Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Hồi Thứ Bốn Mươi Bảy
Lên đường đi đến chùa Thiêu Lâm
Chính tà đại chiến bãi Thiên Tràng.

Cốc Chi Hoa nói đến câu cuối cùng thì không khỏi rân rấn nước mắt, nàng vốn có ý trách Kim Thế Di là vô tình vô nghĩa, nhưng ngữ khí thì tựa như nói giúp cho Lệ Thắng Nam, thật ra đó chính là thái độ hờn trách của người Kim Thế Di vội nói: “Ai bảo nàng là vợ của huynh?” Cốc Chi Hoa nói: “Nàng đã nói như thế còn là giả? Tôi không tin trên đời lại có nữ nhi nào không biết liêm sỉ, mạo nhận người khác là chồng mình! Nàng bảo, nàng và huynh đã thành hôn trên hoang đảo, chủ hôn chính là anh trai của nàng, có chuyện đó hay không?” Kim Thế Di rất lúng túng, chỉ đành gật đầu nói: “Đúng thế, có chuyện như thế?” Cốc Chi Hoa biến sắc, phất ống tay áo toan bỏ đi, nhưng toàn thân cứ cứng đờ, chỉ cảm thấy trời xoay đất chuyển, toàn thân đuối sức, Kim Thế Di kéo nàng, thở dài: “Muội không biết bên trong có nội tình, đó chẳng qua là kế quyền nghi lúc đấy, điều này... điều này là giả! Vợ chồng giả! Muội có hiểu không? Muội không hiểu Huynh sẽ nói thật cho muội biết, muội có biết nàng là ai không? Nàng chính là hậu duệ của Lệ Kháng Thiên, đại đệ tử của Kiều Bắc Minh năm xưa!” Cốc Chí Hoa khựng người, nói: “Điều đó đâu có liên quan gì đến chuyện hai người là vợ chồng?” lúc này nàng vẫn đau lòng nhưng thấy Kim Thế Di cuống lên thì lời lẽ cũng mềm mỏng hơn.
Kim Thế Di kể lại những ngày đầu mình gặp gỡ Lệ Thắng Nam, cho đến khi làm ra vợ chồng giả trên hoang đảo nửa tháng thì mới ngừng lại, cuối cùng nói: “Huynh chỉ vì nàng có ơn nên mới giúp nàng báo thù, đối xử với nàng như huynh muội. Muội đã hiểu tâm sự của huynh chưa?” chàng nói một hơi đến đây thì mới ngừng lại, nhìn Cốc Chi Hoa nhưng vẫn cúi đầu, trong lòng cảm thấy áy náy. Bởi vì kẻ thù của Lệ Thắng Nam là Mạnh Thần Thông, Kim Thế Di hứa giúp nàng trả thù, có nghĩa là phải giết cha của Cốc Chi Hoa, mặc dù Cốc Chi Hoa không nhận cha, nhưng chàng vẫn cảm thấy ái ngại. Cốc Chi Hoa đứng thẫn thờ một lúc rất lâu, rất lâu, vẫn chẳng nói được câu nào. Trong lúc lặng lẽ, lòng nàng như dậy sóng, nàng nhớ lại rất nhiều chuyện. Từ trong câu chuyện của Lệ Thắng Nam, nàng càng biết cha mình độc ác đến mức nào, vì bí kíp võ công của Kiều Bắc Minh mà đã giết hại cả nhà Lệ Thắng Nam. Lúc đầu nàng tuy còn hơi nghi ngờ những lời của Kim Thế Di nhưng sau đó thì có thể thông cảm. Nhưng nàng vẫn có chỗ không hiểu chàng, trái tim của nữ nhi là nhạy cảm nhất, từ lời của Kim Thế Di nàng nghe được chàng không chỉ xót thương đối với Lệ Thắng Nam mà thôi, nếu không có một chút gì yêu đương, với tính cách của chàng làm sao có thể cam chịu thiệt thòi làm vợ chồng giả với Lệ Thắng Nam?
