Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Hai Mươi Lăm
Hai đời tìm sách ở lại đảo
Một đời gục ngã trước giai nhân

Lệ Thắng Nam nói: “Huynh đã biết sơ qua về câu chuyện của Kiều Bắc Minh, năm xưa ông ta bại dưới kiếm của Trương Đan Phong, bị trọng thương, người thời ấy đều tưởng ông ta đã chết, ai ngờ ông ta chạy ra biển mai danh ẩn tích, chỉ có nhà tôi mới biết được bí mật này. Cho nên các đời nhà tôi đều muốn tìm hòn đảo Kiều Bắc Minh đã sống, tìm bí kíp võ công ông ta giấu trên đảo. Hơn hai trăm năm qua, từng tốp người ra biển tìm bí kíp, nhưng chẳng hề có tin tức gì. Sau nhiều lần thì không ai dám đến nữa. Cho đến sáu mươi năm trước, nhà họ Lệ lại có hai huynh đệ thiếu niên kiệt xuất cùng ra biển, tính ra họ là thúc tổ của tôi. Họ đã trôi dạt trên biển mấy năm, cuối cùng họ tìm được hang động Kiều Bắc Minh đã từng sống. Nhưng họ vẫn không biết Kiều Bắc Minh giấu bí kíp ở đâu. Thế là họ quyết định sống lại trên hòn đảo này, sửa sang lại hang động, lúc đó họ chỉ vì đề phòng quái thú tấn công, cũng là vì đề phòng người ngoài kéo đến cho nên đã bít lối ra, nhưng cũng đã mở một địa đạo khác, chui ra ngoài từ thân cây độc nhất vô nhị trên hòn đảo này, đây chính là địa đạo mà chúng ta đang đứng. Nhiều năm trôi qua, họ đã tìm khắp hang động của Kiều Bắc Minh, đi khắp hòn đảo mà chẳng tìm ra bí kíp võ công, trong chớp mắt đã hơn mười năm, hai anh em từ trung niên trở thành người già. Hai anh em nghĩ đó cũng chẳng phải là cách, sau nhiều lần bàn bạc thì quyết định người em ở lại, người anh trở về báo tin để những người trẻ tuổi của Lệ gia lại đến tìm bí kíp. Trên đường quay về nhà, người anh bị sóng lớn dìm thuyền, lại bị hải tặc cướp bóc, trải qua rất nhiều gian nan nguy hiểm. Ông ta lại trôi dạt trên biển gần mười năm nữa mới về đến nhà. Khi ông ta ra đi chỉ là một thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi, đến khi về thì đã trở thành ông lão đầu bạc phơ.
Ông ta nhờ trí nhớ của mình đã vẽ ra một bức bản đồ của hòn đảo, trong bức bản đồ lại ghi rõ những nơi bí mật trong hang động. Lúc đó cha của tôi vừa mới lớn lên, người thông minh hơn người, võ công hơn hẳn các huynh đệ cùng vai vế. Người đã cất giữ tấm bản đồ này, định rằng sau khi học xong kỹ thuật lái thuyền thì sẽ tiếp tục sự nghiệp của tổ tiên, ra hải đảo tìm bí kíp võ công, cha tôi không ngờ rằng chuyện thúc tổ tôi trở về đã bị lộ, có người phát hiện có hai nhân vật bí hiểm dang theo dõi hành động của nhà tôi. Cha tôi không dám công nhiên học thuật lái thuyền, vì thế cũng gác lại chuyện ra biển, gần mười năm nữa lại trôi qua, cha tôi cũng đã lập gia đình”.
Nói đến đây thì Lệ Thắng Nam đột nhiên bật khóc.
Kim Thế Di tuy đã đoán Lệ Thắng Nam có liên quan đến quái nhân này, nhưng vẫn chưa xác định được, chàng cũng phải đề phòng quái nhân, sợ rằng tiếng khóc của Lệ Thắng Nam sẽ kinh động đến y, vạn nhất y từ trong bóng tối bổ ra, chỉ e Lệ Thắng Nam chưa nói rõ thì đã mất mạng, chàng vội vàng an ủi: “Chuyện gì đã qua thì cứ để nó đi qua, có chuyện gì đau lòng, hãy từ từ nói cho tôi biết”.
Lệ Thắng Nam lau nước mắt, dựa vào người Kim Thế Di, tiếp tục nói: “Không ngờ năm tôi ra đời, gia đình gặp phải thảm họa, cả nhà từ lớn đến nhỏ đều bị Mạnh Thần Thông giết sạch, chỉ có mẹ tôi là chạy thoát được, người hy vọng tôi có thể trả thù, từ lúc tôi biết chữ người đã dạy tôi xem bức tranh, ngày xem đêm xem, cho đến khi tôi nhớ kỹ, nhắm mắt cũng có thể tả lại được thì người đã đốt bức tranh ấy. Người nói: 'Giờ đây trên đời chỉ có một mình con biết bí mật của hòn đảo, bức địa đồ đã bị đốt, chỉ cần con im lặng không nói, từ giờ về sau chẳng còn ai biết, con hãy đến hòn đảo tìm thúc tổ của con, nếu ông ta đã chết thì phải chui vào địa đạo, sống trong hang động ấy, phải tìm cho được bí kíp võ công để trả mối huyết hải thâm thù! ' nói xong những lời ấy, không lâu sau thì mẹ tôi cũng chết, lúc ấy tôi vừa tròn mười chín tuổi. Tôi vốn muốn gia nhập vào một bang hải tặc, học thuật đi biển, nhưng tôi là thân nữ nhi, lại không tiện làm như thế, chỉ đành phiêu bạt trên giang hồ gần ba năm, may mà gặp được huynh, hôm nay mới tới được nơi này. Thôi được, giờ tôi đã nói rõ hết, huynh có gì nghi ngờ nữa không?”
