Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Dịch giả: Cổ Nguyệt
Hồi Thứ Mười Hai
Tiếc thay tri giao đời khó kiếm
Đau lòng thân thế lệ rơi nhiều

Hai người đi một đoạn, Kim Thế Di thấy Cốc Chi Hoa rầu rĩ ủ ê, cười rằng: “Không ở lại phái Mang Sơn thì có hề gì? Nếu là cô nương, tôi chẳng mong có một sư tỷ như thế?” Cốc Chi Hoa nói: “Tuy Tào sư tỷ dồn ép người, nhưng cũng coi như một nữ hiệp chính phái, lúc nãy huynh có hơi quá đáng với bà ta.” Kim Thế Di cười nói: “Chính vì lúc nãy tôi thấy ngứa mắt nên mới trút giận thay cho cô nương. Cô nương có để ý bộ dạng của bà ta lúc nãy không?” Kim Thế Di lại diễn tả lại điệu bộ của Tào Cẩm Nhi, Cốc Chi Hoa vẫn mày chau ủ dột.
Kim Thế Di lại khuyên rằng: “Hôm nay cô nương đánh thắng Diệt Pháp hòa thượng, giữ danh dự cho phái Mang Sơn, ngoại trừ Tào Cẩm Nhi, tất cả đồng môn đều mang ơn cô nương, tuy cô nương bị Tào Cẩm Nhi đuổi ra khỏi sư môn nhưng tình hình hôm nay lại khác hẳn bị đuổi vì phản thầy, bởi vậy có ai dám coi thường cô nương!” Cốc Chi Hoa thở dài: “Từ rày về sau, mỗi năm tôi chỉ có thể thăm mộ sư phụ hai lần.
Tôi đã hứa sẽ ở bên cạnh sư phụ ba năm, đến nay vẫn chưa mãn.” Kim Thế Di cười rằng: “Chỉ cần trong lòng cô nương có sư phụ, bắt chước người khi còn sống, hành hiệp trượng nghĩa trên giang hồ, há chẳng phải hơn cả giữ bên mộ của người hay sao?”
Cốc Chi Hoa như đang ngẫm nghĩ điều gì đó, nàng đi một đoạn thì thở dài: “Tuy là nói như thế, đáng tiếc tôi không nghe được lời dạy của sư phụ nữa.” Nàng ngừng một lát rồi lại hỏi: “Tôi nghe Dực sư huynh nói, trước đây các người đã đại náo Mạnh gia trang, huynh... huynh có giao thủ với Mạnh... Mạnh Thần Thông không?” Mạnh Thần Thông là kẻ thù của phái Mang Sơn, lại là cha ruột của nàng, nàng không nỡ xem ông ta là đại ma đầu như mọi người, nhưng lại không muốn coi ông ta là con ruột, cho nên chỉ có cách gọi thẳng tên ra. Kim Thế Di nói: “Đã từng giao thủ, theo võ công của ông ta mà luận, chỉ e dù đồng môn ba đời của phái Mang Sơn cùng xông lên cũng chưa chắc là đối thủ của ông ta!” Sắc mặt Cốc Chi Hoa trắng bệt, vốn là nàng đang nghĩ nếu có một ngày nào đó phái Mang Sơn đến tìm ông ta trả thù, lúc đó sẽ không ít người chết trong tay Mạnh Thần Thông, vậy nàng sẽ giúp đồng môn hay giúp cha ruột của mình? Nàng ngửa mặt nhìn trời, muốn khóc nhưng lại không rơi nước mắt, chỉ hận mình là con gái của Mạnh Thần Thông.
Lẽ nào Kim Thế Di không biết tâm sự của nàng, chỉ là không muốn làm cho nàng xúc động, thấy nàng cứ rầu rĩ mãi thì không nỡ lòng, chợt nắm chặt hai tay nàng, lớn giọng nói: “Cô nương là cô nương, y là y, ai trong nay trong, ai đục này đục, sen mọc ở bùn lầy nhưng là quân tử trong các loài hoa, uổng cho cô nương là đệ tử của Lữ Tứ Nương, lẽ nào cô nương không hiểu điều này?” Cốc Chi Hoa run rẩy nói: “Những người khác sẽ nghĩ gì?” Kim Thế Di cả cười: “ Làm người chỉ mong ngửa lên không thẹn với trời, cúi xuống không thẹn với đất, cần gì phải để ý người bên cạnh nói gì?
Người ta gọi tôi là Độc Thủ Phong Cái, coi tôi là đại ma đầu chẳng chuyện ác gì không làm, nhưng tôi tự thấy chưa bao giờ giết người, cũng chưa bao giờ làm chuyện đại gian đại ác, tôi vẫn hành sự theo ý của mình, chẳng cần để ý người khác coi thường hay coi trọng tôi. Tôi bị người ta coi là kẻ ma đầu cũng chẳng sao, huống chi cô nương chỉ là con gái của ma đầu? Trước đây cô nương từng khuyên tôi, mong tôi là một đứa trẻ mới sinh, thôi được, hôm nay tôi sẽ lấy lời ấy khuyên cô nương, cô nương cứ xem cha mẹ đã chết sớm, ngay từ khi mới ra đời cô nương cũng đã chết, vậy Mạnh Thần Thông có liên quan gì đến cô nương!” những lời nói ấy rất triệt để, ngoại trừ Kim Thế Di, người khác chẳng thể nào nói ra được. Cốc Chi Hoa khóc như mưa, nhưng trong lòng đã thoải mái hơn lúc trước.
Những lời này tựa như đã dồn nén trong lòng chàng bấy lâu nay, đột nhiên đổ ra cuồn cuộn như nước lũ, giọng nói càng lúc càng lớn, rõ ràng là chàng cũng đang kích động, nói xong thì hai người bất giác nhích lại gần nhau hơn. Chỉ nghe giọng nói của y vang vọng trong sơn cốc không ngớt.
Cốc Chi Hoa chợt có cảm giác ngọt dịu trong lòng thầm nhủ: “Ai cũng bảo Kim Thế Di là kẻ khó gần, xem ra những kẻ này không hiểu y. Ai cũng nghĩ y kiêu ngạo, nhưng không ngờ lại chân thành dễ mến đến thế!”
Kim Thế Di mỉm cười, nói: “Tôi bình sinh thích cười đùa bỡn cợt, chỉ có hôm nay mới nói lời nghiêm túc”. Trong lòng chàng cũng có cảm giác kỳ diệu, cả bản thân chàng cũng lấy làm lạ vì hông hiểu tại sao có thể nói được với Cốc Chi Hoa những lời như thế.
