Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Bốn Mươi
Trong tiệc mừng công xui rủi tới
Dưới sân tỉ võ địch lạnh mình

Khấu Phương Cao cười nói: “Tôi tuy thay hoàng thượng ủy lạo, ngài dâng tù binh cho tôi, tôi không dám nhận. Nhưng tôi cũng.muốn xem đó là nhân vật nào, cứ để tôi nhận lấy là được, không cần phải cử hành nghi thức dâng tù binh.”
Kim Thế Di cũng muốn biết đó là nhân vật nào, khi nhìn kỹ lại thì thấy bốn người áo vàng áp giải một đám tù phạm đi qua hành lang, Khấu Phương Cao bảo bọn vệ sĩ ghi lại danh sách đám tù phạm sau đó đem nhốt vào trong lao. Đối diện với cửa hành lang có bày một chiếc bàn, Khấu Phương Cao ngồi ở giữa, Tây Môn Mục Dã và Tư Không Hóa ngồi hai bên.
Mấy trăm võ sĩ trong đại sảnh đều đứng dậy, chăm chú nhìn đám tù binh, Kim Thế Di thở phào, thầm nhủ: “May mà đều là những nhân vật chẳng có tên tuổi.”
Nhưng trong đó cũng có vài người quan trọng như đệ tử phái Hoa Sơn Đỗ Tử Tường, Phương Đồng của phái Không Động và nhà sư Hoài Chân của phái Thiếu Lâm.
Khấu Phương Cao cười ha hả nói: “Tây Môn tiên sinh đã lâu không đi lại trên giang hồ, chắc là không nhận ra nhân vật chủ chốt của các phái? Những người này chẳng qua chỉ là đại đệ tử đời thứ hai của các phái mà thôi.” Tư Không Hóa cười nói: “Không phải Tây Môn tiên sinh không nhận ra nhưng chưởng môn của các đại môn phái đâu dễ dàng bị bắt? Nhưng có thể bắt được đệ tử của họ cũng đã là quý. Nào! Nào việc dâng tù binh đã xong, chúng ta hãy quay về bàn, ăn mừng cho Tây Môn tiên sinh!” Tây Môn Mục Dã mặt tái xanh, lạnh lùng nói: “Còn có một người, chắc là Tư Không đại nhân sẽ nhận ra!” chỉ thấy hai người áo vàng bắt một tù binh tới, nhưng đó là một bà đã có tuổi, Kim Thế Di thất kinh, chỉ nghe Tư Không Hóa lạc giọng kêu lên: “Chưởng môn phái Mang Sơn Tào Cẩm Nhi?” Tây Môn Mục Dã điềm nhiên nói: “Quả nhiên Tư Không đại nhân đã nhận ra, bản lĩnh của tôi tuy kém xa đại nhân nhưng muốn bắt chưởng môn nhân thì đâu có khó như đại nhân nói!” Té ra Tây Môn Mục Dã về trễ là vì bắt Tào Cẩm Nhi. Y biết quê nhà của Tàu Cẩm Nhi ở Hà Bắc, Tào Cẩm Nhi đến Mang Sơn cho nên chỉ có con trai và con dâu ở nhà.
Sau khi các môn phái bại trận, mọi người tập trung ở chùa Thiếu Lâm bàn bạc đối sách, vài ngày sau thì chẳng thấy động tĩnh gì, có người đoán bọn Tây Môn Mục Dã về kinh báo công. Tào Cẩm Nhi lo cho người nhà, sợ họ bị hại cho nên cùng vài sư đệ quay về, Thống Thiền thượng nhân khuyên không được chỉ đành sai bốn đệ tử có võ công cao cường nhất là Đại Trí, Đại Bi, Hoài Nhân, Hoài Chân đi về cùng bà ta, không ngờ con trai và con dâu bà ta đã nghe phong thanh nên bỏ chạy trước, trái lại bọn Tây Môn Mục Dã nấp ở trong nhà, Tào Cẩm Nhi trở về có nghĩa là tự chui đầu vào lưới, thế rồi một trận ác chiến xảy ra, Tào Cẩm Nhi và Hoài Chân bị bắt, Tây Môn Mục Dã sợ bà ta có hậu viện cho nên vội vàng trở về kinh ngay trong đêm.
Người áo vàng ấy lớn giọng báo: “Chưởng môn phái Mang Sơn Tào Cẩm Nhi!” Bọn người trong đại sảnh kêu ồ lên, ai nấy đều chen đến xem.
Chỉ thấy Tào Cẩm Nhi tóc bạc da mồi, bộ dạng gầy nhom, bà ta vốn rất chú ý đến sức khỏe của mình, tuy tuổi đã qua ngũ tuần mà vẫn chưa thấy già. Nhưng giờ đây chỉ cách một tháng mà tựa như đã già thêm mười năm, cả Kim Thế Di cũng suýt nữa không nhận ra. Bà ta tuy tiều tụy nhưng mặt vẫn tỏ vẻ quật cường.
Kim Thế Di thầm nhủ: “Bà già này tuy đáng ghét, nhưng rốt cuộc cũng là chưởng môn sư tỷ của Chi Hoa!” Chàng nghĩ chưa dứt thì chợt nghe Tào Cẩm Nhi phun phì một tiếng rồi nói: “Loài chuột nhắt dám làm nhục ta!” rồi đột nhiên vung ra lao đầu vào cây cột.