Lại còn chịu mãi đi theo nàng, chăm sóc nàng hết mực? Có lẽ tình yêu ấy trôn sâu trong lòng mà cả bản thân chàng cũng không nhận ra, nhưng với một tâm hồn nhạy cảm như Cốc Chi Hoa, nàng đã dễ dàng nhìn thấy điều đó! Thử nghĩ trong mắt tình nhân, làm sao có thể để rơi vào một hạt cát? Mặt khác, sau khi Cốc Chi Hoa biết thân thế của Lệ Thắng Nam thì nàng cảm thấy rất áy náy, tuy nàng không chịu nhận Mạnh Thần Thông là cha nhưng dẫu sao y vẫn là người đã sinh ra nàng, và cũng là người đã giết cả nhà Lệ Thắng Nam! Nghĩ đến đây, nàng cảm thấy mình như thiếu nợ Lệ Thắng Nam, nếu giờ đây lại đoạt tình lang của nàng ta nữa thì món nợ ấy càng nặng hơn. Cốc Chi Hoa nghĩ ngợi rất lâu, một hồi sau thì nàng thở dài, buồn bã nói: “Thế Di, muội đã biết tâm sự của huynh!” Kim Thế Di như một tên tội đồ được phóng thích, chàng vội vàng hỏi: “Giờ đây muội có thể tha thứ cho huynh chứ?” Cốc Chi Hoa khẽ nói: “Chuyện này không thể nói là tha thứ, huynh thích kết bằng hữu với ai, muội làm sao ngăn cản được? Trước kia huynh đã khích lệ và giúp đỡ muội rất nhiều, muội cảm kích vô hạn. Nhưng... nhưng...” Kim Thế Di nói: “Nhưag cái gì?” Cốc Chi Hoa đỏ mặt, cuối cùng nói: “Nhưng có điều suốt đời này muội không nghĩ đến tình cảm trai gái nữa.” Kim Thế Di kêu lên: “Chi Hoa, muội không chịu tin huynh sao?”
Cốc Chi Hoa nói: “Không, muội tin huynh không đi vào nẻo tà, sư phụ của muội hy vọng ở huynh rất nhiều, muội cũng mong huynh có được thành tựu lớn hơn trong võ học, để danh lại cho đời sau!” Kim Thế Di nói: “Không, huynh không phải nói điều này!” Cốc Chi Hoa không đáp, thế rồi mới nói tiếp: “Muội hoàn toàn biết ý tốt của huynh đối với muội, nhưng chuyện muội đã quyết định thì mãi mãi không bao giờ thay đổi nữa. Muội không có gì đáp đền, huynh hãy cầm lấy nửa cuốn bí kíp võ công này!” Kim Thế Di khựng người, Cốc Chi Hoa đã dúi nửa quyển sách vào tay chàng, vẻ mặt nàng rất cương quyết, tựa như đang ra mệnh lệnh buộc Kim Thế Di phải tuân theo! Kim Thế Di định lên tiếng nhưng trong một lúc cũng chẳng biết nói gì, ngay lúc này chợt nghe Lý Tâm Mai kêu lên: “Cốc tỷ tỷ, Cốc tỷ tỷ, có nhớ muội không?” Té ra Mạnh Thần Thông thấy Kim Thế Di bỏ đi, cũng chẳng thèm đánh nhau làm gì, cho nên vội vàng thi triển Kim cương chưởng lực phóng vọt ra khỏi màn kiếm quang của Phùng Anh rồi bỏ chạy. Phùng Anh đã biết họ ở trong khách sạn này, sau khi đánh lui Mạnh Thần Thông thì cùng hai người Chung, Lý tìm đến, Lý Tâm Mai mong gặp bạn cũ, nàng cứ kêu ầm lên.