Cốc Chi Hoa khẽ nói: “Vậy ư? Suốt đời huynh chẳng có bằng hữu sao?” hình bóng Lý Tâm Mai hiện lên trong lòng chàng, chàng nghĩ ngơi rồi nói: “Có thể nói không một người bằng hữu nào như cô nương. Tất cả những người tôi quen biết nếu không căm ghét tôi, coi tôi là quái vật thì lại thương xót tôi, coi tôi như một đứa trẻ đáng thương.” Trong lòng chàng, người coi chàng như “đứa trẻ đáng thương” bao gồm cả Băng Xuyên thiên nữ.
Cốc Chi Hoa nói: “Nhưng có một người huynh không quen biết, người đó không căm ghét huynh, cũng không tội nghiệp cho huynh mà chỉ coi huynh là một viên ngọc thô, tuy hành vi quái gỡ nhưng vẫn có thế mài dũa.” Kim Thế Di mở to mắt hỏi: “Người đó là ai?” Cốc Chi Hoa nói: “Đó là sư phụ của tôi.” Kim Thế Di mỉm cười: “Không đúng, tôi chưa bao giờ gặp Lữ Tứ Nương, tôi chỉ biết người qua lời kể của sư phụ. Khi lớn lên, tôi càng cảm thấy sư phụ cô nương là người rất thân thuộc.” Cốc Chi Hoa nói: “Tại sao?” Kim Thế Di nói: “ Bởi vì cô nương là đệ tử duy nhất của người, đã được người nuôi dạy. Cô nương tốt bụng lại rộng lượng, có thể chịu đựng được tất cả mọi điều. Thầy nào thì trò nấy, cho nên sư phụ tôi kể về Lữ Tứ Nương, tôi mới biết cô nương là học trò của người, bởi vậy trước kia tôi mới gặp mặt cô nương, cũng cảm thấy cô nương đã là bằng hữu của mình. Nay thấy cô nương hành sự thì lại càng hiểu hơn sư phụ của cô nương.” Cốc Chi Hoa đỏ ửng mặt, nói: “Sao huynh có thể đem tôi so với sư phụ, tôi làm sao có thể bằng được người.” Nàng ngập ngừng rồi lại mỉm cười nói: “Không ngờ huynh cũng là người biết lấy lòng người khác.” Kim Thế Di nghiêm mặt nói: “ Không phải lấy lòng. Có lẽ hôm nay cô nương không bằng sư phụ, nhưng sau này chắc chắn sẽ là một Lữ Tứ Nương.”
Ánh mắt hai người chạm nhau, Cốc Chi Hoa ngượng ngùng quay đầu đi. Kim Thế Di nhớ lại một chuyện, chợt hỏi: “Trước khi sư phụ của cô nương qua đời, bảo cônương để ý đến tôi, tôi nhớ cô nương hình như đã nói như thế.” Cốc Chi Hoa nói: “Đúng thế, sư phụ của tôi luôn nhớ đến Độc Long tôn giả, bởi vậy khi còn sống người cũng để ý đến hành vi của huynh, hy vọng huynh có thể kế thừa võ học của sư phụ mình, lập ra một phái ở Trung Nguyên, để cho võ công của sư phụ huynh không thất truyền.” Kim Thế Di mừng rỡ nói: “Vậy tôi muốn hỏi cô nương một chuyện nữa, cô nương có chịu nói thực cho tôi biết không?” Cốc Chi Hoa thấy chàng nói trịnh trọng, hơi ngạc nhiên cười: “ Huynh muốn hỏi chuyện gì? Nêu huynh không tin tôi thì không cần phải hỏi nữa.” Kim Thế Di nói: “Không phải là tin hay không, chỉ là chuyện này có liên quan đến một bí mật lớn trong võ lâm, tôi ngại rằng dù cô nương biết, có lẽ vì điều cấm kị nào đó cho nên không chịu nói ra. 
Cốc Chi Hoa ngập ngừng một lát thì mỉm cười: “Huynh cứ hỏi đi.” Kim Thế Di nói: “Lần đầu tiên chúng ta gặp mặt, cô nương bảo mượn tay Giang Nam gởi cho tôi một món quà!” Cốc Chi Hoa nói: “Đúng thế. Huynh có nhận món quà này chưa?”
Kim Thế Di nói: “Cô nương có biết món quà ấy là gì không?” Cốc Chi Hoa nói: “Tôi đoán rằng đó là một bức tranh.” Kim Thế Di nói: “Trước đây cô nương có thấy bức tranh này không?” Cốc Chi Hoa nói: “Chưa từng thấy.” “Vậy cô nương tặng món quà ấy cũng rất kỳ lạ, cả bản thân cũng chưa thấy mà lại đem tặng cho người khác.” Cốc Chi Hoa nói: “Tôi chỉ là mượn hoa dâng Phật mà thôi.”
Kim Thế Di đã giấu nỗi thắc mắc này trong lòng rất lâu, lúc này mới có cơ hội hỏi: “Làm sao cô nương biết trong người Tàng Linh thượng nhân có bức tranh kỳ lạ ấy?” Cốc Chi Hoa nói: “ Kỳ lạ như thế nào?” Kim Thế Di lấy ra cho nàng xem, rồi hỏi: “ Cô nương hãy xem ngọn núi lửa ở giữa biển khơi, có một người giương cung bắn vào miệng núi lửa, đó là ý gì?” Cốc Chi Hoa nói: “Tôi đã nói chưa từng thấy bức tranh này, tôi làm sao biết ý nghĩa của nó?” Kim Thế Di rất thất vọng, ngẩn ra nhìn nàng.