Kim Thế Di kinh hoảng, định ra tay cản lại thì Lệ Thắng Nam đã cười: “Bà già ấy chết không được đâu huynh lo gì?” hai người áo vàng cười ha hả: “Ngươi muốn chết, đâu có dễ như thế?” Té ra sau khi Tây Môn Mục Dã bắt bà ta, đã dùng hoa A tu la tán thành bột rồi lấy kim châm đâm vào da bà ta để thuốc thấm vào đường máu.
Hoa A tu la có thể khiến cho gân cất rã rời, bởi vậy lúc này Tào Cẩm Nhi chẳng bằng một người bình thường, không thể nào dồn nội lực ra cho nên khi táng vào gốc cột thì trán sưng một cục, đau đớn vô cùng. Hai kẻ áo vàng biết bà ta muốn tự sát, có ý chơi khăm bởi vậy mới để bà ta thoát ra.
Bọn vệ sĩ đỡ Tào Cẩm Nhi lên tống giam vào ngục. Khấu Phương Cao lại cùng mọi người ngồi trở lại bàn tiệc. Tư Không Hóa nói: “Tuy Tào Cẩm Nhi là chưởng môn phái Mang Sơn nhưng cũng không phải kẻ đầu đảng.” Tây Môn Mục Dã nói:
“Sao, phái Mang Sơn không phải là kẻ tử địch của triều đình? Hoàng thượng đã đích thân nói với tôi rằng, các môn phái khác thoát cũng được, nhưng không được tha cho bất cứ người nào của phái Mang Sơn.” Khấu Phương Cao nói: “Tây Môn huynh có điều không biết, Tào Cẩm Nhi tuy là chưởng môn nhưng địa vị trong phái Mang Sơn chẳng bằng Dực Trọng Mâu.” Tây Môn Mục Dã nói: “Vì sao?” Khấu Phương Cao nói: “Nhà của Tào Cẩm Nhi ở Hà Bắc giàu có, mụ ta tuy không dựa vào triều đình nhưng cũng chẳng đối đầu với triều đình, còn Dực Trọng Mâu là bang chủ của Cái Bang, đã nhiều lần chống đối triều đình. Cho nên ông bắt Tào Cẩm Nhi đương nhiên cũng có công nhưng không lớn bằng bắt Dực Trọng Mâu.” Tư Không Hóa lại nói: “Còn vợ chồng Đường Hiểu Lan của phái Thiên Sơn càng là người hoàng thượng muốn bắt. Hoàng thượng chẳng nói với ông sao?” Cả hai người này cố ý hạ thấp công lao của Tây Môn Mục Dã, Tây Môn Mục Dã đang đắc ý, bị bọn họ dội cho một chậu nước lạnh thì bực bội nói: “Nói thì dễ, đáng tiếc nếu thực sự động thủ thì lại thiếu người.” Ý nghĩa của câu nói này rất rõ ràng, ý muốn bảo lần này Tư Không Hóa đã xuôi tay đứng nhìn, còn bọn võ quan ngự lâm quân đi theo thì vô dụng. Bạch Lương Ký mặt tái xanh, Tư Không Hóa đương nhiên cũng biến sắc. Khấu Phương Cao vội vàng giảng hòa: “Giờ đây đại công chưa cáo thành, chúng ta phải đồng tâm hiệp lực không nên tranh cãi. Vì lần này chúng tôi nghe Tây Môn tiên sinh nói đảm bảo sẽ bắt được bọn chúng cho nên phái ít người, có lẽ là Tư Không đại nhân không muốn tranh công với Tây Môn tiên sinh, Tây Môn tiên sinh đừng trách.” Y bảo là điều đình, nhưng thực ra vẫn có ý bênh vực cho Tư Không Hóa. Tây Môn Mục Dã ngại thân phận của y, vả lại đã từng huênh hoang trước mặt hoàng đế cho nên không dám lên tiếng nữa.
Khấu Phương Cao lại rót đầy rượu cho hai người, cười rằng: “Chúng ta cạn xong li này rồi bàn cách phá địch.” Uống xong chén rượu, Khấu Phương Cao nói: “Nghe nói đệ tử các môn phái lớn hiện nay đều tập trung ở chùa Thiếu Lâm. Nếu chúng ta có đủ người thì sẽ bắt trọn bọn chúng. Triều đình không muốn có lời đàm tiếu cho nên không thể điều động đại đội quân mã, chỉ âm thầm thực hiện. Vẫn mời Tây Môn tiên sinh chủ trì, rồi chọn thêm nhiều hảo thủ. Thủ hạ của Tư Không huynh và vệ sĩ của tôi đều do Tây Môn tiên sinh sai khiến.” Tây Môn Mục Dã lạnh lùng nói: “Phía địch cao thủ nhiều như mây, chẳng thể xem thường.” Y nói câu ấy là có ý coi thường thủ hạ của hai người này. Khấu Phương Cao cố nén cơn giận, cười gượng nói: “Theo như Tây Môn tiên sinh nói, có lẽ ông vẫn chưa yên tâm về những người mà tôi đã chọn, vậy xin mời Tây Môn tiên sinh cứ tự chọn lấy!” Tây Môn Mục Dã nói: “Lẽ ra tôi không nên vượt cấp, nhưng hoàng thượng đã giao trách nhiệm, cũng chỉ đành cẩn thận hành sự, bởi vậy phải chọn lựa nghiêm khắc. Thế này nhé, mời Tư Không đại nhân chọn ra một tốp hảo thủ ngự lâm quân để huynh đệ của tôi tỉ thí với họ, nếu ai không bại trong vòng mười ba chiêu thì người đó có tư cách đến Thiếu Lâm tự. Trước tiên chọn trong ngự lâm quân, sau đó mới chọn thị vệ trong cung.” Tây Môn Mục Dã quả thật ngông cuồng, Tư Không Hóa không nhịn được nữa, lạnh lùng bảo: “Tôi không lượng sức mình, cũng muốn được lãnh giáo Tây Môn tiên sinh xem có thể đến Thiếu Lâm tự hay không?” Tây Môn Mục Dã chưng hửng, vội vàng nói: “Tư Không đại nhân đã nói đùa, đại nhân võ công cao cường, huynh đệ xưa nay rất bội phục, đâu cần phải thử nữa! Chả lẽ đại nhân muốn tôi bày trò, khảo nghiệm công phu của tôi?” lúc này Tây Môn Mục Dã mới biết mình đã lỡ lời, định nói vài lời xoa dịu Tư Không Hóa, nào ngờ Tư Không Hóa đanh mặt, chẳng nói lời nào. Tây Môn Mục Dã không thể xuống thang được, Khấu Phương Cao đang định giảng hòa thì chợt một võ quan bước ra, thi lễ với Tư Không Hóa nói: “Thống lĩnh đại nhân, ngài cần gì phải đích thân ra trận để mất thân phận? Bỉ chức bất tài nhưng cũng mong được khảo nghiệm để người ta khỏi cười rằng ngự lâm quân chúng ta ngoài thống lĩnh thì chẳng còn ai.” Y vừa nói xong thì bước ra phía trước, đưa mắt nhìn Tây Môn Mục Dã.
