả thảy bảy trăm đô la. Tôi đã tốn vài nghìn đô la để sao chụp rồi. Nhưng những thứ gửi cho Fulbright chỉ là một phần trong số đó, cho nên tôi quyết định chỉ nói số tiền để chụp và gửi tập tài liệu tôi vừa gửi. Tôi nói: "Hay quá? Tôi không định nói, nhưng được thế thì tốt quá. Tôi mất ba trăm bốn lăm đô la để chụp và gửi tập tài liệu gửi cho anh đó".
Anh ấy có vẻ bị sốc: "Ô, Chúa ơi, chúng tôi không chi tiền sao chụp đâu".
Tôi nói: "Thế anh định đề nghị gì đây?"
"Trả tiền cước vận chuyện thôi".
Tôi nói: "Thế thì thôi".
Ngày 7-4-1970, sinh nhật tôi, vợ cũ của tôi gọi đến. Thật là bất thường. Carol kể rằng trước đó 6 tuần, các nhân viên FBI đã đến gặp cô ấy, yêu cầu nói với họ về những tài liệu tối mật mà chồng cũ đã sao chụp. Họ nói tôi đã gửi những tài liệu này cho hai Thượng nghị sỹ Fulbright và Goodell. Cô ấy đã từ chối nói chuyện với họ mà không có luật sư riêng, nhưng họ đã không cho. Rồi họ đến gặp luật sư của cô ấy về vấn đề này, rồi anh này đã khuyên Carol nên kể với tôi. Thế là trong ngày sinh nhật thứ ba chín của mình, tôi và Patricia đã phải suy tư thật nhiều.
Ngày hôm sau, Carol và luật sư đã từ chối nói chuyện với FBI. Nhưng tôi cho rằng bước tiếp theo FBI sẽ tìm đến tôi ở Rand hoặc yêu cầu nói chuyện với Harry Rowen. Dường như thế là hết. Tôi không muốn bị bắt ở Rand. Tôi không muốn để Harry phải liên luỵ. Tôi muốn không dính gì với Rand khi FBI chất vấn tôi và điều này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Sáng sớm hôm sau tôi gọi Everett Hagen, giáo sư kinh tế, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế ở Học viện công nghệ Massachusens (MIT). Trước đó khoảng một hai tháng ông đã gọi cho tôi và đề nghị tôi làm nghiên cứu viên cao cấp một năm ở Trung tâm và viết một cuốn sách nếu như tôi muốn. Ông đã đề cập tới Bill Bundy, một nghiên cứu viên của trung tâm và đang viết một cuốn sách về Việt Nam, và việc một sinh viên nào đó tỏ ra bất bình do chẳng có ai đủ tầm để phê phán chiến tranh. Ông nói rất thẳng thắn rằng ông muốn tôi làm ở đó một phần là để đối trọng với Bundy. (Sau đó Bundy đã đề cập trong một cuốn sách là chính ông đề nghị giới thiệu tôi với Hagen). Khi tôi từ chối đề nghị của Hagen, tôi nghĩ rằng mình có thể viết ở Rand cũng như ở bất kỳ nơi nào khác. Nhưng cảnh sát sẽ sớm gõ cửa nhà tôi, và tôi không muốn đó là cánh cửa văn phòng của Rand.
Tôi hỏi Hagen liệu đề nghị còn giá trị không và tôi có thể viết những gì tôi muốn không. Ông nói rất sung sướng nếu tôi bắt đầu ngay lập tức và thậm chí chẳng ai ngó tới tôi viết gì cho tới khi tôi xuất bản những thứ tôi viết. Tôi được đề nghị mức lương bằng với Bundy, mức lương cao nhất của MIT. Nó chỉ bằng một nửa mức tôi nhận ở Rand, nhưng đó không phải là vấn đề đối với tôi. Tôi đồng ý ngay lập tức và sắp xếp để tuần sau đó tới MIT để ký hợp đồng.