Kim Thế Di giật mình, Lý Tâm Mai và Chung Triển đến đây, chàng không muốn để cho nàng biết mình vẫn còn sống, chàng nhìn nửa cuốn bí kíp, định trả lại những chợt đổi ý, thế là cất vào áo, khẽ nói: “Muội đừng để cho Tâm Mai biết là huynh... Chi Hoa, sau này huynh có thể gặp muội không?” Cốc Chi Hoa lắc đầu nhưng thấy Kim Thế Di đứng khựng lại thì bất giác lại gật đầu, lúc này bọn Phùng Anh đã tiến vào Kim Thế Di phóng vọt người qua vách tường, tiện tay búng mấy hòn đá trở lại giải huyệt đạo cho bọn Phùng Lâm. 
Chỉ nghe Lý Tâm Mai kêu lên: “Ồ, lại là quái nhân này! Chuyện... chuyện gì thế này? Mẹ, mẹ ơi, mẹ làm sao thế?” bọn Phùng Lâm, Dực Trọng Mâu nằm sóng soài dưới đất, Lý Tâm Mai thấy thế thì cả kinh, Phùng Anh giật mình, bà ta vốn muốn đuổi theo quái nhân ấy nhưng thấy thế thì chỉ đành dừng lại. Phùng Lâm công lực thâm hậu hơn, vừa giải huyệt đạo thì tỉnh ngay, bà ta mở mắt vội vàng hỏi ngay: “Mạnh lão tặc đâu?” Lý Tâm Mai nói: “Mạnh lão tặc đã bị dì đuổi đi. Mẹ, mẹ có sao không?”
Phùng Lâm đỏ mặt, ấp úng: “Không cẩn thận bị Mạnh lão tặc ám toán, may mà tỷ tỷ đến kịp lúc. Bà ta tưởng rằng Phùng Anh đến kịp lúc nên mới đuổi Mạnh Thần Thông đi, đang định đáp tạ tỷ tỷ thì Phùng Anh cười nói: “Tâm Mai nói chẳng rõ ràng tí nào, công lao ấy chẳng phải của tỷ. Tỷ và Mạnh Thần Thông giao thủ với nhau cách đây mười dặm, kẻ khác đã giải huyệt đạo cho muội.” Lúc này bọn Dực Trọng Mâu mới tỉnh táo trở lại, nghe thế thì hỏi: “Là ai thế?” Phùng Anh nói: “Là một quái nhân đeo mặt nạ da người. Khi tỷ và Mạnh Thần Thông gặp nhau, y đang bị Mạnh Thần Thông truy đuổi, không ngờ y đã trở về đây trước.” Dực Trọng Mâu kêu ôi chao một tiếng, vội vàng hỏi: “Quái nhân đâu?” Phùng Anh nói: “Y vừa thấy tôi và Tâm Mai vào thì đã bỏ chạy. Huynh có biết người ấy là ai không?” Phùng Lâm nghe tỷ tỷ nói thì biết ngay đó là Kim Thế Di, vội vàng ho một tiếng rồi bảo: “Người ấy đấy à? Y... y là đệ tử thứ ba của Kim Quang đại sư, tính tình cũng như muội, rất thích gây chuyện ồn ào, tỷ tỷ, tỷ cũng đã gặp qua y song y đeo mặt nạ cho nên không nhận ra đấy thôi.” Kim Quang đại sư có ba đệ tử, đều là những người rất nghiêm nghị, Phùng Anh chưng hửng nhưng bà ta hiểu em gái của mình, lập tức đoán ra chắc chắn có điều lạ, bà ta không muốn nói ra lai lịch của y trước mặt mọi người cho nên mới nói bừa một phen, bởi vậy Phùng Anh cũng chẳng hỏi nữa.
Lý Tâm Mai lại kêu lên: “Cốc tỷ tỷ, sao tỷ lại không vui? Không muốn gặp muội ư?” Phùng Lâm nhẹ kéo tay áo Cốc Chi Hoa, Cốc Chi Hoa mỉm cười: “Sao tỷ lại không muốn gặp muội? Nhưng tỷ đang lo cho chưởng môn sư tỷ nên trong lòng hơi buồn. Lý Tâm Mai vỡ lẽ ra, nàng gật gù nói: “Tào chưởng môn trước đây không tốt với tỷ, nhưng giờ đây đang thực sự nhớ tỷ, mỗi ngày đều hỏi tỷ có đến hay chưa, lát nữa trời sáng chúng ta sẽ lập tức đến chùa Thiếu Lâm.” Phùng Anh đi xem một vòng trong khách sạn, giải huyệt đạo cho tất cả những người bị Mạnh Thần Thông điểm.