Tư Không Hóa nghe y nói thế thì thầm nhủ: “Nghe nói Tây Môn Mục Dã võ công quỷ dị, mình cũng chưa chắc thắng được y, chi bằng cứ để người này thử xem sao.” Thế rồi liền cười rằng: “Cam huynh là giáo đầu mới đến, là đệ tử đắc ý của Liễu Tam Xuân, cũng đã có mấy thành hỏa hầu công phu nội ngoại, Tây Môn tiên sinh có muốn ban cho y vài chiêu không?” Võ quan ấy chẳng phải ai khác mà chính là Kim Thế Di.
Tây Môn Mục Dã hừ một tiếng, thầm nhủ: “Liễu Tam Xuân là cái thá gì? Đệ tử của y làm sao xứng tỉ thí với mình!” nhưng Tư Không Hóa đã tiến dẫn, ít nhiều y cũng phải nể mặt, chỉ hừ một tiếng, cao giọng nói: “Vô Phi đại sư, mời giúp tôi chọn nhân tài đến Thiếu Lâm tự.” Một nhà sư mặc cà sa màu vàng bước ra, người này là cao thủ của Hồng giáo Tây Tạng, Tây Môn Mục Dã bảo y thử chiêu với Kim Thế Di cũng cảm thấy thiệt thòi cho y. Nhưng mặt khác y cũng có ý khoe khoang thực lực phía mình cho nên mới gọi Vô Phi đại sư, lòng thầm nhủ: “Tư Không Hóa nhà ngươi đã tiến cử người này, ta phải làm ngươi mất mặt mới được.” Y tính rằng Vô Phi đại sư không quá mười chiêu thì có thể đánh bại viên võ quan trẻ tuổi chẳng biết trời cao đất dày kia. Kim Thế Di nói: “Được, tôi sẽ lãnh giáo võ công của vị đại sư này trước, lát nữa sẽ mời Tây Môn tiên sinh chỉ điểm.” Chàng nói thế rõ ràng là coi thường Vô Phi đại sư. Tây Môn Mục Dã cười lạnh nói: “Ngươicứ tỉ thí xong rồi tính tiếp!” Vô Phi đại sư to lớn dềnh dàng, to hơn Kim Thế Di cả một cái đầu, vừa bước ra đã bảo với Kim Thế Di: “Ngươi dùng binh khí gì cứ việc lấy ra!” Kim Thế Di cười nói: “Tôi không câu nệ, đại sư dùng binh khí gì thì tôi sẽ dùng binh khí ấy” Vô Phi đại sư thầm nhủ:
“Hay cho tên tiểu tử cuồng vọng, vậy thì lần này người đã chuốc khổ!” thế rồi liếc nhìn Kim Thế Di, khẽ nói: “Bần tăng xưa nay không dùng vũ khí, chỉ dùng đôi chưởng này mà thôi!” Kim Thế Di nói: “Tốt lắm, tôi chỉ sử dụng một chưởng.” Vô Phi đại sư luyện loại công phu bí truyền của Hồng giáo là Đại tạng chưởng huyết thủ ấn, lợi hại hơn các loại võ công cùng loại ở Trung Nguyên như Thiết sa chưởng hoặc Kim cương thủ, y giở chưởng lên thì lập tức có mùi máu tanh tỏa ra. Kim Thế Di chẳng hề nhúc nhích, nhìn bàn tay đỏ ửng như máu của Vô Phi đại sư mà cười rằng: “Công phu Đại tạng chưởng của đại sư coi như cũng không tệ. Đáng tiếc còn thiếu một chút hỏa hầu!” Vô Phi đại sư chưng hửng, thầm nhủ: “Sao tên tiểu tử này biết công phu của mình?” Đại tạng chưởng huyết thủ ấn là tuyệt học bí truyền của Hồng giáo, đừng nói là người ngoài, dù cho Đạt ma cao cấp trong Hồng giáo cũng chẳng có mấy người biết, nhưng Kim Thế Di lại bảo y còn thiếu hỏa hầu, vì thế Vô Phi đại sư mới cả kinh.