Lúc về văn phòng tôi ghé thăm Harry Rowen. Tôi nói mình nghĩ đã đến lúc rời Rand. Anh không hề phản đối gì cả. Tôi nói rất chân thật, và anh cũng chân thành đồng ý, rằng đúng, thế là tốt nhất. Dù sao thì nói nhẹ đi cũng là phong cách bình thường của anh ấy. Nhưng tôi hiểu việc anh chấp nhận ngay lập tức quyết định của tôi chứng tỏ nó làm anh nhẹ gánh nhiều sau vài tháng vừa rồi. Anh chỉ nói: "Thật quá tệ khi phải kết thúc như thế này".
Charlie Wolf, trưởng phòng của tôi, còn kiềm chế thất vọng giỏi hơn vậy. Một lần nữa tôi lại được mời đến để điều trần trước Uỷ ban của Fulbright vào ngày 13-5, và ông nghĩ rằng tôi nên rời Rand trước ngày đó càng sớm càng tốt, vì vậy ông đề nghị tôi đi hẳn từ ngày 15-4. Điều đó thật trùng khớp với những lo lắng của tôi. Tôi e FBI có thể triệu tập tôi bất kỳ ngày nào. Ông muốn tôi vẫn làm cố vấn cho Rand để tôi có thể hoàn thành chuyện đề dang dở "Judo cải tiến". Chính vì lợi ích của Rand nên tôi thấy miễn cưỡng khi duy trì mối liên hệ này. Nó cũng trái với mục đích của tôi khi rời đi. Nhưng tôi phải nói đồng ý vì chẳng thể đưa ra được lý do nào hợp lý cả.
Thứ hai, ngày 13-5, tôi bay tới Boston, rồi từ sân bay đi thẳng tới Trung tâm ở MIT, để ký hợp đồng. Janaki, một nghiên cứu sinh cao học ở Đại học Harvard, đón tôi ở đó. Chúng tôi đi theo xa lộ Memorial chạy dọc sông Charles về nhà cô ấy.
Tôi không nói với Janaki rằng tôi để trọn bộ tập Hồ sơ Lầu Năm Góc trong cốp chiếc Volkswagen của cô ấy. Khi chúng tôi tới gần Harvard, chúng tôi thấy một đám đông dang tràn qua một cây cầu và có tiếng la hét cùng tiếng còi báo động. Trong bóng tối chúng tôi rời xe, đi theo một con phố nằm giữa những toà nhà của Đại học Harvard tới đại lộ Massachusetts để xem chuyện gì xảy ra. Một cảnh tượng đầy kinh ngạc hiện ra trước mắt. Chúng tôi thấy mình lạc trong một đám đông những người biểu tình xông vào quảng trường nhưng bị chặn bởi một cả một đội cảnh sát cầm dùi cui dài và lá chắn che tới tận mặt. Tôi chưa bao giờ chứng kiến nhiều cảnh sát một lúc như vậy.
Có một khoảng trống giữa cảnh sát và đám đông trên đại lộ Massachusetts, kề bên sân Harvard, nhưng lại mờ mịt hơi cay bay hết từ bên này tới bên kia. Chúng tôi nghe rằng hình như cuộc biểu tình chống chiến tranh đã nổ ra ở bờ sông bên kia rồi tràn qua cầu vào quảng trường, ở đó đã bị cảnh sát đẩy lùi ngay trước khi chúng tôi tới. Đám đông vẫn ào ào dồn lên rồi lại phải lùi lại. Một số cửa sổ của các cửa hiệu bên đường bị đập phá.
Nơi đây là quê hương tôi, nơi tôi thực sự cảm giác như đang ở nhà, và tôi hiểu rõ từng cửa hàng đó đã hơn hai mươi năm nay rồi. Một chuyến trở về thật phiền lòng. Nơi đây, kể cả những vùng lân cận vốn thật thân quen đối với tôi, dường như đang vượt khỏi tầm kiểm soát.