Cốc Chi Hoa cười: “ Tôi tuy không biết ý nghĩa của bức tranh này, nhưng tôi lại biết lai lịch của nó. Huynh rất thông minh, đã có thể phá giải được huyền cơ của bức tranh, biết được nó có liên quan đến một bí mật trong võ lâm.” Kim Thế Di nói: “Chính Tàng Linh thượng nhân đã tiết lộ như thế.” Cốc Chi Hoa ngạc nhiên: “Sao Tàng Linh thượng nhân lại tiết lộ cho huynh biết bức tranh này?” Kim Thế Di nói: “Y không nhắc bức tranh này, y chỉ mời tôi cùng đi tìm bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh để lại trên hải đảo, y bảo rằng trên đời này ngoài y, không ai biết bí mật này, sau khi y chết, Giang Nam đã phát hiện bức tranh, cho nên mới đưa cho tôi. Tôi nghi ngờ hải đảo này là nơi sư phụ của tôi đã từng đến.” Cốc Chi Hoa nói: “Được, huynh hãy nói trước những điều huynh biết.” Rồi Kim Thế Di lần lượt kể lại cuộc nói chuyện với Tàng Linh thượng nhân cùng với chuyện Độc Long tôn giả bảo chàng không được lên trên đảo có núi lửa chơi lúc còn bé, chàng chỉ giấu một chuyện quan trọng nhất, đó chính là thân thế của Lệ Thắng Nam. Lệ Thắng Nam là hậu duệ của Lệ Kháng Thiên, học trò của Kiều Bắc Minh, tính ra hiện nay chỉ có Lệ Thắng Nam có liên quan đến Kiều Bắc Minh 
Kim Thế Di không phải cố ý giấu giếm Cốc Chi Hoa mà bởi vì chàng đã hứa với Lệ Thắng Nam, quyết không tiết lộ thân thế của nàng. Từ sau khi gặp gỡ Lệ Thắng Nam, không biết thế nào mà mỗi khi nhớ đến nàng thì Kim Thế Di tựa như có một nỗi e dè ẩn chứa trong lòng, cho nên chàng cố nén không nhớ đến nàng. Thế nhưng khi kể với Cốc Chi Hoa, hình bóng của Lệ Thắng Nam lại hiện ra rõ ràng trong lòng y.
Cốc Chi Hoa im lặng nghe chàng nói, chợt phát giác vẻ mặt chàng có hơi khác lạ, Cốc Chi Hoa rất ngạc nhiên, ngay lúc này Kim Thê Di đã ngừng lại.
Cốc Chi Hoa nói: “Có phải huynh muốn đến hải đảo tìm bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh nhưng lại sợ phải không?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế. Tôi nghĩ trên hải đảo chắc chắn có chuyện gì kỳ quái, nếu không sư phụ của tôi đã không nói với tôi như thế.” Thật ra chàng không phải sợ điều này mà là bởi vì chàng nhớ đến Lệ Thắng Nam, Lệ Thắng Nam tựa như một cái bóng đeo bám chàng, chàng sợ cái bóng ấy.
Cốc Chi Hoa nói: “Xem ra trên hòn đảo ấy chắc chắn có chứa bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh. Lúc nãy huynh hỏi tôi, tôi làm sao biết Tàng Linh thượng nhân có bức tranh, bây giờ tôi có thể nói cho huynh biết, một ngày trước khi qua đời, sư phụ đã nói cho tôi biết, người cũng có lệnh lấy bức tranh này lại tặng cho huynh. Ngày hôm đó vừa khéo Tàng Linh thượng nhân bị huynh đả thương, chết ở trong sơn động, còn huynh thì chưa phát hiện y có giấu bí mật này, cho nên tôi đã nhờ Giang Nam gởi cho huynh.” Kim Thế Di ngạc nhiên nói: “Sao người lại biết?” Cốc Chi Hoa nói: “Lệnh sư Độc Long tôn giả trước kia cũng từng nói với người về hải đảo ấy, ông bảo đã từng phát hiện trên đảo có bút tích của Kiều Bắc Minh, lệnh sư không biết Kiều Bắc Minh là người như thế nào, rắn độc quái vật lại hay xuất hiện, tuy lệnh sư không sợ nhưng cũng không muốn mạo hiểm. Sau đó người hỏi sư phụ về Kiều Bắc Minh, sư phụ tôi đã đoán đúng, đó chính là một đại ma đầu ba trăm năm trước, có thể ông ta đã để lại võ công trên hải đảo.” Kim Thế Di nghĩ bụng: “E rằng trên hải đảo không chỉ có rắn độc mãnh thú, nếu không sư phụ đã chẳng nói với mình như thế. Không biết người phát hiện ra chuyện gì quái dị mà cả Lữ Tứ Nương cũng không nói.”
Cốc Chi Hoa tiếp tục nói: “Nhiều năm trôi qua, lệnh sư cũng qua đời. Cho đến ba năm trước, sư phụ tôi đến Thiên Sơn thăm Đường Hiểu Lan. Đường Kinh Thiên và Băng Xuyên thiên nữ cũng ở đấy, nhắc lại chuyện này Băng Xuyên thiên nữ nhớ lại một chuyện, cha của nàng là Quế Hoa Sinh năm xưa vì tìm võ công tuyệt thế, cho nên đã đi sang nước khác, kết mối duyên lành với công chúa của nước Nề Bách Nhĩ, kết giao với võ sĩ của các nước, có một võ sĩ Ba Tư nói vợ người rằng, một bậc tôn sư võ học ở Tây Tạng đã từng đến Ba Tư, mua một bức tranh của một người Ba Tư có gốc gác Trung Quốc, nghe nói viễn tổ của người ấy là một hải khách Trung Quốc, ông ta có một cuốn nhật ký kể lại chuyện đã gặp một kỳ nhân tên gọi Kiều Bắc Minh ở một hải đảo, người Ba Tư này không hiểu chữ Trung Quốc, song vẫn còn nhớ cái tên Kiều Bắc Minh. Võ sĩ Ba Tư ấy biết Tàng Linh thượng nhân là một bậc tông sư võ học, nghi ngờ ông ta mua bức tranh có liên quan đến võ công, mà Quế Hoa Sinh cũng là người Trung Quốc, cho nên đã kể chuyện này cho Quế Hoa Sinh biết, Quế Hoa Sinh cũng không biết Kiều Bắc Minh là ai, định rằng khi nào về trung thổ sẽ hỏi Lữ Tứ Nương. Đáng tiếc Quế Hoa Sinh suốt đời không gặp được Lữ Tứ Nương, có điều con gái ông ta là Băng Xuyên thiên nữ lại có cơ hội.” Kim Thế Di mới vỡ lẽ ra, nói: “Té ra câu chuyện lại rắc rối như thế, sư phụ của cô nương nghe Băng Xuyên thiên nữ kể lại câu chuyện của cha nàng mới biết bí mật của Kiều Bắc Minh nằm trong tay Tàng Linh thượng nhân.”