Kim Thế Di tiếp tục nói: “Đại tạng chưởng nếu luyện đến cảnh giới cao nhất, bên ngoài chẳng khác người thường, nay bàn tay của đại sư đỏ như máu, giơ chưởng lên thì có mùi tanh, nhiều nhất cũng chỉ có bảy thành hỏa hầu.” Vô Phi đại sư kinh ngạc bất định, nói: “Đúng thế, ta chỉ có bảy thành hỏa hầu, nhưng ngươi có dám tiếp một chưởng của ta không?” Kim Thế Di cười nói: “Dù đại sư có luyện đến mức lư hỏa thuần thanh tôi cũng không sợ, huống chi là bảy thành?” Vô Phi đại sư vạch chưởng thành một đường vòng cung, quát rằng: “Tiếp chưởng!” rồi vỗ xuống đỉnh đầu Kim Thế Di, nếu bị trúng chưởng này, nạn nhân sẽ lập tức rã rời xương cốt, trong máu trúng độc. Không quá ba ngày chắc chắn sẽ tử vong.
Kim Thế Di cố ý trổ tài, không vung chưởng chống lại, chỉ nghe bốp một tiếng, Vô Phi đại sư vỗ chưởng xuống, Kim Thế Di khom người, chưởng ấy trúng vào bối tâm của chàng, trên lưng xuất hiện một dấu tay màu đỏ.
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di xoay người lại, quát: “Ngươi cũng tiếp một chưởng của ta!” đối phương tiếp một chưởng của mình, Vô Phi đại sư đã sớm kinh hoảng. Kim Thế Di quát: “Mau mau xuất chưởng, bản lĩnh của ngươi chẳng thể nào tiếp nổi Đại tạng chưởng của ta!” lúc này Vô Phi đại sư mới phát giác lòng bàn tay của Kim Thế Di đã đẩy đến trước ngực, y thất kinh vội vàng xuất chưởng chống lại, chỉ nghe bốp một tiếng, hai chưởng giao nhau, bàn tay của Vô Phi đại sư nát bét, máu đen kịt chảy ra ròng ròng, công phu Huyết thủ ấn đã bị Kim Thế Di phế bỏ, nếu muốn luyện trở lại cảnh giới này ít nhất cũng phải mười năm.
Vô phi đại sư mặt xám ngoét, rên rỉ: “Ngươi... sao ngươi cũng sử dụng Đại tạng chưởng?” Kim Thế Di cười nói: “Ta chẳng phải nói, ngươi dùng binh khí gì thì ta sẽ dùng binh khí ấy, ngươi dùng công phu gì, ta cũng dùng công phu ấy hay sao? Nhưng ngươi đừng lo, ta tuy dùng công phu Đại tạng chưởng nhưng lại là thuần chính hòa bình, không làm ngươi trúng độc, ngươi cứ nghỉ ngơi cho khỏe, đừng lo mất mạng.”
Té ra Kim Thế Di đã dung hợp võ công của các phái chính tà, lại luyện nửa bộ bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh, nửa bộ này là tinh nghĩa của võ học. Kim Thế Di thông được một lý thì trăm lý cũng thông, ngoại trừ vài loại thần công thượng thừa nhất, đối với các loại công phu khác chỉ cần nhìn là sẽ hiểu ngay. Song chàng cũng chỉ có thể phát ra chưởng lực của Đại tạng chưởng chứ không làm cho nạn nhân trúng độc, nhưng Vô Phi đại sư cũng không biết luyện đến mức lư hỏa thuần thanh thì như thế nào, vẫn tưởng rằng Kim Thế Di nương tay, chỉ dùng chưởng lực phế bỏ công phu mà giữ lại tính mạng của y. Vô Phi chẳng dám nói nhiều, vội vàng lui xuống.
Vô Phi đại sư chỉ đấu một chưởng với Kim Thế Di mà đã trọng thương, mấy trăm võ sĩ đứng nhìn đều hoảng hồn đến nỗi trợn mắt há nườm, Tư Không Hóa thì nghi ngờ lắm, y nghe nói Liễu Tam Xuân chỉ giỏi môn Miên chưởng, mà Miên chưởng lại chẳng hề có chỗ giống nhau với Đại tạng chưởng, nhưng Kim Thế Di lại có thể sử dụng Đại tạng chưởng đánh bại Vô Phi đại sư quả thực rất khó hiểu. Tư Không Hóa lúc này không khỏi nghi ngờ lai lịch của Kim Thế Di, nhưng vì y muốn Kim Thế Dilấy sĩ diện cho ngự lâm quân cho nên cũng không hỏi ngay.
Tây Môn Mục Dã hừ một tiếng rồi nói: “Tên họ Cam này hơi quái dị! Liên Gia huynh đệ, hai ngươi ra thử!” bên cạnh có hai hán tử trông chẳng khác gì nhau, vừa nhìn thì biết đó là đôi anh em sinh đôi.