Kim Thế Di thầm nhủ: “Chả trách nào mà nàng chưa từng tới hòn đảo nhưng đã thông thuộc địa hình ở đây như thế”. Thấy nàng tin cậy mình như thế thì Kim Thế Di không khỏi cảm động, nói: “Dù phía trước có hiểm trở gì đi nữa. Thắng Nam, tôi nhất định đi theo cô”. Lệ Thắng Nam nắm chắc tay chàng, khẽ nói: “Thế Di ca, huynh thật tốt đối với tôi!”
Kim Thế Di chợt chột dạ, hỏi: “Theo cô nói, nếu thúc tổ của cô còn sống...”. Lệ Thắng Nam nói: “Thì ông ta đã hơn chín mươi tuổi”. Kim Thế Di nói: “Nhưng quái nhân kia xem ra không quá năm mươi tuổi...”.
Lệ Thắng Nam nói: “Đúng thế, cho nên tôi không dám nhận ông ta”. Quái nhân ấy không phải là thúc tổ của Lệ Thắng Nam thì là ai? Sao y biết được nơi bí mật này?
Bởi vậy Kim Thế Di tuy đã không còn nghi ngờ Lệ Thắng Nam nữa nhưng thấy sự việc càng bí hiểm hơn!
Đi một hồi thì ở phía trước có một cánh cửa đá, Lệ Thắng Nam nói: “Lát nữa vào bên trong, có lẽ chúng ta sẽ hiểu được tất cả”. Lệ Thắng Nam đang sờ vào cơ quan trên cửa, chợt nghe tiếng kèn kẹt vang lên, cánh cửa đá đã tự mở ra. Lệ Thắng Nam chợt thất kinh, trong bóng tối chợt vang lên một tiếng vù, một sợi roi dài đột nhiên cuốn về phía nàng!
Kim Thế Di vội vàng nhảy bổ lên, một tay chụp lấy ngọn roi, không ngờ lực đạo của đối phương lại mạnh mẽ đến thế, vả lại y đột nhiên đứng trong bóng tối đánh cây roi ra khiến chàng bất ngờ, tuy chàng đã chụp được đầu roi nhưng bị roi của y cuộn vào người té giật vào bên trong phòng.
Ngay lúc này, chỉ nghe sầm một tiếng, cánh cửa đá bị đóng lại, Lệ Thắng Nam bị nhốt ở ngoài.
Kim Thế Di bị người ấy cuốn vào bên trong, tuy chàng có cảm giác lực đạo của kẻ này mạnh mẽ lạ thường, nhưng không hề có cảm giác chấn động, chàng lập tức biết đó không phải là quái nhân lúc trước, công lực tuy mạnh nhưng chưa chắc hơn mình, thế rồi chàng mới dùng Thiên cân trụy gượng lại, chàng tháo sợi dây rồi quát hỏi: “Ngươi là ai?”
Chỉ nghe trong bóng tối có giọng cười lạnh: “Ta ở đây, chẳng lẽ ngươi mù sao?” giọng nói ấy tựa như của một bà già, điều kỳ lạ hơn là giọng nói của bà ta mang khẩu âm Thiểm Tây nhưng rõ ràng rất cứng, khác với quái nhân lúc trước, nghe ra rất chối tai.
Kim Thế Di định thần lại, chàng vào địa đạo đã lâu, mắt đã dần dần quen với bóng tối, trong căn thạch thất cũng có chút ánh sáng, chàng nhìn kỹ lại thì thấy căn thạch thất này sâu đến mấy trượng, bà già ấy ngồi ở một góc, lưng dựa vào vách tường, tóc phủ quá vai, mũi cao, đôi mắt xanh lè, không biết thuộc chủng tộc nào nhưng có thể đoán rằng bà ta chắc chắn không phải là người Hán!
Sự việc càng lúc càng kỳ lạ, Kim Thế Di không ngờ rằng ngoài quái nhân lại có một quái nhân khác, bà già ấy chợt nạt lớn rồi giật sợi roi, công lực của hai ngườitương đương nhau, Kim Thế Di nắm không chắc bị bà ta giật ra được, thế là ngọn roi tiếp tục quét về phía chàng!
Kim Thế Di rút phắt thanh trường kiếm, kêu lên: “Lão tiền bối, chúng tôi đến đây không có ác ý!” bà già nào chịu nghe chàng nói, thế là đánh hết roi này tới roi khác, Kim Thế Di chỉ đành vung kiếm chống trả, một hồi sau, bà già ấy vẫn ngồi ở dưới đất ra đòn, Kim Thế Di rất ngạc nhiên: “Tại sao bà ta không thể đứng dậy?”
Phép đánh roi của bà già tuy hiểm hóc nhưng vì ngồi ở dưới đất, cho nên chỉ có thể uy hiếp phần hạ bàn của Kim Thế Di do đó cũng không khó phòng thủ. Kim Thế Di chợt nảy ra một ý, chàng dùng thân pháp cực kỳ nhanh xoay mấy vòng rồi đột nhiên ngừng lại, nín thở, bà già ấy hình như cảm thấy kẻ địch đột nhiên biến mất, cũng đánh tới mấy roi nhưng chẳng trúng được Kim Thế Di, Kim Thế Di thầm nhủ:
“Té ra bà ta mù mắt, chả trách nào lúc nãy bà ta hỏi mình có mù hay không!”