Vẫn không có động tĩnh gì từ FBI. Họ đã thương lượng với Carol suốt sáu tuần. Tôi không biết cuộc điều tra này còn kéo dài đến đâu trước khi họ đến gặp tôi. Tôi cũng chẳng biết họ đã biết đến mức nào và làm thế nào họ có thể biết được. Tôi không thể ở mãi tại bờ Đông (vùng bờ biển phía Đông nước Mỹ, bên bờ Đại Tây Dương, chạy từ Boston tới thủ đô Washington - ND). Tất cả đồ dùng và tài liệu tôi vẫn để ở California. Cuối tuần trước, trong tháng tư, tôi trở về nhà ở Malibu để hoàn thành chuyên đề của Rand và chuẩn bị cho cuộc điều trần trước Uỷ ban của Fulbright vào tháng Năm. Tôi chẳng mấy khi tới Rand, nếu có thì chỉ trong chốc lát. Tôi rất bực mình bởi chuyện tôi rời Rand với tư cách là nhân viên chính thức lại bị người ta coi là vì tôi sợ bị tóm ở văn phòng hoặc do có liên hệ với Rand. Nhưng Charlie Wolf chẳng biết gì về những vụ này, lại dựa vào tôi vì muốn chuyên đề của tôi hoàn thành vào tháng sáu rồi sau được chuyển hạn là vào tháng bảy. FBI không có vẻ gì là đang rình rập, nên dần dần, từng ngày từng tuần trôi qua, tôi chẳng nghĩ gì mấy đến vấn đề này nữa.
Ngày 30-4-1970, tôi theo dõi tuyên bố của Nixon trên tivi về việc xâm lược Campuchia. Cả nước như sôi lên, đặc biệt là giới học sinh sinh viên. Vào ngày 4-5-1970 lực lượng vệ binh quốc gia nổ súng vào một đoàn biểu tình ở Kent State. Hôm đó Howard Miller, người của chương trình "Luật sư" - một chương trình trên truyền hình công cộng - đã gọi điện cho tôi, đề nghị tôi giúp đỡ trong vụ xâm lược Campuchia này. Chương trình "Luật sư" có nội dung mô phỏng một phiên toà, có các chưởng lý và nhân chứng đối lập chất vấn nhau. Ngày hôm sau tôi bay tới Washington để giúp Miller tìm nhân chứng.
Cho đến cuối năm 1969, tôi đã có một thời gian dài làm việc với Clark Clifford. Miller chưa bao giờ gặp ông, nên với Miller thì giới thiệu sơ qua của tôi về Clifford làm cơ sở cho việc nhận ông cùng tham gia. Nhưng Clifford cũng nói rõ rằng ông không muốn công khai phê phán sáng kiến của Tổng thống về vấn đề Campuchia, thậm chí không muốn tranh luận riêng với chúng tôi. Sau khi Howard tự giới thiệu về mình và về chương trình của anh rồi bắt đầu nói rõ anh muốn gì, Clifford vẫn làm theo ý mình với những cảm thán không ngớt về những ưu điểm của chương trình ti vi "Phố Vừng", nào là chương trình thật tưyệt vời do giúp trẻ em vừa học vừa chơi, nào là ông muốn xem cùng với mấy đứa cháu, nào là nhân vật Big Bird thật quá tuyệt vân vân và vân vân (Big bird - Chim lớn - một nhân vật hoạt hình trong chương trình Phố Vừng (Sesame Street) có hình dạng một con chim to lớn, lông màu vàng - ND). Tôi nghĩ là chương trình "Phố Vừng" cũng là một chương trình ti vi công cộng giống như "Luật sư", cho nên Clifford muốn cho Howard biết rằng ông đánh giá cao truyền hình công cộng. Chúng tôi cố gắng lái ông trở lại vấn đề Mỹ xâm lược Campuchia, có lẽ để cho những người khác thấy rằng chúng tôi có thể hỏi hoặc tranh luận, nhưng ông vẫn tủm tỉm nói tiếp về Oscar.Người cáu kỉnh, hai tay ấn ấn vào nhau chống trên thành ghế. Howard và tôi chỉ biết nhìn nhau. Chúng tôi chào ông và nhận được một thôi một hồi những lời chúc của Clifford.
Sau đó tôi mới biết được rằng Clifford vốn nổi tiếng vì thói quen lảng đi khi không muốn thảo luận về một vấn đề nào đó. Nhưng mấy ngày sau, sự miễn cưỡng của ông về vấn đề này hoá ra không phải là duy nhất mà lại nhận được sự chia sẻ của nhiều cựu quan chức và sĩ quan mà chúng tôi tiếp cận. Chẳng có ai chịu tham gia cả.