Các võ quan ngự lâm quân đều coi Kim Thế Di là người cùng phe, đang mừng rỡ vì chiến thắng của chàng, lúc này thấy anh em họ Liên bước ra thì có người không khỏi lo lắng. Vốn là hai người này tên gọi Liên Thành Bảo và Liên Thành Ngọc, xưa nay luôn đi đôi với nhau, công phu điểm huyệt của họ rất cao cường, cả hai anh em dùng bốn cây phán quan bút chuyên điểm vào kỳ kinh bát mạch, phối hợp rất kín kẽ, ít có cao thủ nào thoát khỏi tay họ. Cho nên bốn cây bút liên thủ với nhau cũng giống như song kiếm hợp bích của người khác, gặp một đối thủ cũng dùng bốn cây bút, mà gặp một trăm đối thủ cũng dùng bốn cây bút. Kim Thế Di nói: “Công phu Tứ bút điểm bát mạch của các ngươi cũng khiến họ Cam ta hơi khó khăn, để ta nghĩ thử nên làm sao đây?” Liên Thành Bảo nhất thời không hiểu, lạnh lùng nói: “Có gì mà khó, ngươi không đối phó nữa thì cứ nhận thua.” Kim Thế Di cười ha hả: “Ai nói ta nhận thua, ta đang nghĩ, một mình ta chỉ có hai cánh tay, làm sao có thể sử dụng bốn cây phán quan bút!” anh em họ Liên chưng hửng, chỉ nghe Kim Thế Di lẩm bẩm: “Có rồi, có rồi, điều đó cũng không làm khó được ta, một mình ta sẽ diễn tuồng hai người cho các ngươi xem!” Liên Thành Ngọc trừng mắt hỏi: “Cái gì? Ngươi cũng có công phu Tứ bút điểm bát mạch?” Kim Thế Di nói: “Đúng thế, lúc nãy ta chẳng phải nói các ngươi dùng binh khí gì ta sẽ dùng binh khí ấy, các ngươi dùng công phu gì ta cũng dùng công phu ấy hay sao?” Kim Thế Di vừa nói thì hàng trăm võ sĩ đều sững người ra, bởi vì lúc này chàng chẳng có thứ gì trong tay, dù cho chàng có lấy được phán quan bút thì làm sao có thể sử dụng được cả bốn cây, điều quan trọng hơn là thủ pháp điểm huyệt của nhà họ Liên truyền nam không truyền nữ, nhất là công phu Tứ bút điểm bát mạch, vì hai người này là anh em sinh đôi, tâm ý tương thông nên mới có thể phối hợp kín kẽ, mà loại công phu này cũng do hai anh em họ nghĩ ra, cũng có nghĩa là, thiên hạ tuy lớn nhưng chỉ có hai anh em nhà họ Liên mới biết bộ công phu điểm huyệt này, dù võ công của Kim Thế Di tinh thâm đến mức nào cũng chẳng thể nào hiểu nổi! Chàng nói như thế chẳng phải đã hoang đường, khiến người ta khó tin hay sao?
Hai anh em họ Liên đưa mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ: “Chả lẽ kẻ này là kẻ điên?” Tư Không Hóa cũng chẳng hiểu ất giáp gì, chỉ đành bảo tên võ sĩ đứng bên cạnh: “Ngươi lấy bốn cây phán quan bút đưa cho Cam giáo đầu.” Nào ngờ Kim Thế Di lại xua tay, nói: “Tôi đã nói họ dùng binh khí gì thì tôi sẽ dùng binh khí ấy, những cây phán quan bút này không hợp tí nào!” té ra đôi phán quan bút của anh em nhà họ Liên rất đặc biệt, phán quan bút thông thường chỉ có hai thước tám tấc, một đầu nhọn, nhưng phán quan bút của hai anh em họ thì dài đến ba thước sáu tấc, đầu bút lại tẻ ra, có nghĩ là một cây bút mà có đến hai đầu, bốn cây bút công lại là tám đầu cho nên cơ thể trong vòng một chiêu điểm được kỳ kinh bát mạch của người ta. Trong võ lâm c óbốn câu nói đánh giá phán quan bút: “Một tấc ngắn, một tấc hiểm, một tấc dài, một tấc mạnh!” Có nghĩa là phán quan bút càng ngắn thì chiêu số càng hung hiểm, phán quan bút càng dài thì uy lực càng lớn, lộ số khác nhau, ưu kém cũng khác nhau.
Nhưng cũng yêu cầu người sử dụng bút phải có một công lực nhất định. Bút dài khó sử dụng hơn bút ngắn. Danh gia điểm huyệt trong võ lâm là Công Tôn Địch sử dụng một cây phán quan bút dài một thước tám tấc, đó là loại bút ngắn nhất, còn bút của anh em nhà họ Liên dài đến ba thước sáu tấc, đó là loại bút dài nhất. Huống chi đây là loại bút tách đầu đặc biệt, bởi vậy ở đây không có loại binh khí này.
Liên Thành Bảo lạnh lùng nói: “Cam giáo đầu, bọn ta không chuẩn bị sẵn, không thể cho ngươi mượn được.” Kim Thế Di nói: “Đừng lo, ta nói là sẽ làm được. Sao ngươi biết ta không có phán quan bút như ngươi?” Liên Thành Ngọc nổi cáu, nói: “Được, đừng nhiều lời nữa, ngươi cứ rút phán quan bút của ngươi ra! Nếu ngươi có thể lập tức lấy ra bốn cây phán quan bút như thế này, hai anh em ta lập tức nhận thua.”