Lệ Thắng Nam chưa vào, cũng không nghe tiếng của nàng, Kim Thế Di thầm nhủ nếu không phải cánh cửa đá có cơ quan khác thì Lệ Thắng Nam đã gặp nguy hiểm bên ngoài, chàng bất đồ lo lắng, ngay lúc này bà già lại đánh tới một roi, té ra thính giác của người mù đặc biệt linh mẫn, lúc này bà ta đã nghe tiếng thở của Kim Thế Di. Kim Thế Di kêu lên: “Tôi không có ác ý, cần gì bà cứ phải ép buộc tôi thế?” Bà già lạnh lùng nói: “Vậy ngươi đến đây làm gì?” Kim Thế Di nói: “Đến thăm một bằng hữu”. Bà già hừ một tiếng rồi nói: “Ngươi có biết ta là ai không?” Kim Thế Di nói: “Đang muốn thỉnh giáo”. Bà già cười lạnh: “Cả ta mà ngươi cũng chẳng biết, còn dám đến đây? Đâu có phải ngươi đến thăm bằng hữu gì, ta thấy ngươi đến đây chỉ vì bí kíp của Kiều Bắc Minh!” Kim Thế Di nói: “Đúng thế, nhưng người muốn bí kíp không phải là ta, ta chỉ đi cùng chính chủ đến đây”. Chàng đang định nói tên của Lệ Thắng Nam để coi thử bà già này có quan hệ gì với nhà họ Lệ hay không, nào ngờ chưa nói xong thì bà ta đã nổi cơn thịnh nộ, quát lớn: “Ta đã biết ngươi chẳng phải thứ tốt lành gì, ngươi vào nơi này thì đừng hòng sống sót mà ra!” thế là vung roi đánh tới như mưa.
Kim Thế Di thầm nhủ: “Trong nhất thời không thể nào nói rõ được chuyện này.
Chỉ đành chế phục bà ta rồi hẵng tính tiếp”. Võ công của bà già này rất cao cường, thế nhưng ngặt ở chỗ mắt bị mù, nửa thân dưới tê liệt không thể đi đứng, Kim Thế Di dùng thân pháp nhanh chóng tuyệt luân chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc khiến bà ta chẳng thể nào biết được phương hướng tấn công, không lâu sau thì chàng đã đến gần bà già không đầy một trượng.
Bà già đột nhiên hú dài một tiếng, tiếp theo là nghe tiếng gầm của con kim mao thoa, Kim Thế Di thất kinh, bà già ấy công thêm với con kim mao thoa thì không dễ ứng phó tí nào, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, trong chớp mắt con kim mao thoa đã nhảy bổ vào, Kim Thế Di lia kiếm định nghênh địch, nhưng thật kỳ lạ con kim mao thoa đột nhiên nằm rạp xuống, không còn gầm rú nữa. Té ra nó đã nhận ra Kim Thế Di, hôm ấy Kim Thế Di vốn có thể giết nó nhưng chàng đã ngừng tay, con kim mao thoa rất có linh tính, hiểu rằng Kim Thế Di không muốn hại nó.
Bà già quát: “Súc sinh, mau cắn y”. Con kim mao thoa kêu lên hai tiếng, không những chẳng cắn Kim Thế Di mà trái lại còn cúp đuôi bỏ đi, Kim Thế Di cười nói: “Bà thấy không, loài hung dữ như kim mao thoa mà cũng muốn làm bạn với tôi, sao bà không cho tôi nói cho rõ ràng?” bà già nghe giọng nói của chàng thì lập tức quét tới một roi, Kim Thế Di phóng vọt người lên, bà già ấy đang ngồi ở dưới đất, cây roi ấy không thể nào đánh lên không trung, khinh công của Kim Thế Di đã gần đến mức lư hỏa thuần thanh, chàng vọt lên mà nhẹ nhàng không hề phát ra tiếng, bà già ấy mất phương hướng đánh bừa roi ra, Kim Thế Di xoay người trên không trung rồi lao bổ xuống phất vào mạch môn của bà già, đoạt cây roi dài của bà ta, đang định điểm huyệt thì chàng chợt thấy có một luồng lực đạo cực kỳ cưỡng mãnh dồn tới, Kim Thế Di thấy khắp người lạnh lẽo, chàng vội vàng lộn ngược lại.
Chỉ nghe quái nhân lên tiếng hỏi: “Mẹ, mẹ có sao không?” bà già nói: “Suýt nữa đã bị y đánh chết. Tên tiểu tử này bắt nạt ta, con hãy giết hắn cho mẹ”. Nói đến chữ “giết” thì giọng nói của bà ta nghe lạnh lẽo đến nỗi khiến cho người ta nổi gai óc.
Quái nhân ấy gầm một tiếng rồi múa món binh khí màu vàng, đồng thời nhảy bổ theo Kim Thế Di đánh xuống một chiêu Thái sơn áp đỉnh!
Kim Thế Di thất kinh, gã này cũng biết sử dụng độc cước đồng nhân, té ra độc cước đồng nhân rất khó sử dụng, trọng lượng thì nặng nề, có thể đánh như đồng côn, cũng có thể đánh như thuẫn bài, cao thủ thật sự biết sử dụng đồng nhân cũng có thể dùng đồng nhân để điểm huyệt. Khuyết điểm của loại binh khí nặng là không linh hoạt, bởi vậy người sử dụng đồng nhân điểm huyệt phải có nội công thâm hậu. Lần đầu tiên ra giang hồ, Kim Thế Di mới gặp người sử dụng loại binh khí kì quái này.