Cốc Chi Hoa nói: “Sau khi sư phụ tôi từ Thiên Sơn trở về thì biết không còn sống được bao lâu, người muốn sau khi người qua đời tôi phải để ý hai người, một người là huynh, một người là Tàng Linh thượng nhân. Người bảo võ công của sư phụ huynh rất độc đáo, rất nhiều môn phái lớn ở Trung Nguyên không bằng, đáng tiếc người không có được tâm pháp nội công chính tông, cho nên cuối cùng đi vào con đường tẩu hỏa nhập ma. Sư phụ tôi đọc rộng hiểu nhiều, người đã xem ghi chép của các bậc tiền bối võ lâm, biết Kiều Bắc Minh là nhân vật võ công cao cường nhất trong tà phái từ thời Minh đến nay, năm xưa khi giao thủ với đại hiệp Trương Đan Phong lần thứ hai, ông ta đã luyện Tu la Âm Sát Công đến tầng thứ tám, bắt đầu đi vào cảnh giới của tầng thứ chín.”  Kim Thế Di nói: “Theo tôi biết, giờ đây Mạnh Thần Thông chỉ mới luyện được tầng thứ bảy, còn kém xa Kiều Bắc Minh năm xưa. Mạnh Thần Thông cũng lo rằng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.” Cốc Chi Hoa nói: “Theo kinh điển Mật Tông Tây Tạng ghi lại, sau khi luyện Tu la Âm Sát Công đến tầng thứ tám sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Nhưng Kiều Bắc Minh năm xưa đã bước vào cảnh giới của tầng thứ chín, lại còn có thể giao thủ với Trương Đan Phong, sau đó sống trên hải đảo gần một trăm tuổi mới chết, từ đó mà đoán, quả thực ông ta có thể hợp nhất nội công của hai phái chính tà, tiêu trừ mầm họa tẩu hỏa nhập ma, đó là vấn đề mà lệnh sư phải giải quyết. Cho nên sư phụ bảo tôi sau khi người chết phải tìm huynh, cho huynh biết bí mật trong bức tranh của Tàng Linh thượng nhân, hy vọng huynh có thể lấy được bí kíp võ lâm của Kiều Bắc Minh.” 
Kim Thế Di nói: “ Bây giờ thì tôi đã hiểu, tháng trước Côn Luân tản nhân, Tang Mộc Lão và Kim Nhật đuổi theo Tàng Linh thương nhân đến huyện Đông Bình, cô nương gặp ba ma đầu ấy, lúc đó chắc là cô nương đã phát hiện dấu vết của tôi và Tàng Linh thượng nhân?” Cốc Chi Hoa nói: “Đúng thế, tôi vẫn âm thầm đi theo hai người, vì các người đều phải đối phó cường địch cho nên không để ý đến tôi. Sau đó Tàng Linh thượng nhân chết, Giang Nam đã trao bức bản đồ và quyển nhật ký của người hải khách cho huynh, tôi mới không để ý đến nữa.” 
Kim Thế Di cười nói: “ Lúc đó cô nương chưa cho tôi biết tường tận, có lẽ vẫn chưa tin tôi, chắc là muốn xem thử tính tình tôi như thế nào, nếu quả là một người tốt thì mới chịu nói ra có đúng không?” Cốc Chi Hoa cười nói: “Huynh chỉ nói đúng một nửa, tôi đoán thế nào huynh cũng lên Mang Sơn cúng tế sư phụ tôi.” Kim Thế Di cũng cười: “Cô nương cũng chỉ đoán đúng một nửa, tôi lên Mang Sơn ngoại trừ cúng tế cho sư phụ cô nương, còn muốn gặp cô nương.” 
Ánh mắt hai người lại chạm nhau, sóng lòng xao xuyến, nước thu tràn trề, đúng là mấy phen gặp nhau, cuối cùng trở thành tri kỷ. Kim Thế Di giật mình, chợt nói: “Cốc cô nương tính đi đâu?” Cốc Chi Hoa nói: “Tôi cũng chưa biết.” Kim Thế Di nói: “ Cô nương có hứng cỡi gió đạp sóng không? Chúng ta sẽ ra biển.” Cốc Chi Hoa nói: “Có phải huynh muốn cùng tôi đến hòn đảo của Kiều Bắc Minh không?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế.” Cốc Chi Hoa nói: “Chỉ có hai người chúng ta?”
Cốc Chì Hoa tuy là nữ kiệt trong võ lâm, tính tình phóng khoáng, nhưng ngẫm lại cô nam quả nữ ngồi cùng một thuyền ra biển, quả không tiện lắm, nàng muốn từ chối cho nên mới hỏi như thế. Kim Thế Di nghe nàng hỏi như thế thì tựa như sấm nổ giữa trời xanh, chợt hình bóng của Lệ Thắng Nam hiện lên trong đầu chàng. Kim Thế Di rối bời lòng dạ, ngẩng đầu lên thì thấy phía trước có một tòa trà đình, chàng lặng lẽ bước vào trong trà đình.
Cốc Chi Hoa rất lấy làm lạ, bước theo y vào trong, cười nói: “Sao huynh chẳng nói lời nào?” Kim Thế Di nói: “ Tôi đã khát, muốn kiếm chút rượu uống.” 
Loại trà đình ven đường thường vẫn bán kèm rượu, Kim Thế Di vừa ngồi xuống đã bảo tên tiểu nhị đem ra ba cân bạch can, Cốc Chi Hoa nói: “Tôi không uống rượu.”
Rồi kêu một bình trà, nàng thấy Kim Thế Di cứ uống hết bát này tới bát khác, trong chớp mắt đã uống cạn ba cân bạch can, chàng lại gọi tiểu nhị đem thêm ba cân nữa.
Tên tiểu nhị chưa bao giờ thấy ai uống rượu như thế, mở to mắt nói: “Khách quan, ngài uống thật là mau!”
Cốc Chi Hoa rầu rĩ, thầm nhủ: “Kim Thế Di là người thông minh, y thấy mình hỏi như thế thì đã đoán rằng mình không chịu đi cùng y ra biển cho nên trong lòng rầu rĩ. Sao y không nghĩ cho mình, tuy người trong võ lâm không phân biệt lễ tiết, nhưng cô nam quả nữ thì làm sao có thể đi cùng thuyền?” 
Nàng nào biết Kim Thế Di nghĩ đến cuộc hẹn với Lệ Thắng Nam, chàng đã hứa cùng Lệ Thắng Nam ra biển, làm sao có thể đi cùng Cốc Chi Hoa? Dù Cốc Chi Hoa không ngại nhưng chàng đã hứa không tiết lộ bí mật của Lệ Thắng Nam, từ đó có thể biết nàng sẽ không cho mình dắt theo một cô gái lạ.