Kim Thế Di cười nói: “Chưa giao thủ mà các người nhận thua ta cũng không chịu. Được, ngươi đã nói thế thì trái lại ta không muốn lập tức rút phán quan bút ra, ta sẽ nhường anh em nhà ngươi mười chiêu, khi ta ra tay thì sẽ dùng công phu Tứ bút điểm bát mạch, nếu dùng công phu khác coi như ta thua!” sau lần bị Kim Thế Di đánh bại, Hô Diên Húc rất khâm phục chàng, cả hai người đã trở thành bạn bè. Y là người nghĩ sao nói vậy, nghe Kim Thế Di bảo thế thì lo lắm, vội vàng kêu lên: “Cam huynh, chả lẽ huynh biến ra bốn cây phán quan bút sao?” Kim Thế Di nói: “Hô Diên huynh đệ, huynh đã nói đúng, lát nữa huynh sẽ được xem tuồng hay! Này, anh em nhà ngươi sao chưa xuất chiêu, còn đợi khi nào nữa?” Anh em nhà họ Liên nổi giận bừng bừng, cả hai người đều nghĩ: “Xem thử ngươi chống đỡ thế nào?” bốn cây phán quan bút cùng đánh ra, thiết bút quét gió kêu lên vù vù tựa như bốn con độc xà, điểm vào kỳ kinh bát mạch, ba mươi sáu đại huyệt trên mình Kim Thế Di, toàn thân chàng đều bị đầu bút của chúng bao trùm! Bút ảnh ngang dọc hoa cả mắt, mấy trăm võ sĩ đứng xung quanh chẳng ai nhìn thấy rõ, chợt nghe Kim Thế Di kêu lớn: “Quả nhiên bất phàm!” vừa dứt thì chàng đã lướt ra ba trượng, lúc này mọi người mới thấy rõ, chỉ thấy áo trên lưng chàng đã bị rách nhiều chỗ! Anh em nhà họ Liên đều kinh hãi, Kim Thế Di là người đầu tiên có thể đánh được bốn cây phán quan bút của chúng. Cả hai anh em nhìn nhau, lập tức thi triển tuyệt chiêu thứ hai trong Tứ bút điểm bát mạch, Liên Thành Bảo phóng vọt người lên, từ trên không điểm xuống nhanh như chớp vào các mạch nhâm, đốc, xung, đới của Kim Thế Di, còn Liên Thành Ngọc thì lăn người xuống đất, hai bút đánh tròn vẽ thành hai vòng tròn, tấn công vào bốn mạch âm duy, dương duy, âm kiêu, dương kiêu. Kim Thế Di kêu lớn: “Không xong rồi!” trong khoảnh khắc ấy, chàng phóng lướt người ra tựa như một mũi tên bật khỏi cây cung!
Chỉ nghe bốn tiếng tưng vang lên, hai cây bút của Liên Thành Bảo từ trên đánh xuống chạm phải hai cây bút của Liên Thành Ngọc từ dưới đánh lên, Hô Diên Húc thở phào, bất đồ kêu lên: “Hay lắm! Hay lắm!” nào ngờ Kim Thế Di né tránh đã hay,thủ pháp điểm huyệt của hai.anh em nhà này càng hay hơn, bốn cây bút chạm nhauthì lập tức bay ra, Kim Thế Di chưa đứng vững chân thì bốn cây phán quan bút đã đuổi theo, tựa như có người sai khiến, bốn cây bút đâm xuyên vào nhau, vẫn là công phu Tứ bút điểm bát mạch, Kim Thế Di kêu lên: “Lợi hại thật!” chỉ nghe tiếng loạt soạt kêu lên, Lệ Thắng Nam đã thấy trên lưng Kim Thế Di hiện ra hai lằn máu, nàng vốn chẳng hề lo, ngay lúc này không khỏi cả kinh, thầm nhủ: “Nếu chàng mang ngọcgiáp của mình thì tốt biết bao!” Kim Thế Di xoay người, ngón trỏ búng một cái, hai cây phán quan bút ở phía sau bật ra, kêu lên: “Hãy lấy lại binh khí, vẫn còn bảy chiêu nữa?” Chiêu lúc nãy của hai anh em họ Liên tên gọi Phi quản kinh thần, hễ bút phóng ra thì người trúng sẽ chết ngay, nào ngờ Kim Thế Di chỉ bị thương nhẹ, lại còn búng hai cây bút của Liên Thành Ngọc quay trở lại, do vậy cả hai càng kinh hãi. Liên Thành Bảo phóng vọt người lên, chụp lấy hai cây bút, Liên Thành Ngọc dậm chân, trầm eo tọa mã chụp lấy hai cây bút, may mà y dùng công phu Thiên cân trụy, khi y tiếp được cây bút vẫn không khỏi chấn động, hổ khẩu tựa như muốn rách toác. Những chiêu này nhanh như điện chớp lửa xẹt, kinh hiểm tuyệt luân, cả Tư Không Hóa, Tây Môn Mục Dã, Khấu Phương Cao cũng đều kinh tâm động phách, căng thẳng đến nỗi ngộp thở.