Khi Mạnh Thần Thông điểm huyệt những người này chỉ dùng thủ pháp nhẹ nhất, Phùng Anh lẳng lặng giải huyệt cho họ, họ cũng chẳng biết gì, tựa như đang nằm mơ.
Phùng Anh để lại một ít tiền phòng, đến khi trời vừa hửng sáng thì lập tức quay trở về chùa Thiếu Lâm.
Cuộc đại chiến sẽ diễn ra vào trưa ngày mai, lúc này chùa Thiếu Lâm đang khẩn trương, hầu hết cao thủ các phái đều đến. Vốn là sau khi Cốc Chi Hoa thăm bệnh thì sẽ trở về Mang Sơn, không ngờ Tào Cẩm Nhi bệnh rất nặng, lúc Cốc Chi Hoa đến thì bà ta đã có hiện tượng hồi quang phản chiếu, tinh thần phấn chấn, nói chuyện một hồi với Cốc Chi Hoa thì hôn mê bất tỉnh nhân sự, rơi vào trạng thái hấp hối. Vì thế Cốc Chi Hoa đương nhiên không thể bỏ đi, chỉ đành ngồi canh bên giường bệnh. May mà Tào Cẩm Nhi đã sắp xếp rất chu đáo, bà ta chỉ định khi mình lâm trọng bệnh thì Dục Trọng Mâu sẽ tạm thời làm chưởng môn, sau khi chết sẽ trao lại cho Cốc Chi Hoa, bởi vậy Cốc Chi Hoa không cần phải ra mặt đối đầu với cha mình.
Tuy như thế, Cốc Chi Hoa vẫn lo lắng không yên, bởi vì Mạnh Thần Thông đã bảo sẽ lên Thiếu Lâm tự tỉ thí với Đường Hiểu Lan, “Nếu ông ta đến, mình có gặp không?” đối với Cốc Chi Hoa, đó là một chuyện rất khó khăn.
Sáng sớm hôm nay, chùa Thiếu Lâm tập hợp mọi người, ai nấy đều căng thẳng, đợi Mạnh Thần Thông đến. Đại Trí và Đại Bi thiền sư trong Thập bát La Hán đứng canh ở Ngoại tam đường, chợt nghe có tiếng ồn ào, Đại Bi thiền sư thất kinh, nói: “Chả lẽ Mạnh Thần Thông đến sớm như thế sao?” Đại Trí thiền sư đang định báo tin, chợt thấy có ba người lạ mặt xông vào Ngoại tam đường, đệ tử đứng canh ngoài cửa không cản nổi.
Đại Trí, Đại Bi nhận ra một người là Cơ Hiểu Phong, còn hai người kia là hai tăng nhân Tây Tạng mũi cao mắt sâu, Đại Trí, Đại Bi đồng thanh quát: “Ngừng bước!” Cơ Hiểu Phong cười hì hì lách người lướt qua hai vị thiền sư, Đại Trí và Đại Bi cả giận: “Chùa Thiếu Lâm há để người ngoài làm càn?” Rồi hai người vỗ ra bốn chưởng, hai tăng nhân ấy hừ một tiếng rồi nói: “Sao lại có cái quy củ thối tha như thế?” Rồi cả hai người hích vai, chỉ nghe bốp bốp hai tiếng, Đại Trí và Đại Bi chấn động đến nỗi bay bổng lên, may mà công lực của họ thâm hậu, khi đang ở trên không trung thì lộn người hạ xuống đất. Hai người này có võ công cao nhất trong Thập bát La Hán, nếu là người khác thì đã ngã chổng cẳng.