Cái đồng nhân rất nặng nề, lại thêm quái nhân quái nhân có thần lực kinh người cho nên càng khó chống đỡ. Kim Thế Di dùng kiếm pháp thượng thừa linh hoạt trong chớp mắt đã liên tục đánh ra mười mấy kiếm, chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau chấn động lỗ tai, nhưng chàng cảm thấy nội lực của đối phương dồn ra liên miên không ngớt, cánh tay của Kim Thế Di có cảm giác tê rần. Kim Thế Di dùng kiếm pháp linh hoạt vốn là chàng đoán được công lực của đối phương thâm hậu hơn mình, bởi vậy mới cố gắng né tránh không chạm nhau với y, nào ngờ kiếm chiêu của chàng tuy như chuồn chuồn giỡn nước, vừa quét tới đã lướt qua, thế nhưng vẫn bị chấn động!
Kim Thế Di kêu lên: “Xin cho ta nói rõ rồi hãy động thủ!” quái nhân ấy quát:
“Ngươi lén vào địa đạo, nói gì ta cũng không tha cho ngươi!” y miệng thì nói nhưng tay thì không ngừng, thế là y đẩy đồng nhân tới, khởi động cơ quan, mười ngón tay của đồng nhân đột nhiên hoạt động, đồng thời điểm vào mười huyệt đạo của Kim Thế Di, Kim Thế Di bị y buộc thối lui, nào có thể phân tâm nói chuyện? Kim Thế Di dốc hết bản lĩnh, liều chết chống trả, thầm nhủ: “Té ra bà già dị tộc này là mẹ của y, vậy càng có thể đoán rằng y không phải là thúc tổ của Lệ Thắng Nam. Không biết hai mẹ con họ sao lại ở trên hải đảo này?” nhưng điều kỳ lạ là công lực của người con lại cao hơn mẹ nhiều, nếu là võ công gia truyền thì không phải như thế.
Với bản lĩnh của Kim Thế Di, nếu quái nhân ấy đánh bằng tay không, chàng dùng kiếm chống trả thì có lẽ sẽ được hơn trăm chiêu, giờ đây y dùng cái độc cước đồng nhân, không quá hai mươi chiêu đã thấy khó ứng phó.
Chợt chuyện lạ xảy ra, chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa đá lại bật ra, có tiếng nàng thiếu nữ kêu lên lanh lảnh: “Thúc thúc, ngừng tay!” người đó chính là Lệ Thắng Nam. Tiếng kêu ấy khiến cả Kim Thế Di và quái nhân đều khựng người lại, trong phòng im ắng lạ thường, một lúc sau, bà già lúc nãy lạnh lùng hỏi gằn từng tiếng:
“Ngươi gọi ai là thúc tổ? ”, Lệ Thắng Nam không trả lời, nàng chỉ run rẩy hỏi: “Hai người là người thế nào với Lệ Trọng Tử?” quái nhân kia kêu lớn: “Sao ngươi biết tên cha ta?” Lệ Thắng Nam khóc òa lên: “Thúc thúc, thúc tổ mẫu, có phải hai người đó không?” rồi nàng nghẹn ngào lấy ra tấm kim bài trên cổ, quái nhân nhảy phắt tới giật lấy, tay run lên bần bật, miệng lẩm bẩm: “Đúng thế... đúng thế... cuối cùng chúng ta đã gặp lại!” rồi y đưa tấm kim bài cho bà già, bà gia cũng run rẩy cầm tấm kim bài mân mê hồi lâu, miệng không ngừng lẩm bẩm: “Cuối cùng cũng có ngày này!”
Kim Thế Di chỉ đứng ngẩn người ra trước cảnh đoàn viên có một không hai này.
Té ra mấy mươi năm trước người anh là Lệ Bá Tử vược biển về đất liền, người em Lệ Trọng Tử ở lại canh giữ hòn đảo. Trong một đêm mưa gió, một chiếc thương thuyền bị đánh dạt vào đảo, người trên thuyền chẳng ai sống sót, chỉ duy nhất có một cô gái ngoại tộc bị mù còn thoi thóp, ban đầu Lệ Trọng Tử định giết chết nàng, nhưngsau chợt nghĩ lại mình ở trên đảo trơ trọi một mình, chẳng biết ngày nào trở về đất liền, chi bằng cứ để nàng sống cho có bạn. Ngày tháng thoi đưa, hai người thương yêu nhau kết thành vợ chồng, sinh được một đứa bé, đặt tên là Lệ Phán Quy. Cả gia đình ba người sống quay quần bên nhau rất hạnh phúc, ngày đều luyện tập võ công, chẳng phải lo nghĩ gì nên ai nay võ công cao cường. Nhưng dẫu sao con người chẳng thể chống nổi quy luật tự nhiên, 10 năm trước Lệ Trọng Tử đã qua đời, trước khi chết đã kể lại mọi chuyện của giòng họ Lệ, dặn dò hai mẹ con ráng chờ con cháu họ Lệ tới cùng tiếp tục tìm bí kiếp, nếu tìm ra thì đưa hài cốt mình trở về. Tấm Kim bài lúc nãy là chỉ rất bình thường nhưng là vật báu gia truyền của nhà họ Lệ, Lệ Trọng Tử cũng đúc một tấm y như thế nên Lệ Phán Quy và bà già vừa chạm vào đã nhận ra tấm kim bài này y hệt chồng và cha mình.
Kim Thế Di thấy Lệ Thắng Nam nhận họ hàng bà con thì cũng thấy mừng cho nàng.
Kim Thế Di điều tức xong, thấy chú cháu họ nhận nhau thì bước tới, đang định ra mắt Lệ Phán Quy, Lệ Phán Quy đã trợn mắt nói: “Y có phải là người nhà họ Lệ không?” Lệ Thắng Nam nói: “Không phải, y... y...”. nói chưa xong thì Lệ Phán Quy đã quát: “Tại sao ngươi dắt người ngoài tới đây?” rồi y gầm lớn vung bàn tay to bè chụp về phía Kim Thế Di.