Tuy tính tình của Kim Thế Di phóng khoáng, nhưng không phải là một người thô lỗ. Vậy tại sao chàng chưa suy nghĩ mà đã hẹn với Cốc Chi Hoa? Tình cảm là một cái gì đó rất lạ lùng. Kim Thế Di ngày đêm mong nhớ Cốc Chi Hoa, giờ đây gặp nhau thì cảm thấy rất hợp nhau, khi chàng cảm nhận được tình cảm của nàng thì dù chuyện lớn bằng trời cũng quên bẵng, chàng làm sao có thể nhớ đến Lệ Thắng Nam? Nhưng chàng vừa mới nói ra thì hình bóng của Lệ Thắng Nam hiện ra rõ ràng trong lòng chàng, khiến chàng hối hận cũng không kịp. Cốc Chi Hoa không rõ chuyện trước kia của chàng, làm sao biết trong lòng chàng rất phức tạp?
Kim Thế Di uống một mạch bảy tám bát rượu, buồn bã nói: “Cô nương không đi cũng được, có lẽ tôi sẽ hẹn người khác.” Cốc Chi Hoa nói: “Đi tìm bí kíp võ công tuyệt thế thì làm sao có thể tùy tiện hẹn ai? Huynh không sợ trên hải đảo có quái vật sao?” lúc này Cốc Chi Hoa đã quyết định, chỉ cần Kim Thế Di nói thêm một tiếng, nàng sẽ chấp nhận ngay. Nhưng Kim Thế Di thì lại tỏ vẻ rầu rĩ, cúi đầu uống một bát rượu nữa, nói: “ Tôi không sợ nơi ấy, tôi chỉ sợ...” Cốc Chi Hoa nói: “ Sợ gì?” Kim Thế Di buột miệng: “Tôi sợ bản thân tôi.” Câu nói ấy kỳ lạ vô cùng, Cốc Chi Hoa cười rằng: “Câu nói của huynh nghe bí hiểm thật!” 
Kim Thế Di bưng chén rượu, nói: “Uống!” rồi tu ừng ực, Cốc Chi Hoa cười: “Chẳng phải tôi đã bảo không uống hay sao?” rồi nàng liếc nhìn Kim Thế Di, dịu dàng nói: “Huynh cũng nên uống ít lại!” Kim Thế Di thấy lòng rối bời, y mượn bài Giới tửu từ của nhà thơ thời Tống là Tân Khí Tật rồi đổi vài chữ, cao giọng hát: “Cùng người uống rượu, lão tử sáng nay, buông lơi hình hài! Suốt năm chưa uống, nay mừng được say, thở như sấm dậy! Đừng nói lưu linh, từ xưa đến nay mấy ai say khướt?...”
Cốc Chi Hoa nói: “Kim đại ca, huynh say rồi?” Kim Thế Di nói: “Uống rượu gặp người tri kỷ ngàn ly vẫn còn ít, chỉ có mấy cân bạch can này làm sao say nổi? Tiểu nhị, đem thêm ba cân nữa!” Cốc Chi Hoa nói: “Kim đại ca, nghe lời tôi, đừng uống nữa!” Kim Thế Di say đến nỗi mắt lờ đờ, chàng ngẩng đầu nhìn lên thì thấy ở ngoài đường có một đám người, chàng vừa nhìn thì giật mình: “Bọn người ấy chẳng phải là Chung Triển và Võ Định Cầu sao?” khi nhìn kỹ lại thì quả nhiên là họ, Kim Thế Di chợt vỗ bàn đứng dậy, cười ha hả: “Đi khắp nơi mà chẳng gặp, té ra hai tên tiểu tử ở đây! Cốc cô nương, đợi tôi một lát, tôi sẽ quay lại uống tiếp!” Cốc Chi Hoa vội vàng nói: “Kim đại ca, đại ca lại làm gì thế?” Kim Thế Di nói: “Tôi phải hỏi hai tên tiểu tử một việc, cô nương cứ mặc tôi, tôi quyết chẳng làm càn!”
Té ra hai người Chung, Võ cũng đến Mang Sơn, ba người đi cùng họ, một người tên là Lư Đạo Lân, một người là Lâm Sinh, đều là đệ tử của Tào Nhân Phụ và Lộ Dân Đảm, lúc nãy khi Trình Hạo điểm danh, nói với Tào Cẩm Nhi rằng có hai đồng môn thông báo đến nhưng vẫn chưa thấy mặt là họ. Một người nữa là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm, tên gọi Khâu Nguyên Giáp, y là cao đồ của giám tự chùa Thiếu Lâm Bản Không thượng nhân. Hai người Chung, Võ gặp họ trên đường, được biết hôm nay là ngày Độc Tý thần ni đã qua đời năm mươi ngày, nhớ lại mối giao tình của sư môn liền cùng họ đến dự. Cả bọn đang hào hứng, chợt nghe tiếng quát: “Hai tên tiểu tử nhà ngươi đứng lại cho ta!” Võ Định Cầu ngẩng đầu lên nhìn, y thấy Kim Thế Di đứng chặn giữa đường thì kinh hoảng, Chung Triển thì trấn tĩnh hơn, vội vàng rút kiếm ra khỏi vỏ, trầm giọng quát: “Con đường này chẳng phải của ngươi, tại sao ngươi không cho bọn ta qua?” Kim Thế Di cười nói: “Hai tên tiểu tử nhà ngươi vẫn chưa no đòn.
Trước mặt ta mà dám vung đao múa kiếm? Ta muốn hỏi các người một chuyện, nói rõ ràng thì cứ việc đi qua.” 
Võ Định Cầu vừa mới trấn tĩnh, cậy đông người, lớn giọng mắng: “Dưới chân núi Mang Sơn nào để cho ngươi ngang ngược? Ngươi có tránh ra hay không?” y trịnh trọng nói ra mấy chữ “dưới chân núi Mang Sơn” thật ra là có ý lôi kéo hai đệ tử của phái Mang Sơn, nhưng bọn họ không biết Kim Thế Di là ai, cũng không biết y và hai người Chung, Võ có xích mích gì cho nên tạm lui qua một bên, nghe rõ rồi tính tiếp.
Kim Thế Di cười lớn nói: “Dưới chân núi Mang Sơn thì thế nào? Ta có chuyện muốn hỏi ngươi, người dám không nói, ta sẽ đánh gãy cặp giò của ngươi, khiến cho ngươi phải bò lên Mang Sơn.” Lâm Sinh nhịn không được, nói: “Các hạ là bằng hữu phương nào? Có chuyện gì muốn hỏi thì cứ nói, cần gì phải ngang tàng như thế?” Kim Thế Di trợn mắt, nói: “Ngươi không nên biết tên ta thì hơn. Ta có việc muốn hỏi chúng, ai bảo chúng không nói mà lại mắng ta ngang ngược?” 