Đệ tử Thiếu Lâm và khách khứa đều chạy vào trong báo tin.
Ba người không đợi họ hợp vây đã xông tới góc sân thử ba. Chợt nghe một tiếng ho, có hai nhà sư gầy gò bước ra, đó chính là hai vị trưởng lão trong Đạt Ma viện cùng vai vế với Thống Thiền thượng nhân, Duy Thức đại sư và Duy Chân đại sư.
Cơ Hiểu Phong vừa mới bước vào Đạt ma viện thì Duy Thức và Duy Chân đã chắp tay nói: “Xin hỏi thí chủ đến đây có chuyện gì?” Cơ Hiểu Phong chỉ cảm thấy một luồng tiềm lực mạnh mẽ đẩy ra, nhất thời khí huyết nhộn nhạo, còn may y có thân pháp nhanh nhẹn, vừa cảm thấy không ổn đã lướt trở lại ba trượng mới thoát khỏi phạm vi chưởng lực của hai nhà sư già. 
Hai phiên tăng nghênh ngang bước về phía trước, cung tay hỏi: “Trong hai vị ai là Thống Thiền thượng nhân?” khi đang nói thì nội lực đôi bên đã chạm nhau, tà tăng bào của hai nhà sư chùa Thiếu Lâm phồng lên, tựa như có gió thổi qua mặt hồ, còn thân trên của hai tăng nhân Tây Vực thì cũng hơi lắc lư.
Duy Chân đại sư nói: “Té ra ba vị đến tìm phương trượng của bổn tự, xin mời đợi một lát để chúng tôi sai đệ tử vào thông báo.” Cơ Hiểu Phong nói: “Làm phiền ông hãy mời Đường chưởng môn của phái Thiên Sơn.” Y đã biết bản lĩnh của hai chưởng lão, cho nên cũng không dám ngông nghênh nữa. Duy Thức đại sư đi trước dẫn đường, đưa khách vào Kết duyên tịnh xá chờ đợi, đó là nơi tiếp khách của chùa Thiếu Lâm. Ngồi không lâu thì Thống Thiền thượng nhân và Đường Hiểu Lan đã tới.
Thống Thiền thượng nhân thấy các đệ tử Phật môn thì đọc Phật hiệu, chắp tay hỏi: “Đại đức quang lâm, xin thứ lỗi thất kính. Không biết ba vị có chuyện gì chỉ giáo?” Cơ Hiểu Phong cung kính thi lễ rồi nói: “Phụng lệnh gia sư, đến đây thăm hỏi phương trượng và Đường chưởng môn.” Hai nhà sư Tây Vực lúc nãy đã thử nội lực của hai trưởng lão Duy Chân và Duy Thức, lúc này lại có ý thử Thống Thiền thượng nhân và Đường Hiểu Lan, hai người chắp tay vái ra ngoài rồi đồng thời nói: “Bọn tiểu tăng Trúc Pháp Lan, Trúc Pháp Hưu từ lâu đã ngưỡng mộ tiếng tăm của chùa Thiếu Lâm, lần này được Mạnh tiên sinh mời đến xem buổi thịnh hội.” Thống Thiền thượng nhân mỉm cười, nói: “Té ra là thế, thật không dám nhận hai chữ ngưỡng mộ.” Ông ta có Thần công hộ thể Kim cương bất hoại, người không nhúc nhích, tựa như chẳng hề hay biết.