Lệ Thắng Nam vội vàng bước qua cản lại, nhưng thủ pháp của Lệ Phán Quy quá nhanh nhạy, tuy bị nàng cản lại nhưng y vẫn vòng tay qua xé toạc tá áo của Lệ Thắng Nam, nếu không Kim Thế Di đã bị y bóp nát xương!
Lệ Thắng Nam kêu lên: “Thúc thúc, y là bằng hữu tốt nhất của con!” Lệ Phán Quy giận dữ nói: “Bằng hữu tốt nhất cũng không được, ngươi đã quên di lệnh của tổ sư rồi sao? Không được để cho người ngoài nhòm ngó bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, hòn đảo này cũng không để cho người khác họ bước vào. Y chẳng liên quan gì đến nhà họ Lệ, ta cũng Kim Thế Di để cho y sống mà trở ra!
Lệ Thắng Nam kinh hoảng, buột miệng nói: “Thúc thúc, y là cháu rể của người!”
Lệ Phán Quy ngẩn người ra, lẩm bẩm: “Sao ngươi không nói sớm? Suýt tý nữa ta đã hại y”. Lệ Thắng Nam đỏ ửng mặt, nhoẻn miệng cười: “Con đã chẳng phải nói y là bằng hữu tốt nhất của con rồi đấy sao? Sao người lại không hiểu ý?” Lệ Phán Quy nghĩ lại, mình suốt đời chưa chắc lấy được vợ, còn bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh thì không biết khi nào mới lấy được, chi bằng giữ vợ chồng chúng lại, cháu gái của mình sẽ sinh con, tốt xấu gì cũng là con cháu nhà họ Lệ, nó vẫn có thể tiếp tục tìm bí kíp võ công, thế rồi mới cười rằng: “Nếu nói như thế, y không phải là người ngoài. Cháu rể ngoan, lúc nãy ta đã làm ngươi hoảng!”
Kim Thế Di ngượng ngùng lắm, chàng thừa nhận thì không được, không thừa nhận cũng chẳng được, nhưng tính ra nếu không thừa nhận thì lập tức sẽ bị quái nhân giết chết, cho nên chỉ đành im lặng.
Lệ Phán Quy cười ha hả: “Các ngươi kết hôn được bao lâu?” Lệ Thắng Nam nói: “Một năm lẻ mười ba ngày”. Kim Thế Di tính lại, từ lúc mình và Lệ Thắng Nam quen nhau đến nay đúng là một năm mười ba ngày, thầm nhủ: “Nàng nhớ rõ như thế, mà mình cứ tưởng là nàng nói bừa, té ra nàng xem ngày quen biết nhau là ngày kết hôn”.
Thực ra Kim Thế Di cũng nhớ rõ ngày đó, nếu không chàng cũng chẳng tính được. Lệ Phán Quy cười rằng: “Một năm lẻ mười ba ngày, thời gian cũng không ngắn, sao còn e thẹn như thế?” Kim Thế Di chỉ đành đánh liều gọi y một tiếng thúc thúc”. Thế rồi cùng Lệ Thắng Nam hành lễ với bà già, bà già cười toe tóet, chẳng còn địch ý với Kim Thế Di nữa.
Kim Thế Di hỏi: “Thúc tổ bà, có phải bà đã luyện công sai lầm cho nên tẩu hỏa nhập ma không?” bà già hỏi: “Đúng thế, sao ngươi biết?” Kim Thế Di nói: “Trước kia con cũng suýt tẩu hỏa nhập ma, may mà được cao nhân giải cứu, lại truyền cho tâm pháp nội công chính tông, bởi vậy mới thoát hiểm. Con thấy bà vì tẩu hỏa nhập ma mà bị liệt, nhưng không nghiêm trọng lắm, bà hãy thử dùng công phu thổ nạp của con”. Lệ Trọng Tử chưa tìm được bí kíp võ công, không hiểu phương pháp vận công chính tà hợp nhất, bởi vậy con trai của y là Lệ Phán Quy chỉ có thể luyện Tu la âm sát công đến tầng thứ bảy, còn vợ của y thì căn cơ kém hơn, vừa mới bắt đầu tu luyện nội công thì đã tẩu hỏa nhập ma.
Mẹ con Lệ Phán Quy được Kim Thế Di truyền cho tâm pháp nội công chính tông thì càng vui mừng, lúc này Lệ Phán Quy cũng nghĩ với sức của một mình mình thì chưa chắc báo được thù, thế rồi mới nói: “Khi nào mẹ khỏe thì sẽ dễ dàng bắt được mấy tên ác tặc, vài ngày nữa, con chữa lành cho hai con kim mao thoa, bọn chúng sẽ nếm khổ”.
Bà già cười: “Bọn trẻ đã kinh hoảng, con cũng nên để cho chúng nghỉ ngơi sớm”.
Lệ Phán Quy đánh đá lửa đốt lên một ngọn đèn cầy lớn rồi nói: “Thắng Nam, nhà họ Lệ chỉ còn ta và ngươi, lão gia đã không còn, từ rày về sau ở đây chính là nhà của ngươi. Ta dắt các ngươi đi xem căn nhà này”. Cây sáp này được làm bằng mỡ trâu rừng, đốt lên rất sáng, Kim Thế Di và Lệ Thắng Nam đi sau y, chỉ thấy địa đạo ngang dọc, khắp nơi đều có đặt cơ quan, đó đều là do Kiều Bắc Minh thiết kế, sau đó được anh em Lệ Bá Tử, Lệ Trọng Tử sửa sang thêm, lúc này Kim Thế Di mới hiểu, nếu không nhờ Lệ Thắng Nam dẫn đi, đừng nói là không tìm ra hang động này, dù có vào nhầm cũng không thể nào ra được.