Khi Kim Thế Di nói thì nước bọt văng tung tóe, hơi rượu phả ra nồng nặc, Lâm Sinh thối lui một bước, thầm nhủ: “Chắc gã này đã uống say nên làm càn.” Bèn nói: “Chung đại ca, hãy nghe thử y hỏi gì? Dưới chân núi Mang Sơn, tiểu đệ quyết không khoanh tay đứng nhìn để cho các người gặp phiền phức.” Chung Triển vội vàng nháy mắt với Võ Định Cầu, rồi bước lên nói: “Kim tiên sinh có gì chỉ giáo?” y nhớ lại trong trận ác chiến ở Mạnh gia trang, Kim Thế Di từng ngầm giúp cho nên mới nói khách sáo như thế. Kim Thế Di nói: “Hừ, ngươi biết điều hơn tên tiểu tử họ Võ kia, ta hỏi ngươi, Lý Tâm Mai đâu? Nàng đã đi đâu? Tại sao không cùng đi với ngươi?” Chung Triển nói: “Ồ, té ra tiên sinh muốn hỏi sư muội của tôi? Nàng... nàng...” Kim Thế Di nói: “Nàng thế nào?” Chung Triển nói: “Tôi... tôi không biết.” Kim Thế Di nói: “ Xem bộ dạng ngươi cũng thật thà, nhưng lại cứ vờ vịt trước mặt ta! Sau khi Tâm Mai thoát khỏi Mạnh gia trang, chẳng phải đã đến trấn Tân An tìm các ngươi sao? Lẽ nào lại không gặp?” Rồi lại thầm nhủ: “ Nếu Chung Triển không nói dối, chắc chắn Lệ Thắng Nam đã nói dối.” Sau khi đại náo Mạnh gia trang, Lệ Thắng Nam lấy danh nghĩa của Lý Tâm Mai lừa Kim Thế Di đến núi Thái Hàng, khi Kim Thế Di chất vấn nàng, nàng mới bảo chính nàng cố ý dụ Lý Tâm Mai đi, chỉ cho Lý Tâm Mai đến gặp Chung Triển, cho nên Kim Thế Di vừa gặp Chung Triển và Võ Định Cầu thì đã truy vấn.
Lệ Thắng Nam không nói dối, Lý Tâm Mai quả nhiên tìm được hai người Chung, Võ, Chung Triển vốn muốn cho nàng biết tin tức của Kim Thế Di, nhưng vì Võ Định Cầu căm tức Kim Thế Di cho nên cố ý bịa chuyện, bảo rằng Kim Thế Di đã bị Tu la Âm Sát Công đả thương, xem ra sắp không giữ được mạng. Võ Định Cầu muốn cắt đứt tia hy vọng của Lý Tâm Mai, muốn nàng trở về Thiên Sơn, Lý Tâm Mai tưởng là thật, đau lòng vô cùng, nhưng nàng không nhận được tin tức xác thực thì làm sao có thể cam lòng, trái lại đã lập tức rời khỏi sư huynh, lại đi tìm tung tích của Kim Thế Di.
Chung Triển khuyên nàng không được, đuổi theo thì không kịp, sau đó mới trách VõĐịnh Cầu một hồi.
Nhưng trước mặt Kim Thế Dì, Chung Triển làm sao nói thật, Kim Thế Di thấy y ấp úng thì nghi ngờ, quát hỏi: “Tên tiểu tử nhà ngươi té ra cũng giả vờ thật thà, Lý Tâm Mai ở đâu, ngươi có nói hay không?” Võ Định Cầu ỷ có người phái Mang Sơn thì lớn gan, cười lạnh nói: “Kim Thế Di, Lý Tâm Mai là người thế nào của ngươi? Tại sao ngươi cứ hỏi tung tích của nàng?” Kim Thế Di cả giận, sắp phát tác thì nghe Võ Định Cầu lạnh lùng nói: “Cho ngươi biết, Lý Tâm Mai đã là vị hôn thê của tiểu sư thúc ta, người không cần quan tâm nữa?” Chung Triển đỏ ửng mặt, nhưng trước mặt người ngoài thì không tiện trách Võ Định Cầu. Từ lâu Chung Triển đã yêu mến nàng tiểu sư muội này, vả lại Đường Hiểu Lan cũng đã đề thân với Phùng Lâm, nhưng Lý Tâm Mai vẫn chưa chịu mà thôi.
Kim Thế Di ngẩn người ra, rồi buột miệng mắng: “Tên tiểu tử nhà người tuổi trẻ mà đầu óc toàn những ý nghĩ đen tối, Tâm Mai và ta như huynh muội, ta biết nàng đang tìm ta, tại sao ta không thế tìm nàng?” Võ Định Cầu cười lạnh: “Huynh muội cái gì, Tâm Mai tuổi trẻ ngây thơ, ngươi rõ ràng là muốn gạt nàng. Nếu ngươi muốn tìm nàng thì tại sao không đến Thiên Sơn? Giờ đây nàng đi lại một mình trên giang hồ, ngươi lại muốn tìm nàng?” Trước kia Kim Thế Di không chịu tìm Lý Tâm Mai là muốn né tránh tình cảm của nàng, nhưng từ sau khi y nghe hai người Chung, Võ nói chuyện ở trong khách sạn, biết Lý Tâm Mai thề rằng phải gặp y rồi mới chịu lấy người khác, mối tình si của nàng khiến cho chàng không thể tưởng tượng nổi, lúc đó chàng mới biết né tránh cũng không phải là cách. Huống chi chàng là người dễ xúc động, nghĩ đến tấm tình si của Lý Tâm Mai, chàng cũng không nỡ mãi né tránh nàng, cho nên sau khi chàng biết Lệ Thắng Nam lừa mình thì mới nổi giận, trước khi chưa lên Mang Sơn, chàng đã tốn mấy ngày đi chung quanh trấn Tân An tìm Lý Tâm Mai.
Nhưng giờ đây Võ Định Cầu tựa như muốn nói chàng có ý xấu đối với Lý Tâm Mai, thấy nàng đi lại một mình trên giang hồ, không có cha mẹ bên cạnh thì tìm cách quyến rũ nàng. Kim Thế Di nghe thế thì làm sao không giận? 
Ba người đi cùng Chung, Võ chợt nghe Võ Định Cầu kêu ba tiếng “Kim Thế Di “, đều thất kinh, Lâm Sinh hỏi: “Võ huynh, đây có phải là Kim Thế Di mà người trên giang hồ gọi là Độc Thủ Phong Cái không?” theo y nghĩ, Kim Thế Di tên tuổi lẫy lừng như thế ít nhất cũng phải là một người từ trung niên trở lên, nhưng không ngờ chàng chỉ là một người trẻ khoảng hai mươi tuổi.