Để đối phó với ba chiêu điểm huyệt của hai anh em nhà này Kim Thế Di đã dùng bốn loại võ công thượng thừa nhất, hai chiêu đầu tiên chàng cố ý thử tài đối phương, bởi vậy dùng Thiên la bộ pháp né tránh, dùng công phu Kim trung tráo hộ thân, không ngờ đến chiêu thứ ba thì anh em nhà này sử dụng tuyệt kỹ điểm huyệt Phi quản kinh thần, cả Thiên la bộ cũng chẳng né được, Kim trung tráo cũng bị phá, khiến Kim Thế Di phải dùng công phu bế huyệt của Độc Long tôn giả, bởi vận mạch đốc mới không bị thương, cuối cùng chàng buộc thi triển công phu Đàn chỉ thần công búng hai cây bút Liên Thành Ngọc bay ngược trở lại. Nếu tám mạch đều bị điểm cùng lúc, Kim trung tráo với Bế huyệt pháp cũng chẳng thể nào ứng phó nổi! Trong bốn loại công phu này, Kháu Phương Cao đã nhận ra ba loại, Tư Không Hóa và Tây Môn Mục Dã chỉ nhận ra hai loại, chỉ có một người nhận ra chàng đã sử dụng đến bốn loại công phu, đó là Lệ Thắng Nam. Nàng thầm nhủ: “Công phu Tứ bút điểm bát mạch đúng là thủ pháp điểm huyệt kỳ diệu nhất trong thiên hạ, Kim Thế Di chỉ dùng tay không mà nhường chúng mười chiêu, e rằng đã quá khinh địch.” Cả người hiểu rõ bản lĩnh của Kim Thế Di như Lệ Thắng Nam mà nhìn xong ba chiêu cũng lo cho chàng, đương nhiên không cần phải nói đến những người khác. Hô Điên Húc thì kêu lên: “Cam huynh, chiếu theo quy củ võ lâm, dù trưởng bối và vãn bối đọ chiêu, nhiều nhất cũng chỉ nhường ba chiêu, huynh đã nhường xong ba chiêu, cần gì phải nhường cho đủ mười chiêu?” Kim Thế Di cười nói: “Huynh không biết, hai ngày nay tôi không tắm rửa, trên người ngứa ngáy, phải nhờ họ dùng bút gãi ngứa cho tôi, thật là thoải mái!
Nào, nào, còn bảy chiêu nữa mau ra tay! Ta không đợi được nữa!” anh em họ Liên sắc mặt tái xanh, tuy chúng đã vạch trúng người Kim Thế Di nhưng cây bút của Liên Thành Bảo bị bật ra, nếu chiếu theo quy củ tỉ thí, bọn chúng đã sớm dập đầu xin thua.
Hai anh em họ Liên vốn cũng muốn nhận thua, nhưng nếu làm thế thì uy danh điểm huyệt thiên hạ đệ nhất của nhà họ Liên cũng sẽ không còn, vả lại Kim Thế Di và Hô Diên Húc một xướng một hòa, lời lẽ khắc bạc vô cùng, tựa như chẳng hề coi chúng vào đâu, cả hai anh em xưa nay kiêu ngạo, làm sao có thể nuốt được cục giận này?
Bọn chúng cũng thực sự muốn biết Kim Thế Di có biết công phu Tứ bút điểm bát mạch hay không, xem thử chàng lấy đâu ra bốn cây bút, ý nghĩ tò mò ấy hơn hẳn lòng sĩ diện.
Hai anh em tâm ý tương thông, lúc này mỗi người đứng một bên Kim Thế Di, đột nhiên cùng quát: “Tên họ Cam kia, ngươi coi thường bốn cây bút này bọn ta sẽ gãi ngứa cho ngươi lần nữa!” Bốn cây bút đồng thời ra tay, lập tức vẽ ra một màn bút ảnh muôn trùng, trong chớp mắt chỉ trong vòng một chiêu đã tấn công vào kỳ kinh bát mạch của Kim Thế Di! Kim Thế Di tuy miệng thì nói lời khinh bạc, cố ý khiến cho anh em họ Liên khó chịu, nhưng thực ra cũng chẳng dám khinh địch, may mà sau ba chiêu, thủ pháp Tứ bút điểm bát mạch hơi rời rạc, chỉ thấy trong màn bút ảnh chàng hú lên một tiếng, dùng Thiên la bộ pháp lách người đi tới vị Li, chạy qua vị Khảm, luồn qua lách lại trong bốn cây bút, ngoại trừ vài người như Lệ Thắng Nam, Khấu Phương Cao, Tư Không Hóa, những người còn lại đều chẳng nhìn thấy chiêu số của chàng, hầu như chẳng thấy được bóng người.
Hai anh em họ Liên đánh hụt, lại tung ra chiêu thứ năm đuổi theo, chiêu này tên là Thiên la địa võng, hai anh em bước vào vị trí Cửu cung bát quyền, một trước một sau chạy theo Kim Thế Di, bốn cây phán quan bút hợp thành một vòng tròn, chặn đường lui của Kim Thế Di, lần này Kim Thế Di không thể dùng Thiên la bộ pháp né tránh, chỉ nghe soạt soạt hai tiếng, bốn cây bút đã điểm lên người Kim Thế Di.
Bọn ngự lâm quân đều thót tim, nào ngờ anh em họ Liên càng thất kinh hơn bọn chúng, đầu bút đã chạm vào người Kim Thế Di nhưng lại trượt sang một bên, cả hai mất trọng tâm, suýt ngã xuống, Kiến Thế Di cười ha hả, rồi sau đó lướt qua người Liên Thành Bảo, tránh luôn chiêu thứ sáu của bọn chúng. Té ra Kim Thế Di đối phó với chiêu thứ năm bằng công phu Triêm y thập bát diệt, đây là loại nội công thượng thừa, công lực càng sâu thì càng tuyệt diệu, với công lực hiện nay của Kim Thế Di, chàng đã hơn hẳn Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Kỳ, người năm xưa rất giỏi môn công phu này. Nhưng anh em họ Liên cũng không ngã xuống, đủ thấy bọn chúng không những tinh thông thủ pháp điểm huyệt mà công lực bản thân đã đến mức thuộc hàng nhất lưu.