Bên trong hang động rất rộng, có nhiều căn thạch thất, đã được hai đời cha con nhà họ Lệ sửa sang trong mấy mươi năm, các đồ dùng thường ngày đều đầy đủ, hoặc được làm bằng đá hoặc làm bằng gốm tự nung. Lệ Phán Quy dắt họ đến căn tịnh thất mà năm xưa Kiều Bắc Minh luyện công, y dọn dẹp một hồi rồi phủ tấm da thú lên giường, trong bình hoa còn cắm cả hoa dại, y lại đốt vài ngọn đèn cầy trông giống như tân phòng, Lệ Phán Quy lấy ra một bầu rượu trái cây tự ủ và thức ăn, cười nói: “Các ngươi lần đầu tiên về nhà, đều là người mới. Theo lý phải chúc mừng một phen”. Kim Thế Di chỉ đành nâng ly uống cạn cùng y. Lệ Phán Quy đã có mấy phần tửu ý, cười rằng: “Ta không quấy rầy hai ngươi nữa, các ngươi hãy ngủ cho khỏe, mong các ngươi sớm ngày sinh quý tử!” y đúng là một người ở chốn núi rừng, tính tình rất ngay thẳng, nghĩ gì là nói đó, khiến cho cả hai người Kim, Lệ đều e thẹn đến đỏ mặt. Lệ Phán Quy ra khỏi thạch thất thì thuận tay đóng cửa lại, Lệ Thắng Nam đỏ ửng hai má, khẽ nói: “Thế Di ca, huynh có trách tôi không?” Kim Thế Di cười khổ sở:
“Tôi không biết nhà họ Lệ lại có lệ cấm như thế, nếu biết thì tôi đã không đến hòn đảo này”. Lệ Thắng Nam vốn nhìn Kim Thế Di với ánh mắt âu yếm, nghe chàng nói như thế thì sắc mặt trắng bệt, đôi dòng lệ tuôn rơi, khẽ nói với giọng đầy oán trách: “Tôi biết tôi không xứng với huynh, huynh... huynh... chắc là đang mắng tôi không biết xấu hổ”.
Kim Thế Di thấy nàng khổ sở đáng thương, suýt nữa đã ôm lấy nàng, chàng vội vàng định thần, nghiêm mặt nói: “Thắng Nam, không thể nói như thế, trước khi gặp cô nương, tôi đã có người khác. Cô nương xinh đẹp như hoa, thông minh tuyệt đỉnh, sau này chắc chắn sẽ có người tốt hơn tôi gấp trăm lần, cô cần gì phái để ý đến tôi?”
Lệ Thắng Nam đảo mắt nói: “Tôi cũng biết trong lòng huynh đã có người khác.
Nhưng tôi cũng chỉ bất đắc dĩ mới nói với thúc thúc như thế, giờ phải làm thế nào?”
Kim Thế Di nói: “Tôi cảm kích ý tốt của cô nương, nếu cô nương không chê tôi...”.
Lệ Thắng Nam nhướng mắt hỏi: “Thì thế nào?” Kim Thế Di nói: “Tôi lớn hơn cô nương vài tuổi, nếu không chê tôi thì chúng ta gọi nhau là huynh muội, cô thấy có được không?” Lệ Thắng Nam nói: “Trước mặt thúc thúc cũng xưng hô như thế sao?”
Kim Thế Di nói: “Trước khi chúng ta rời khỏi hòn đảo này, tạm thời hãy làm một cặp vợ chồng giả, nhưng bên trong vẫn là huynh muội. Thắng Nam, tôi cũng biết như thế là thiệt thòi cho cô nương, nhưng giờ chỉ còn cách đó, mong cô nương thứ lỗi”. Lệ Thắng Nam cố kìm nước mắt, nàng cúi xuống kêu một tiếng: “Ca ca”. Lúc này Kim Thế Di mới dám đỡ nàng dậy, lại gọi một tiếng: “Muội muội!” Lệ Thắng Nam nói: “Ca ca, huynh đối với muội tốt như thế, từ rày về sau muội sẽ làm hảo muội muội của huynh, muội không thèm để ý đến bất cứ nam tử nào”.
Đây có phải là một câu trả lời hay không? Có phải nàng thật sự cam lòng làm huynh muội hay không? Kim Thế Di không ngốc, chàng đương nhiên biết được ý nàng nói.
Lệ Phán Quy lại hỏi về bọn Mạnh Thần Thông và Diệt Pháp hòa thượng, Lệ Thắng Nam khóc rằng: “Không những chẳng phải là bạn, lão già ấy còn là kẻ thù của nhà họ Lệ chúng ta. Mấy mươi mạng người nhà họ Lệ đều bị y giết sạch, chỉ có một mình con may mắn còn sống!” Lệ Phán Quy cả giận nói: “Vậy tại sao ngươi đến cùng y?” Lệ Thắng Nam kể chuyện đã gặp nguy ở Xà đảo, bị bọn chúng khống chế, chỉ đành cùng bọn chúng đến đây, Lệ Phán Quy nghiến răng nói: “Tên ác tặc này thật đáng ghét, suýt nữa đã hại ta suốt đời không thấy người thân, được, ngay mai ta sẽ đi giết y!”