Thứ sáu, ngày 8-5-1970, tôi bay tới St. Louis để lần đầu tiên tham dự một cuộc hội thảo rộng rãi với chủ đề chống chiến tranh tại Đại học Washington. Tôi được một đại uý hải quân gửi lời mời tham dự. Anh này trước đã từng làm việc với tôi ở ISA và hiện là người đứng đầu đơn vị NROTC (National Reserve Omcers' Training Corps: Quân đoàn huấn luyện sỹ quan dự bị quốc gia - ND) ở đây. Dưới sự hướng dẫn của tôi, vào mùa xuân năm 1965 anh đã điều phối một nghiên cứu về vấn đề phong toả Hải Phòng, sau đó nghiên cứu này đã giúp thuyết phục McNamara không đề nghị thực thi điều đó. Còn một diễn giả chống chiến tranh khác nữa là Thượng nghị sỹ Charles Mathias. Trước khi hội thảo bắt đầu thì xảy ra vụ cháy toà nhà của ROTC. Trong phần hỏi đáp, một sinh viên đề cập tới vụ này một cách đầy tính thách thức, đồng thời hỏi tôi suy nghĩ gì về nó. Khán giả đã hoan nghênh nhiệt liệt cậu sinh viên này. Thực ra cậu ta ngụ ý là chính cậu đã tham gia vào vụ đốt nhà này, dù không nói thẳng ra, và rõ ràng đây là một hành động phổ biến trong sinh viên.
Tôi nói mình đã được đào tạo trong lực lượng lính thuỷ đánh bộ để giành cho bạo lực và chính tôi đã chứng kiến quá nhiều điều đó ở Việt Nam. Nhưng hiệu quả của bạo lực cuối cùng có thể biện minh cho chính hành động đó không? Đây không chỉ là câu hỏi của bản thân tôi. Tôi đã có được kinh nghiệm kha khá để có thể xem xét vấn đề này, và tôi không còn thấy ấn tượng với nó nữa, rồi khi còn là một lính thuỷ đánh bộ, tôi đã thấu hiểu hơn điều đó có thể sai lệch đến mức độ nào. Tôi cũng thấy được rất rõ, và xin chia sẻ sự thất vọng của các bạn sinh viên khi không có cách nào chấm dứt được cuộc chiến. Nhưng chính điều này lại có nhiều điểm thật giống với nỗi buồn nản của những người lính Mỹ ở Việt Nam. Họ cũng trạc tuổi các bạn sinh viên trong buổi hội thảo hôm nay, và cũng bất lực không thể nào giành thắng lợi trong cuộc chiến này. Và phản ứng mà tôi được chứng kiến ở Việt Nam cũng gần tương tự. Lúc nói, trí nhớ tôi dường như thật sống động, cứ như tôi mới trở về Mỹ, dù ba năm đã trôi qua kể từ khi tôi rời Việt Nam. Tôi kể cho họ về những người lính ở Rạch Kiến, về việc họ đã đốt mọi căn lều họ bắt gặp, chẳng vì một lý do thực tế nào hết, đơn giản chỉ là để đánh dấu nhưng nơi đã đi qua để cho có cái mà nói rằng họ đã làm được cái gì đó. Điều đó thì dễ hiểu thôi, nhưng thật chẳng có ích gì mấy, vì nó chẳng làm tình hình thay đổi được.
Tôi nói, thật là rất Mỹ nếu ai đó nghĩ rằng sẵn lòng sử dụng bạo lực là sự thể hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Nhưng đó không phải là điều tôi đã học được ở Việt Nam. Tôi có thể thấy nhiều người trong số khán giả tỏ ra tự hào vì vụ cháy vừa rồi, nhưng tôi nói luôn rằng đốt cháy những toà nhà của ROTC, cũng như đốt phá những ngôi làng ở Việt Nam, sẽ không thể nào làm chiến tranh kết thúc. Để chấm dứt cuộc chiến, cần phải có sự nhẫn nại, lòng can đảm và tận tâm chứ không cần sự bắt chước những hành động phá hoại của chính quyền.