Võ Định Cầu nói: “Chính là Độc Thủ Phong Cái, cho nên mới ngang ngược như thế. Hừ, hừ! Kim Thế Di, ở nơi khác thì người có thể làm càn, ở dưới chân núi Mang Sơn chẳng phải là chỗ cho ngươi ngang ngược! Ngươi đừng nên hỏi đến vị hôn thê của người khác! Bọn ta đã trả lời xong, ngươi có nhường đường hay chưa?”
Kim Thế Di trợn mắt, đột nhiên cười rộ rồi trừng mắt nhìn Võ Định Cầu: “Miệng chó không mọc được ngà voi, có phải ngươi muốn nếm bùn nữa không?” Võ Định Cầu thối lui ba bước, y cậy có người chống lưng nên cả gan mắng rằng: “Ngươi dám!” Kim Thế Di cười ha hả, nói: “Được, hôm nay thấy ngươi lên Mang Sơn viếng mộ Lữ Tứ Nương lão tiền bối, ta không cho ngươi nếm bùn, mời ngươi uống vài ngụm rượu “ rồi ngầm vận nội công há mồm phun ra, mấy cân rượu trong bụng bắn vọt ra, Võ Định Cầu vừa mới mở miệng định mắng thì thấy rượu bay tới, y vội vàng ngậm miệng lại, tai mắt mũi miệng đều bị rượu phun vào, Võ Định Cầu lại không phải là người biết uống rượu, y thấy vừa cay vừa thối, nghĩ lại rượu này là do Kim Thế Di phun ra, thế là ruột gan đảo lộn, cả cơm đêm qua vừa mới ăn cũng nôn ra.
Kim Thế Di ngửa mặt cười lớn, Võ Định Cầu làm sao có thể nén được cơn giận, thế là rút ra thanh trường kiếm múa ra một mảng kiếm hoa, đâm về phía Kim Thế Di, Chung Triển cũng bị rượu văng đầy mặt, nhưng không thê thảm như Võ Định Cầu, y cũng nổi giận đánh ra một chiêu Ưng Kích Trường Không.
Chung Triển đứng tương đối gần Kim Thế Di, kiếm rút ra sau nhưng đến trước, Kim Thế Di biết y đã có được vài phần hỏa hầu Thiên Sơn kiếm pháp, chàng không dám quá khinh địch, thế rồi mới vung cây gậy, sử dụng năm phần chân lực, đánh bật cây trường kiếm của Chung Triển ra, rồi chàng thuận tay múa gậy một vòng, cây thanh đồng kiếm của Võ Định Cầu đâm thẳng vào trong vòng gậy, bị cây gậy cuốn một cái, thanh kiếm vuột khỏi tay. Chung Triển vội vàng sử dụng một chiêu Đại Tu Di kiếm thức, chặn lại cho Võ Định Cầu, Võ Định Cầu phóng người vọt lên, tiếp lấy thanh kiếm rồi kêu oai oái: “Độc Thủ Phong Cái, hôm nay không phải ngươi chết thì ta vong” Kim Thế Di cười nói: “Hai tên nhãi nhép các ngươi có thể làm gì được ta? Ta không muốn lấy mạng của các ngươi!” rồi cây gậy chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, đầu gậy toàn đâm vào các đại huyệt nhưng lại cố ý nương tay, khiến cho cả hai người Chung, Võ đều xoay mòng mòng. Lư Đạo Lân thấy thế thì giở cây thiết tỳ bà vội vàng chạy lên giúp sức.
Lư Đạo Lân là đại đệ tử của Tào Nhân Phụ, cùng một tông với Tào Cẩm Nhi, trong số các đệ tử đời thứ ba của phái Mang Sơn, võ công của y chỉ kém Tào Cẩm Nhi, Dực Trọng Mâu, được xét đứng hàng thứ ba, vốn là y không muốn thắng nhờ số đông, nhưng giờ đây hai người Chung, Võ đang gặp nguy hiểm, y lại không biết Kim Thế Di chỉ muốn đùa cợt, không có ý lấy mạng hai người Chung, Võ. Y chỉ thấy Kim Thế Di vung cây gậy đâm vào các yếu huyệt của hai người này thì làm sao không kinh hãi, lòng nhủ thầm: “Người này là đệ tử của phái Thiên Sơn, nếu bị thương trong tay Kim Thế Di, phái Mang Sơn biết ăn nói thế nào với người ta? Tiếng xấu của Kim Thê Di đồn khắp giang hồ, nay mình cùng đệ tử phái Thiên Sơn liên thủ đối phó với y, chắc võ lâm đồng đạo cũng chẳng chê cười.”
Kim Thế Di thấy Lư Đạo Lân tay ôm cây thiết tỳ bà nhảy vào vòng chiến thì quát: “ Không liên quan đến chuyện của phái Mang Sơn các người, hãy mau lui ra!” Lư Đạo Lân lớn giọng nói: “Hai người bọn họ lên núi Mang Sơn bái tế tổ sư của chúng tôi, làm sao không liên quan đến ta? Độc Thủ Phong Cái, ngươi ngang ngược bá đạo, ở nơi khác ta có thể mặc kệ, nhưng ở dưới chân núi Mang Sơn thì ta không thể đứng yên mà nhìn được?” Kim Thế Di cả cười: “ Được, ngươi cứ việc xen vào!” thế rồi chàng vung cây gậy điểm thẳng vào ngực của Lư Đạo Lân, Lư Đạo Lân không ngờ chàng ra tay nhanh như thế, thế là trong lúc vội vàng đã sử dụng thân pháp Thiết Bản Kiều, ngửa người ra phía sau, chỉ nghe bình một tiếng, trượng phong quét qua mặt, Kim Thế Di cười: “Hay, trong số các đệ tử của phái Mang Sơn, coi như ngươi cũng khá lắm, nhưng ở chiêu này ngươi không nên dùng thân pháp Thiết Bản Kiều, thân pháp Thiết Bản Kiều tuy có hạ bàn vững chắc, nhưng xoay chuyển không linh hoạt, nếu ta nửa đường biến chiêu, đổi trên làm dưới, chỉ cần quét nhẹ đuôi gậy thì đầu của ngươi họ chẳng phải vỡ nát hay sao?” Kim Thế Di ôn tồn chỉ bảo tựa như đối với kẻ hậu bối nhưng tay thì vẫn không lơi lỏng, khi chàng đang nói chuyện thì hai người Chung, Võ đã mấy lần gặp nguy.