Kim Thế Di nói: “Mạnh lão tặc bị vây trên hòn đảo này, mọc cánh cũng khó thoát, chừng nào thúc tổ bà khỏe hẳn rồi trả thù cũng không muộn”. Lệ Thắng Nam lập tức hiểu ngay được ý chàng. Mạnh Thần Thông là kẻ thù của nhà họ Lệ, lẽ ra phải do người họ Lệ đích thân trả thù mới hợp lý, trước đây sở dĩ Kim Thế Di hứa giúp Lệ Thắng Nam trả thù một là vì nhận ơn của nàng, hai là vì lúc đó nàng chỉ có một mình nên nảy lòng thương cảm. Giờ đây cả nhà gặp nhau, trả thù cũng chẳng phải chuyện khó nữa, Kim Thế Di không muốn nhúng tay vào để quan hệ của mình với nhà họ Lệ ngày càng sâu. Nhưng võ công của Mạnh Thần Thông chỉ kém Lệ Phán Quy một chút, lại thêm Diệt Pháp hòa thượng, nếu lấy hai địch một thì Lệ Phán Quy chưa chắc giành phần thắng. Võ công Lệ Thắng Nam kém quá xa bọn chúng, chẳng giúp được gì, cho nên chỉ chờ đến khi mẹ của Lệ Phán Quy có thể đi lại thì mới nắm chắc phần thắng.
Lệ Thắng Nam nhận ra dụng tâm của Kim Thế Di thì lập tức phụ họa theo chàng: “Cũng được, cứ để y sống thêm vài ngày”.
Đêm hôm ấy Kim Thế Di rối bời lòng dạ, chàng cứ nằm mơ màng cho đến khi Lệ Thắng Nam gọi dậy mới thấy ánh nắng đã len vào kẽ đá, Lệ Thắng Nam cười nói:
“Huynh ngủ say quá, trời đã sáng, muội vốn để cho huynh ngủ thêm, nhưng hôm nay là lần đầu tiên chúng ta 'về nhà', cũng nên dậy sớm vấn an thúc tổ bà”. Kim Thế Di thầm nhủ: “Cô nương đâu có biết đêm qua tôi chẳng ngủ!”
Lệ Thắng Nam hơi ái ngại, nàng mỉm cười: “Chúng ta gọi nhau là huynh muội, nhưng trước mặt thúc thúc huynh phải thân mật với muội, phải giả giống như vợ chồng để người khỏi nghi ngờ”.
Hai người bước ra khỏi thạch thất nhưng không thấy Lệ Phán Quy, họ đi hỏi bà già thì mới biết mới sáng sớm Lệ Phán Quy đã dắt con kim mao thoa đực ra ngoài, con kim mao thoa cái thì vẫn chưa khỏe.
Đến trưa thì Lệ Phán Quy mới dắt kim mao thoa trở về, vừa gặp mặt đã nói:
“Mạnh lão tặc và hai người kia không biết đã trốn đi đâu rồi? Chẳng phải hôm qua các người đã bảo chúng hạ lều bên hồ nhỏ trong rừng sao? Ta chạy đến xem mà chẳng thấy, cả giấu chân cũng không còn”.
Té ra Mạnh Thần Thông rất cảnh giác, sau khi y thấy Lệ Thắng Nam và Kim Thế Di bỏ chạy thì lập tức liên tưởng đến thái độ kỳ quặc của quái nhân đối với Lệ Thắng Nam, tuy y nằm mơ cũng không ngờ rằng Lệ Thắng Nam là cháu gái của quái nhân, nhưng trong lòng cũng thầm nghi, nhủ rằng: “Chả lẽ Kim Thế Di, Lệ Thắng Nam liên thủ với quái nhân đối phó với mình?” y nghĩ đến đây thì bất giác không lạnh mà run, ba mươi sáu kế chạy là thượng thế là ngay trong đêm tối cùng Diệt Pháp hòa thượng và Côn Luân tản nhân len lén bỏ chạy.
Bọn chúng cởi giày, bọc bàn chân bằng vải dày rồi chọn những chỗ nhiều cỏ mà thi triển khinh công cho nên chẳng để lại giấu chân.
Lệ Thắng Nam nghe Lệ Phán Quy nói như thế thì lạnh mình, nói: “Lão ma đầu này xảo quyệt vô cùng, từ rày về sau y sẽ càng cẩn thận đề phòng chúng ta hơn. Hòn đảo này rộng đến cả trăm dặm vuông, nếu y muốn trốn chúng ta thì tìm cũng không dễ”. Lệ Thắng Nam cười nói: “Dù y có bản lĩnh lên trời cũng không thoát khỏi hòn đảo này. Trước tiên chúng ta lấy bí kíp võ công rồi từ từ thâu phục bọn chúng”. Lệ Thắng Nam nghĩ trừ phi Mạnh Thần Thông len lén chèo thuyền đi, hai người kia không giỏi thủy tính, vả lại con thuyền cũng đã bị Diệt Pháp hòa thượng phá hỏng, đừng nói là bọn chúng không biết sửa, dù có sửa được ít nhất cũng phải đến nửa tháng, nếu bọn chúng dám ra sửa thuyền thì chắc chắn không thể giấu được tung tích.
Thế rồi nàng yên tâm, nói: “Đúng, trước tiên phải tìm bí kíp võ công, đừng để Mạnh Thần Thông nẫng tay trên!”