Thống Thiền thượng nhân lấy từ bi làm đầu, lại là thân phận chủ nhân cho nên mới nương tay, tiếp ám kình của họ mà chẳng hề phản chấn trở về; Đường Hiểu Lan thì không hề khách sáo, hộ thể thần công dùng đến năm phần lực phản chấn, chân lực nội gia của hai nhà sư Tây Vực đã phát ra, tựa như ném đá vào biển lớn chẳng hề có tăm hơi, vừa cảm thấy không ổn thì người chấn động tựa như bị sóng lớn đè xuống đầu lập tức loạng choạng thối lui mấy bước, suýt nữa đã ngã xuống! Đường Hiểu Lan nói: “Hai vị cứ đứng vững, không cần khách sáo, xin mời ngồi.” Hai nhà sư kinh hãi, chẳng còn vẻ cuồng ngạo nữa, thế rồi mới thi lễ với Đường Hiểu Lan, nói: “Từ lâu đã nghe võ công của Đường chưởng môn là đệ nhất ở miền trung thổ, quả nhiên danh bất hư truyền, xin được thứ lỗi.” Lần này thì thi lễ theo quy củ, Đường Hiểu Lan cũng trả lại một lễ chứ chẳng dùng thần công phản chấn.
Đường Hiểu Lan tuy chế phục được họ nhưng trong bụng cũng hơi lo, công lực của hai nhà sư Tây vực này chỉ kém Thống Thiền thượng nhân, nhưng hơn một bậc so với chưởng môn của các phái, xem ra Mạnh Thần Thông lần này lại lôi kéo không ít người tài, bản thân Đường Hiểu Lan đương nhiên chẳng e sợ, nhưng lại có xảy ra hỗn chiến thì đệ tử các phái khó tránh tử thương. Cơ Hiểu Phong dâng thư lên, Thống Thiền thượng nhân xem qua một lượt, đưa cho Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh không đến chùa Thiếu Lâm nữa, thời gian tỉ thí cũng không nổi, nhưng địa điểm thì dời đến bãi Thiên Tràng, Đường chưởng môn, ông thấy thế nào?” Đường Hiểu Lan nhận bức thư xem qua một lượt, đại ý nói rằng sợ tỉ võ trong chùa Thiếu Lâm, chẳng may làm hư hao tượng Phật chùa cổ thì lòng chẳng yên cho nên đổi sang bãi Thiên Tràng. Đường Hiểu Lan cũng có ý này, cho nên mới nói với Cơ Hiểu Phong: “Ý của lệnh sư rất hợp với ý ta. Ngươi cứ về nói với tôn sư, Đường mỗ sẽ đến đúng lúc.” Hai nhà sư Tây Vực nói: “Từ lâu đã ngưỡng mộ quý tự là thánh địa Phật môn miền trung thổ, nay thấy chùa cổ trang nghiêm quả nhiên khí tượng bất phàm, hôm nay có duyênđến đây, rất muốn tham quan một phen, không biết phương trượng có chấp nhận haykhông?” Thống Thiền thượng nhân đọc một tiếng Phật hiệu rồi nói: “Cùng là đệ tử cửa Phật, hai vị từ xa đến đây, tiểu tự theo lý phải tiếp đãi. Duy Thức, Duy Chân hai đệ hãy cùng Bản Không sư đệ đưa họ đi xem.” Bản Không là giám tự của chùa ThiếuLâm, võ công chỉ kém Thống Thiền thượng nhân, Thống Thiền thượng nhân biết Cơ Hiểu Phong là Diệu thủ thần thâu, bảo Bản Không theo họ là để âm thầm giám sát.
Sau khi khách rời khỏi Kết duyên tịnh xá, Thống Thiền thượng nhân nhíu mày, nói: “Đường đại hiệp, ông thấy Mạnh Thần Thông thật sự có lòng tốt như thế không? Có phải thật sự vì mến tiếc chùa Thiếu Lâm nên mới đổi địa điểm không?” Đường Hiểu Lan nói: “Có lẽ y sợ chúng ta chiếm địa lợi cho nên mới không chịu đến chùa Thiết Lâm. Bãi Thiên Tràng là nơi nào?” Thống Thiết thượng nhân nói: “Nơi ấy nằm ở phía bắc Tung Sơn, cách bổn tự chỉ có mấy dặm.” Đường Hiểu Lan nói: “Vậy cũng rất tiện lợi.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Nhưng bãi Thiên Tràng là một nơi tuyệt địa!”