Lư Đạo Lân giận đến nỗi đỏ ửng mặt, tay gãy cây tỳ bà kêu lên ba tiếng, ba mảnh thấu cất đinh chợt bắn ra, trong bụng của cây thiết tỳ bà có giấu ám khí, đó là binh khí độc môn của Tào Nhân Phụ, rất nổi tiếng trên giang hồ Sau khi Tào Cẩm Nhi trở thành chưởng môn nhân, cảm thấy dùng cây thiết tỳ bà có chứa ám khí này không hợp với thân phận lãnh tụ một phái, lại thêm nội công của bà ta dần dần tinh thuần, tự tin không cần dùng đến ám khí nữa cho nên truyền tuyệt kỹ Thiết tỳ bà cho sư đệ, Lư Đạo Lân đã khổ luyện công phu Thiết tỳ bà hơn mười năm, đã hiểu được sự ảo diệu của món binh khí này.
Lúc này, y đứng cách Kim Thế Di khoảng một trượng, nghĩ bụng không có lý nào lại không trúng, ba mảnh thấu cốt đinh bay ra theo hình chữ phẩm, chia nhau bắn vào ba huyệt đạo của Kim Thế Di, Kim Thế Di lại phải dùng cây gậy sắt đối phó với kiếm của hai người Võ, Chung, theo lý thì rất khó né tránh, không ngờ ba mảnh thấu cốt đinh sắp đánh vào người Kim Thế Di, Kim Thế Di chợt phun phì một tiếng, ba mảnh thấu cất đinh tự nhiên rơi xuống, Lư Đạo Lân ngẩn người ra, chợt nhớ lại một môn tuyệt kỹ nổi danh giang hồ của Độc Thủ Phong Cái mà không khỏi toát mồ hôi lạnh! Chỉ nghe Kim Thế Di cười lớn ba tiếng, rồi nói: “Ta khuyên ngươi đừng nên dùng ám khí nữa. Nếu ngươi cứ tiếp tục dùng, ta nổi hửng cũng trả lại bằng ám khí, ngươi sẽ càng khổ hơn, lúc nãy ta chỉ giở trò vặt, đánh rơi ba mảnh thấu cố đinh của ngươi mà thôi, lần tới nếu ngươi ném ám khí ra, phi châm của ta sẽ bắn vào thất khiếu của nguơi “ té ra Kim Thế Di đã phun phi châm ra, đánh rơi ba mảnh thấu cất đinh của Lư Đạo Lân. Lư Đạo Lân nhớ lại trên giang hồ đồn rằng Kim Thế Di có thể phun độc châm, sợ đến nỗi toát mồ hôi, thầm nhủ: “Trước kia mình chỉ nghe họ thổi phồng, nay tận mắt thấy quả nhiên danh đồn không ngoa.” Thử nghĩ xem, phi châm rất nhẹ, nhưng lại có thể đánh rơi thấu cốt đinh, khoan hãy nói loại phi châm này rất nhỏ bé khó đề phòng, chỉ cần có công lực đủ phóng phi châm ra cũng đã đến mức kinh thế hãi tựa Lư Dạo Lân nghe Kim Thế Di dọa như thế quả nhiê n không dám dùng ám khí nữa.
Công phu Thiết tỳ bà của Tào Nhân Phụ, ngoại trừ âm thầm phát ra ám khí, bao gồm tám cách đánh, đó là vỗ, đánh, khóa, bắt, bắn, bạt, đè, đẩy, cũng là một loại vũ khí lợi hại, Lư Đạo Lân múa cây thiết tỳ bà kêu lên vun vút, Thiên Sơn kiếm pháp của Chung Triển và Võ Định Cầu tuy còn bị hạn chế bởi tuổi tác, hỏa hầu hay công lực vẫn chưa đủ nhưng cũng đã tinh diệu phi phàm, cả ba người liên thủ tuy chưa thể ngang bằng với Kim Thế Di nhưng cũng không đến nỗi thất bại thê thảm.
Đang lúc kịch chiến Kim Thế Di chợt buông giọng cười: “Phái Mang Sơn các người quả thật không biết tốt xấu, chưởng môn sư tỷ của các ngươi đã nợ ta một mối ân tình, vẫn còn chưa đáp tạ, nay ngươi lại dùng ám khí đối phó với ta, ta nể mặt Lữ Tứ Nương không tính toán với ngươi, nay càng nghĩ càng tức, ta sẽ tạm thời phạt nhẹ, đánh vào mông ngươi đấy!” thế là chàng vung cây gậy bổ xuống đầu Lư Đạo Lân, Lư Đạo Lân buộc phải khom người né tránh, Kim Thế Di chỉ chờ có thế, chỉ nghe bốp một tiếng, cây gậy đã giáng xuống mông của y, Lư Đạo Lân kêu lên oai oái.
Lâm Sinh thấy sư huynh bị nhục thì cả giận phóng lên, y là đệ tử đắc ý của Lộ Dân Đảm, trong Giang Nam thất hiệp Lộ Dân Đảm phong lưu tiêu sái, tề danh cùng với Bạch Thái Quan, Lâm Sinh rất giống sư phụ của y năm xưa, chỉ thấy y cả giận, vung một cây ngọc tiêu triển khai thủ pháp điểm huyệt thượng thừa, võ công của y xếp hàng thứ tư trong đệ tử đời thứ ba phái Mang Sơn, y vừa nhảy vào vòng chiến thì thực lực tăng lên. Kim Thế Di cười nói: “Hay, đánh cũng khá lắm, còn một người nữa sao không vẫn chưa xông lên?” người đó chính là Khâu Nguyên Giáp, đệ tử của phái Thiếu Lâm. Y thấy mình là khách, vốn chẳng nên nhiều chuyện, nay đệ tử của hai phái Thiên Sơn và Mang Sơn đều không phải là đối thủ của Kim Thế Di, Kim Thế Di lại chỉ đích danh y, dù y có thâm trầm đến mức nào cũng khó chịu đựng nổi, thế rồi mới nói: “ Kim Thế Di, nay ngươi đã cuồng vọng như thế, ta sẽ cho người biết thủ đoạn của đệ tử phái Thiếu Lâm.” Y không dùng binh khí mà phóng người vọt thẳng lên đấm một quyền về phía Kim Thế Di.
Đó chính là: Chống lại quần hào chẳng sợ chi, dưới núi Mang Sơn oai thần lộ.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 13 sẽ rõ.