Lệ Phán Quy nhíu mày: “Cha con ta đã phí mấy mươi năm mà vẫn chẳng phát hiện tung tích gì. Các người vừa mới đến mà muốn lấy bí kíp võ công?” Lệ Thắng Nam nói: “Thế Di, lấy bức tranh ra đây”. Lệ Phán Quy nói: “Bức tranh gì?” Lệ Thắng Nam nói: “Là bức tranh do chính tay Kiều Bắc Minh vẽ, nghe nói từ bức tranh này có thể phá giải được bí mật của ông ta. Nhưng chúng con đều không hiểu, thúc thúc, người sống ở hòn đảo này mấy mươi năm, chắc là hiểu rõ từng cành cây ngọn cỏ, có lẽ sẽ hiểu được bức tranh này”.
Kim Thế Di mở bức tranh ra, Lệ Phán Quy mới nhìn thì lộ vẻ thất vọng, y lắc đầu nói: “Ta chẳng hiểu gì cả!” nhưng không lâu sau thì lại cầm bức tranh cúi đầu ngẫm nghĩ. Lệ Thắng Nam nói: “Có phải người hiểu được gì không?” Lệ Phán Quy nói: “Người khổng lồ này hơi kỳ lạ, không biết ta nghĩ có đúng không, ta sẽ dẫn các ngươi đi xem một chỗ này”. Lệ Phán Quy dắt họ ra khỏi địa đạo, trèo lên hòn núi lửa, càng lên phía trên thì cây cối càng ít, đi được hai canh giờ thì Lệ Phán Quy dừng lại ở miệng núi phía tây, y nhìn đỉnh núi trọc lóc, nói: “Các người thấy giống cái gì!” Kim Thế Di đang suy nghĩ, Lệ Thắng Nam đã kêu lên: “Giống một người!”
Kim Thế Di giật mình kêu lên: “Chả lẽ người khổng lồ trong bức tranh chỉ đỉnh núi này?” Lệ Phán Quy nói: “Cho nên ta mới dắt các ngươi đến đây xem. Có điều ta đã leo lên đỉnh núi này vài lần nhưng chẳng thấy có hang động gì, cả đỉnh núi tựa như một bức tượng đá. Chả lẽ Kiều Bắc Minh giấu bí kíp võ công trong lòng núi? Nhưng ta vẫn không hiểu, hai tay của người khổng lồ trong bức tranh kéo cây cung, hai chỗ nhô ra trên đỉnh núi cũng giống đôi tay, vậy cây cung lớn kia ở đâu? Cũng chẳng có chỗ nào giống cung tên”.
Lệ Phán Quy mở bức tranh ra xem, cả ba người chụm đầu vào. Lúc này Lệ Phán Quy mới nghe Kim Thế Di kể lại đường đi của bức tranh, y trầm ngâm nói: “Nếu bức tranh này do Kiều Bắc Minh đích thân vẽ, trước khi chết lại nhờ người hải khách đưa cho người có duyên, trong tranh chắc có thâm ý, giờ đây chúng ta đã phát hiện ngọn núi này, ở đây chắc có điều bí ẩn gì đó”. Lệ Thắng Nam xem tỉ mỉ một hồi rồi nói:
“Thúc thúc bảo trên đỉnh núi không có hang động phải không? Nhưng người khổng lồ trong bức tranh lại đang há miệng”. Lệ Phán Quy nói: “Trên núi chỉ có hai tảng đá lớn chồng lên nhau, ở giữa chỉ có một cái hốc nhỏ chứ chẳng phải hang động”. Lệ Thắng Nam nói: “Tốt xấu gì cũng phải xem”.
Đỉnh núi này trọc lóc chẳng có cỏ mọc nên rất khó đặt chân, may mà Lệ Phán Quy đã chuẩn bị dây thừng và dùi đục, y và Kim Thế Di thi triển công phu Bích hổ du tường leo lên được mấy trượng, rồi đục trên vách đá một cái lỗ nhỏ, cắm cái đinh sắt vào, Kim Thế Di buộc dây thừng thả xuống cho Lệ Thắng Nam leo lên, gần đến trưa thì đã lên đến phía dưới hai tảng đá. Địa hình ở đây hơi lõm, cả ba người đứng ngửa mặt nhìn “miệng của người khổng lồ”.
Hai tảng đá lớn chồng lên nhau giống như hai bờ môi của một người khổng lồ, ở giữa có một cái kẽ chỉ đủ chọc bàn tay vào, muốn dài hai tảng đá này ra chỉ e Sở Bá Vương sống lại cũng chẳng làm được. Lệ Phán Quy cười khổ sở: “Đã tới được đây nhưng làm sao vào?”
Lệ Thắng Nam chợt nói: “Thúc thúc hãy xem, bên trong miệng đá cũng có mấy cái răng”. Quả nhiên bên trong kẽ đá có vài cây cọc đá lổm chổm trong giống như hàm răng. Lệ Phán Quy nói: “Những cọc đá này có gì kỳ lạ?” Lệ Thắng Nam lấy bức tranh ra, nói: “Kiều Bắc Minh đã làm giấu ở đây”. Kim Thế Di nhìn theo ngón tay nàng, chỉ thấy ở giữ răng thứ hai và răng thứ ba đếm từ trái sang phải, kẽ răng rất rộng, nhìn lại hàng măng đá trong các miệng đá quả nhiên cũng như thế.
Lệ Phán Quy nói: “Được, để ta thử xem sao”. Rồi y thò hai tay vào, tay trái nắm măng đá thứ hai, tay phải nắm măng đá thứ ba dồn sức lắc hai cây trụ, chỉ nghe tiếng kèn kẹt vang lên, hai cây măng đá đột nhiên bật ra hai bên trái phải, đá vụn rơi rào rào, bật ra một cái lỗ trống tương đối rộng đủ cho một người bò vào.
Đó chính là: Vắt hết tim óc tìm bí mật, nay sắp tìm được vật cần lấy.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi 26 sẽ rõ.