Nhiều người vỗ tay tán thưởng, một số thì la ó tôi, và còn lại thì im lặng. Thực tế là một câu hỏi đầy thách thức đặt ra cho phong trào phản chiến và cả đất nước vào lúc này là: Cần làm gì, làm thế nào, và có thể làm gì để ngăn cản chính quyền này, ông Tổng thống này kéo dài và mở rộng chiến tranh? Không ai, trong đó có tôi, có thể tự tin vào câu trả lời cho vấn đề này. Không biện pháp nào có tác dụng, từ bạo lực (dù chưa có nhiều lắm) cho đến các cuộc biểu tình khổng lồ và sự bất phục tùng của người dân. Lúc này tôi chỉ có thể nói những gì từ đáy lòng mình dựa trên những kinh nghiệm của bản thân về những hành vi bạo lực.
Tôi không chắc là mình đã đúng. (Hơn ba mươi năm sau, khi tôi có thời gian xem xét thế giới và trở nên già dặn hơn, tôi mới chắc là lúc đó mình đã đúng. Nhưng vào thời điểm đó tôi vẫn còn bỡ ngỡ với những suy nghĩ này).
Bốn sinh viên đã thiệt mạng ở Kent State, nhưng hơn năm trăm vẫn sinh viên tham gia bãi khoá. Thượng nghị sỹ và tôi cùng bay về Washington vào sáng thứ bảy. Ngày hôm sau cả thủ đô chìm trong hơi cay vì các cuộc biểu tình. Chúng tôi đi vào trung tâm thành phố, qua những con phố tắc kín bởi hơn một trăm ngàn sinh viên đổ ra từ những khu học xá đã đóng cửa trên cả nước.
Chúng tôi đã làm bạn từ trên chuyến bay. Mathias kể cho tôi những chuyện đầy ấn tượng. Ông đã biết Nixon từ lâu, và với tư cách Thượng nghị sỹ Cộng hoà của bang Maryland (bang của Phó Tổng thống Agnew) ông đã nhiều lần tới Nhà Trắng. Ông nói trong vài tháng gần đây ông thấy khó chịu khi thấy Tổng thống đang trở nên "mất cân bằng". Một ví dụ là việc Nixon chọn cho cảnh vệ Nhà Trắng đồng phục mới như kiểu trang phục trong các buổi nhạc kịch Trung Âu thế kỷ 19. Có rất nhiều những bình luận tương tự trên báo chí về đồng phục mới này, chứ không riêng gì Mathias. Nhưng điều khiến ông lo ngại nhất là khi một lần gần đây ông cùng vợ tới Nhà Trắng dùng bữa tối thân mật cùng gia đình Nixon. Họ phải đợi một mình ở phòng ăn bên một bàn tiệc có bốn chỗ ngồi, thưởng thức một dàn kèn trumpet và sau đó là Ban nhạc Hải quân chơi bài "Hoan nghênh Tư lệnh" (Một bài hát người Mỹ thường dùng để đón chào Tổng thống của mình - ND). Tổng thống cùng phu nhân Pat Nixon tay trong tay chậm rãi bước xuống cầu thang đón hai khách quý trong thanh âm của dàn nhạc. Mathias rất bực mình trước cái cảnh đó. Từ mà ông đã dùng để diễn tả ấn tượng mà vị "giám đốc điều hành" gây nên là "mất trí".
Vào thứ bảy, tôi trở lại Washington. Howard Miller quyết định là người phản chiến trong chương trình "Người luật sư" nên là tôi dù trước đó chúng tôi nhắm ai đó chóp bu hơn. Thượng nghị sỹ Goodell sẽ tham gia cùng tôi. Đó sẽ là lần đầu tiên tôi xuất hiện trên ti vi trước công chúng với tư cách là một người phê phán chiến tranh, trừ một vài đoạn giới thiệu ý kiến của các nhà ga địa phương về bản ghi nhớ của Rand. Patricia đã đến với tôi và cả ngày chủ nhật chúng tôi đã đi xem khu trung tâm thủ đô Washington. Chúng tôi thấy hàng trăm người biểu tình ngồi la liệt trên những con đường dẫn tới Nhà Trắng, nơi đã bị vây quanh bởi hàng rào xe buýt. Hơi cay phóng ra các đường phố, hình như là từ bãi cỏ trước Nhà Trắng. Nhưng đó không phải là hơì cay của cảnh sát để ngăn cản những người biểu tình phong toả Nhà Trắng. Đó lại là những thanh niên tham gia biểu tình, tay mang băng trông như cán bộ, đang đi đi lại lại giữa đám người đang ngồi hoặc nằm, tóm lấy khuỷu tay họ và kéo lên nói "hôm nay chúng ta không biểu tình phản kháng". Hoá ra đây hầu hết là thành viên Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa (SWP), những người đã tình nguyện làm những người đi đầu trong đoàn biểu tình dự kiến vào chiều hôm đó. Về mặt tư tưởng, Đảng trostkist này phản đối sử dụng biện pháp phản kháng của người dân vì họ cho rằng biện pháp này khiến công nhân bị gạt ra rìa. Ngày hôm đó, một cuộc tranh cãi căng thẳng về vấn đề này đã diễn ra giữa những người tổ chức biểu tình.