Đường Hiểu Lan hỏi: “Sao?” Thống Thiền thượng nhân nói: “Bãi Thiên Tràng nằm ở dưới đáy cốc, xung quanh có núi bao bọc cho nên gọi là bãi Thiên Tràng. Nơi ấy rất rộng rãi.” Đường Hiểu Lan nói: “Nếu y có mai phục dưới cốc, chúng ta cũng không cần sợ! Theo tôi thấy, Mạnh Thần Thông tuy chẳng chuyện ác gì không làm, nhưng xưa nay tự phụ, chắc là không đối phó với chúng ta bằng thủ đoạn bỉ ổi như thế!”
Thống Thiền thượng nhân nói: “Ông nói rất đúng, dù y có mai phục gì trong cốc cũng còn tốt hơn động võ trong chùa Thiếu Lâm.” Lúc này chùa Thiếu Lâm đang có nhiều cao thủ, từ sau khi biết Mạnh Thần Thông sắp đến khiêu chiến thì ngày đêm đều có người tuần tra xung quanh, người phụ trách công việc tuần tra là Đại Hùng thiền sư, kẻ đứng đầu Thập bát La Hán. Thống Thiền thượng nhân gọi Đại Hùng vào hỏi, Đại Hùng thiền sư nói ở bãi Thiên Tràng chẳng có ai đáng nghi, Thống Thiền thượng nhân mới bớt lo.
Một hồi sau Bản Không đại sư vào bẩm báo đã tiễn khách đi. Đường Hiểu Lan cười nói: “Có mất thử gì không?” Bản Không đại sư nói: “Tôi cũng biết đó là Diệu thủ thần thâu cho nên phòng bị trước. Tôi chỉ dắt họ đi tham quan vài tòa đại điện và những nơi không quan trọng, còn tàng kinh các thì không cho vào. Đôi mắt láo liên của Cơ Hiểu Phong thật lợi hại, tựa như rất để ý, ôi chao...” Thống Thiền thượng nhân nói: “Sao thế?” Bản Không đại sư thở dài: “Không ngờ tôi cẩn thận phòng bị mà vẫn bị mắc lỡm?” Thống Thiền thượng nhân nói: “Mất thứ gì, có quan trọng không?” Bản Không đại sư nói: “Là một chiếc nhẫn ngọc cổ, tuy không quan trọng nhưng là vật tôi rất quý, tôi đeo trên ngón giữa của tay phải, trước khi rời khỏi đây y còn cúi gập người vái tôi, tôi trả lễ cho nên đỡ y dậy, không ngờ đã bị y đánh cắp, đến giờ mới phát giác.” Lời lẽ rất rầu rĩ. Số là Bản Không đại sư sau khi mất vợ mới xuất gia, chiếc nhẫn ngọc cổ này là di vật của vợ ông ta. 
Duy Thức thiền sư nói: “Người xuất gia tứ đại giai không, vật ngoài thân có mất đi cũng chẳng sao. Nhưng hôm nay Mạnh Thần Thông đột nhiên đổi ý, phải nhờ hai vị sư huynh hao tâm tổn sức sắp xếp trở lại.” Bởi vì lần này Mạnh Thần Thông tuy khiêu chiến với Đường Hiểu Lan nhưng lại liên quan đến người của hai bên và cao thủ các phái chính tà, đến lúc đó khó tránh xảy ra chuyện bất ngờ, cho nên phải sắp xếp kỹ càng trước.