Kim Thế Di dùng công phu Lưu vân phi tụ phất hai cây bút của Liên Thành Ngọc ra, phá chiêu thứ bảy của chúng; tiếp theo chàng lại dùng công phu Đàn chỉ thần công ứng phó với chiêu thứ tám. Anh em họ Liên chợt thay đổi phương vị, Liên Thành Bảo chỉ đông điểm tây, Liên Thành Ngọc chỉ nam điểm bắc, hai cây bút điểm được nửa đường thì đột nhiên rẽ ngoặt, đổi hướng xử ra chiêu có uy lực lớn nhất là Khấp quỷ kinh thần, khi cây bút của Liên Thành Bảo điểm tới, từng tia máu bắn ra theo đầu bút của y, số là Liên Thành Ngọc dồn hết công lực vào đầu bút, công phu Triêm y thập bát diệt và Kim trung tráo của Kim Thế Di không chịu nổi, đã bị y đâm trúng huyệt trung lăng trong mạch dương duy. Công lực của Liên Thành Ngọc hơi kém hơn, hai bút lại đâm trượt ra, chỉ vạch rách được một mảnh áo của Kim Thế Di.
Kim Thế Di hừ một tiếng rồi nói: “Còn một chiêu nữa, các người sẽ thấy ta ra tay!” anh em họ Liên đã thi triển chiêu có uy lực mạnh nhất, vả lại đã điểm trúng huyệt trung lăng của chàng, nhưng vẫn chẳng hề khiến chàng ngã xuống thì bất đồ lòng run sợ, cả hai anh em không hẹn mà đều xử ra chiêu cuối cùng là Bút trận tung hoành, đây là chiêu số trong thủ có công, vòng bút thu nhỏ, trước tiên phòng ngự bản thân đến gió mưa không lọt, chỉ cần kẻ địch lướt người tiến tới thì hai anh em sẽ chuẩn bị lưỡng bại câu thương! Lúc này hàng trăm võ sĩ như muốn vươn dài cổ ra thêm, mắt như mở to thêm để xem Kim Thế Di tìm đâu ra bốn cây bút. Kim Thế Di chợt quát: “Cho các ngươi mở rộng tầm mắt!” chàng vận dụng công phu Sư tử hống của Phật môn, màng nhĩ hai anh em họ Liên đều chấn động đến nỗi hồn bay phách tán, lúc này một luồng hàn phong lạnh lẽo quét tới mặt bọn chúng, mắt như bị người ta dùng kim đâm vào, bất đồ phải nhắm mắt, bút trận của bọn chúng lập tức tán loạn, trong khoảnh khắc này, Kim Thế Di vung tay đoạt lấy bốn cây bút rồi quát: “Mở mắt ra nhìn đây!” chỉ thấy trên tay chàng cầm hai cây bút, hai cánh tay co lại kẹp hai cây bút còn lại, bởi vì cây phán quan bút này dài đến ba thước sáu tấc, cho nên khi kẹp trong tay vẫn đài hơn bút bình thường, đủ để sử dụng thủ pháp điểm huyệt, Kim Thế Di lộn người, bốn cây bút lia tới, xử ra chiêu có uy lực nhất là Khấp quỷ kinh thần, chỉ nghe hai anh em đều kêu thảm, kỳ kinh bát mạch của cả hai người đều bị Kim Thế Di điểm trúng! Té ra sở dĩ Kim Thế Di nhường bọn chúng mười chiêu là muốn học lén thủ pháp điểm huyệt, chàng căm ghét hai tên này ác độc, vả lại chúng là thủ hạ đắc lực của Tây Môn Mục Dã, ngoại trừ vài chưởng môn của các môn phái lớn, chẳng ai địch nổi hai tên này, muốn trừ Tây Môn Mục Dã trước tiên phải khử bọn này, bởi vậy Kim Thế Di chẳng hề nương tay, trước tiên dùng công phu Sư tử hống làm cho chân khí nội gia hộ thân của chúng tán loạn, phá bút trận của chúng, tiếp theo là lấy gậy ông đập lưng ông, dùng công phu Tứ bút điểm bát mạch điểm vào kỳ kinh bát mạch của bọn chúng, phế võ công của bọn chúng! Anh em họ Liên rên rỉ: “Tên họ Cam kia, ngươi giỏi lắm!” rồi cả hai lảo đảo đi vào trong.
Kim Thế Di cười ha hả, ném bốn cây bút rồi trở lại bàn tiệc, bẩm báo với Tư Không Hóa: “Hai anh em bọn họ là khảo quan, tôi là khảo sinh không dám chẳng tận lực, vả lại tôi cũng dùng công phu của nhà họ Liên, không ngờ họ không chống đỡ nổi chiêu số quen thuộc nhất, vì thế tôi đã đả thương họ, mong thứ tội.” Tư Không Hóa nhìn Tây Môn Mục Dã, vì lúc nãy y bảo muốn khảo nghiệm võ công của ngự lâm quân, giờ đây bị Kim Thế Di nắm lấy điểm ấy, tuy tức giận đến cực. điểm nhưng cũng không dám lên tiếng. Tư Không Hóa mới nói: “Khi tỉ thí ngẫu nhiên thất thủ cũng là do số trời, chẳng trách được ngươi.” Thế rồi cởi chiếc cẩm bào cho chàng che chỗ rách.
Khấu Phương Cao thấy Kim Thế Di vận dụng bảy tám loại võ công khác nhau, hồ nghi vô cùng, không khỏi hỏi: “Sư phụ của Cam huynh có đúng là Liễu Tam Xuân trang chủ không? Lúc nãy tôi nghe không rõ.”.
Đó chính là: Võ công như thế người đời hiếm, làm sao chủ khảo chẳng nghi ngờ.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 41 sẽ rõ