Khi Patricia và tôi chứng kiến những cảnh tượng này, tôi thấy người ta đang phạm một sai lầm lớn. Trước hết là do có quá nhiều người dân sẵn sàng tham gia phong trào bất tuân luật pháp khiến cả thành phố có thể bị tê liệt. Đồng thời, lần đầu tiên và cũng là cuối cùng trong thời gian chiến tranh, Quốc hội tỏ ra nóng giận với Tổng thống vì đã tấn công một đất nước mà lại không hề tham khảo gì trước với Quốc hội, dù cho, tôi tin rằng, hành động này có thể nhận được sự cảm thông hoặc ngấm ngầm hoặc công khai của một số lớn các nghị sỹ. Và bây giờ là thời điểm mà các cuộc biểu tình liên tiếp của nhân dân trong những tuần vừa qua đã có thể thuyết phục cả hai viện của Quốc hội quyết định chấm dứt chiến tranh bằng cách thông qua dự luật McGovern-Hatfield để cắt ngân sách cho cuộc chiến này.
Một làn hơi cay phun ra đường từ phía Nhà Trắng khiển mắt tôi cay xè. Khi trở về khách sạn, tôi phải tắm để gột sạch hơi cay và vận bộ cánh đẹp nhất để lên ti vi vào tối hôm đó.
Chương trình được truyền hình trực tiếp từ Câu lạc bộ Báo chí quốc gia. Trong số khán giả có một số người biểu tình đã rời cuộc tuần hành có hàng trăm nghìn người tham gia, số khác là những người bị hơi cay (và các đảng viên SWP) giải tán. Chủ đề hôm đó là: "Quốc hội có nên ra quyết định Tổng thống phải ngay lập tức rút toàn bộ quân đội, viện trợ và cố vấn khỏi Campuchia và không được đưa thêm quân ra khỏi Việt Nam?"
Một đề xuất khá vừa phải vào lúc này. Một ngày sau vụ Kent State, Tổng thống đã hứa trước với Quốc hội sẽ rút quân đội khỏi Campuchia vào cuối tháng sáu và công khai tuyên bố điều này trong một cuộc họp báo sau đó. Trong hồi ký của mình, Kissinger đã gọi đây là một "quyết định yếu bóng vía…, một kết quả cụ thể từ sức ép công luận".
Chính vì vậy, tranh luận về đề xuất này cơ bản là về nghị quyết Church-Cooper, nghị quyết mà đã cắt ngân sách dành cho các chiến dịch tại Campuchia và khiến cam kết của Tổng thống có thêm hiệu lực về pháp lý. Chương trình không dành thời gian tranh luận về dự luật McGovern-Hatfield đề nghị cắt ngân sách dành cho cuộc chiến ở Đông Dương vào cuối năm 1971. (Dự luật này đã bị bác bỏ vào tháng chín, với 55 phiếu chống và 39 phiếu thuận, khiến tranh cãi về Campuchia bị xua tan).
Nhưng tôi lại tham gia chương trình để nói về dự luật McGovern-Hatfield, như Luật sư Howard Miller đã nói rõ khi giới thiệu tôi "đến để nói với chúng ta tại sao Quốc hội phải quyết định rút quân khỏi Campuchia và Đông Nam Á". Có lẽ thượng nghị sỹ Charles Goodell, người trong cuộc tham gia cùng tôi hôm nay, là người sẽ ủng hộ đề xuất này. Tôn trọng mong muốn của Charlie Wolf, người ta đã không đề cập gì tới mối liên hệ của tôi với Rand trong thời gian qua. Tôi được giới thiệu là đang làm việc tại Trung tâm nghiên cứu quốc tế, Viện Công nghệ Massachusetts, và nguyên là cố vấn (thực tế là quan chức) Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao.
Người sẽ phản bác chúng tôi cũng như cả đề xuất là luật sư bảo thủ William T. King cùng các nhân chứng là Thượng nghị sĩ Robert Dole và William H. Sullivan, phó trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, nguyên là Đại sứ Mỹ tại Lào, người mà theo Miller là tham gia theo chỉ thị của chính quyền.
Trong không khí và tâm trạng chung đó, rất nhiều người sẽ tư chức trớc khi có thể nói về cuộc xâm lược Campuchia trên ti vi. Sullivan không nằm trong số đó, nhưng điều này không có nghĩa anh thực sự ủng hộ hành động xâm lược trên. Một vài thành viên nội các đã công khai phản đối nó, và một số lượng lớn các nhân viên ngoại giao đã ký vào một bức thư kiến nghị chưa từng có để lên án hành động này. Miller nói rằng ông chỉ có thể tìm được một người duy nhất có lập trường ủng hộ chính quyền, đó là Dole, Chủ tịch Uỷ ban quốc gia của Đảng Cộng hoà.
Điều tôi nhớ nhất về chương trình hôm đó là trao đổi giữa Miller và Dole, người mà theo như tôi nhớ đã nói một câu: "Cuộc sống của chỉ một cậu bé Mỹ thôi cũng đã quý hơn bất kỳ một đường tưởng tượng nào trên bản đồ". Ý ông muốn nói tới biên giới Campuchia, ranh giới mà những chiếc xe tăng Mỹ xâm lược đã tràn qua, vì cái mà theo logic mơ hồ của chính quyền là để bảo vệ sinh mạng của lính Mỹ. Khi bị luật sư đối lập chất vấn, Miller đã thốt lên: "Thưa Thượng nghị sỹ, ranh giới đó là một đường biên giới quốc tế đó?".
Dole đáp trả. "Tôi không quan tâm anh gọi đó là gì, nó không đáng giá bằng sinh mạng của chỉ một cậu bé Mỹ".
Sau đó là trao đổi của tôi với người chất vấn:
King: Anh có thấy là Tổng thống Mỹ đã bị tẩy não?
Ellsberg: Trước đây các ứng cử viên Tổng thống đều đã thừa nhận điều đó. (Thống đốc bang Michigan George Romney khi tự rút khỏi cuộc chạy đua cùng Nixon nhằm giành vị trí ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hoà vào năm 1968 đã nhận xét thẳng thắn như vậy). Thưa ông, tôi tin rằng thực tế là năm Tổng thống đã tự tẩy não mình, tẩy não đội ngũ của mình, và tẩy não cả công chúng Mỹ trong thời gian dài nắm quyền của các chính quyền khác nhau. Cả một thế hệ đấy.
King: Ông chẳng ưa gì chính quyền ở Nam Việt Nam phải không?
(Dừng)
Ellsberg: Với tôi câu hỏi này thật lạ. Tôi không - …
Người dẫn: Tôi nghĩ King không có ý hỏi về tình cảm cá nhân chỉ là hỏi xem thực tế anh có ác cảm gì với chính phủ Nam Việt Nam không.
(Dừng)
Ellsberg: Tôi tin rằng chính phủ Nam Việt Nam là một chế độ độc tài quân sự tham nhũng, không đại diện cho số đông người dân mà chỉ cho một số ít. (Cười và vỗ tay) Nếu có nói thêm, thì tôi muốn nói cái gì đó về mối liên hệ giữa chính quyền này với nước Mỹ… Tôi tin rằng nó là một tập hợp số ít người ở miền Nam Việt Nam, những người chỉ muốn chứng kiến cuộc chiến này kéo dài vô thời hạn hơn là phải thấy nó kết thúc cùng sự ra đi của người Mỹ.
King: Vậy cho tôi hỏi ý kiến của anh về Chính phủ Bắc Việt Nam?
Ellsberg: Chính phủ Bắc Việt Nam trên nhiều khía cạnh chẳng khá hơn Chính phủ Nam Việt Nam.
King: Nói cách khác, anh không quan tâm ai sẽ thắng phải không?
Ellsberg: Vấn đề là ở chỗ thật là một sai lầm bi thảm khi để cho một người Mỹ, dù cho có là tôi, là anh hay là Tổng thống Mỹ, quyết định cho Chính phủ Nam Việt Nam, điều đã dẫn đến thảm kịch cho cả hai đất nước.
Vào ngày 13-5-70, tôi báo cáo trước Uỷ ban đối ngoại của Hạ viện. Phiên họp này, theo lời Fulbright, kêu gọi phải "điều trần về hệ quả về lịch sử, chính trị và kinh tế mà chính sách của Mỹ đã gây nên ở Việt Nam và Đông Nam Á". Lúc đầu người ta dự kiến buổi điều trần sẽ mang tính giáo dục và không tranh cãi, phản ánh tâm trạng của Thượng viện và công chúng, nhưng trong những giới hạn đó, tôi quyết định sẽ bình luận thẳng thắn về bản chất của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn.
Trong bối cảnh này, tôi bắt đầu bằng việc điểm lại những nỗ lực của chính quyền nhằm ngăn cản quyền "tự quyết" đích thực ở Việt Nam - mục tiêu mà Mỹ tuyên bố khi can thiệp vào đất nước này. Thực tế lại là "trong số những chế độ mà chúng ta đã hỗ trợ, từ chế độ Bảo Đại do Pháp khống chế, cho đến Ngô Đình Diệm, đến chế độ quân sự hôm nay cầm quyền dưới vỏ bọc hợp hiến, chẳng có chế độ nào là kết quả của một quá trình nhân dân lựa chọn một cách thực sự tự do, hoặc thực sự không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài của chúng ta".
Trong phần điều trần của mình, tôi đã gắn với lịch sử những cố gắng của Mỹ nhằm duy trì một loạt các chính quyền hầu như không có hoặc hoàn toàn không có sự ủng hộ của người dân, chỉ đơn thuần dựa trên khả năng họ có thể duy trì những lợi ích nổi trội của Mỹ và ngăn chặn các chính phủ này cuối cùng rơi vào sự kiểm soát của Cộng sản. Tôi nói kỹ trường hợp cụ thể của bạn tôi là Trần Ngọc Châu, người đã bị bắt ở Sài Gòn và bị xét xử trái luật vào tháng ba (Một cựu bộ trưởng trong chính quyền Ngô Đình Diệm, sau các cuộc đảo chính của phe quân sự Sài Gòn đã mất chức - ND). Châu bị bắt vì bị cho là có tiếp xúc bí mật với người anh ở miền Bắc. Trên thực tế, chính Đại sứ Lodge đã khuyến khích những tiếp xúc như vậy và mọi người ở sứ quán đều biết rõ điều đó. John Van đã nói với tôi rằng lý do thực sự khiến Thiệu truy đuổi Châu là vì Châu đã lên án những vụ tham nhũng của kẻ mối lái cho Thiệu và kêu gọi đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng.
Nhân việc này, Fulbright đã hỏi kỹ những gì tôi biết về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, một chủ đề mà ông hết sức quan tâm.
Tôi nói rằng trong những phiên điều trần trước, Fulbright đã nói ông thấy "xấu hổ" vì một phần có trách nhiệm trong việc thông qua nghị quyết của quốc hội về vụ việc này. Tôi nói từ đó đã đập ngay vào tai tôi "vì tôi nghĩ mình chưa bao giờ nghe thấy ai dùng một từ như vậy hay bằng cách nào đó ngụ ý nói đến trách nhiệm cá nhân của mình đến mức độ như vậy". Tôi nói tinh thần đó thật không bình thường, nhưng thế mới thích đáng. Tôi chỉ tiếc rằng những ai đã lừa dối ông, lừa dối đất nước vào thời điểm đó, lại không hề tỏ ra như vậy.