Thống Thiền thượng nhân trầm ngâm một lúc rồi mới nói: “Bản Không sư đệ, đệ và tứ đại trưởng lão của Đạt Ma viện và các đệ tử Đại Hùng, Đại Trí, Đại Thông ở lại giữ chùa. Tăng chúng trong nội tam đường cũng sẽ ở lại một nửa để đề phòng, số còn lại theo ta đến bãi Thiên Tràng. Còn đệ tử các phái thì cứ để cho chưởng môn của họ cách đặt.” Thế là kế hoạch đã định, nửa canh giờ sau mọi việc đã sắp xếp ổn thỏa, đệ tử chùa Thiếu Lâm đến gần ngàn người, tuy một nửa đã đến bãi Thiên Tràng nhưng số còn lại vẫn đủ giữ chùa. Còn đệ tử các phái đều muốn xem cuộc tỉ võ trăm năm hiếm gặp này, chỉ có vài nữ hiệp của phái Thanh Thành, bốn đại đệ tử Trình, Lâm, Lộ, Bạch của phái Mang Sơn và Lý Tâm Mai của phái Thiên Sơn chấp nhận ở lại cùng Tào Cấm Nhi và Cốc Chi Hoa. Phùng Lâm vốn muốn ở lại cùng con gái nhưng không muốn bỏ qua sự kiện hiếm có này cho nên cuối cùng vẫn đi. Chung Triển là đệ tử của Đường Hiểu Lan, không thể không đi cho nên đành phải tạm thời chia tay Lý Tâm Mai. Tào Cẩm Nhi đang trong trạng thái hấp hối, lúc nào cũng có thể tắt thở, các đệ tử phái Mang Sơn vốn không nỡ rời bà ta, nhưng Mạnh Thần Thông là kẻ địch của phái Mang Sơn, bởi vậy sau khi bàn bạc, cuối cùng quyết định chỉ để lại Cốc Chi Hoa và bốn đại đệ tử, những người khác thì cùng Dực Trọng Mâu đến bãi Thiên Tràng.
Một đoàn người rầm rộ kẻo đến bãi Thiên Tràng. Lúc ấy trời vừa đúng ngọ. Bọn người Mạnh Thần Thông đã đợi ở đó, xung quanh y ngoại trừ bọn Dương Xích Phù, Cơ Hiểu Phong, Phù Li Tiệm, Lăng Tiêu Tử và hai phiên tăng vừa mới đến chùa Thiếu tâm, còn có vài người lạ. Thống Thiền thượng nhân lại hỏi đệ tử Thiếu Lâm, biết bọn người Mạnh Thần Thông cũng vừa mới tới được một lúc, cũng chẳng có sắp xếp gì đặc biệt. Thế rồi mỗi phe chiếm một bên, Mạnh Thần Thông và Đường Hiểu Lan, Thống Thiền thượng nhân chậm rãi bước ra giữa sân.
Thống Thiền thượng nhân chào Mạnh Thần Thông trước rồi nói: “Hai vị đều là bậc đại sư võ học đương thế, hôm nay giá lâm Tung Sơn, bổn tự được tiếp đãi cảm thấy rất vinh dự. Nhưng lão nạp cũng có điều lo nên muốn nói vài câu.” Mạnh Thần Thông nói: “Xin mời nói.” Thống Thiền thượng nhân nói: “Với công lực của hai vị, hôm nay đủ khiến cho mọi người mở rộng tầm mắt. Nhưng hai vị chỉ ngừng ở chỗ lấy võ kết bạn, đừng làm cho máu đổ ở danh sơn, đồng đạo gặp tai ương.” Ý của Thống Thiền thượng nhân rất rõ ràng, chỉ là hy vọng cuộc tỉ võ này chi là chuyện cá nhân hai người, tốt nhất đừng xảy ra chuyện hỗn chiến; đồng thời cũng hy vọng họ quyết thư hùng về mặt võ học, không nên làm chuyện tốn thương đến tính mạng.
Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh là khách, tôi mong được nghe ý kiến của tiên sinh.” Mạnh Thần Thông nói: “Phương trượng lấy từ bi làm đầu, Mạnh mỗ rất khâm phục. Nhưng chỉ e không thể được như phương trượng mong muốn. Thứ nhất hôm nay bằng hữu có mặt rất đông, những người này chẳng phải là thuộc hạ của tôi, tôi chẳng thể nào kìm chế được họ. Thứ hai, hôm nay tôi thỉnh giáo Đường chưởng môn là hy vọng ông ta không giấu nghề, cho tôi thấy tuyệt kỹ phái Thiên Sơn để được mở rộng tầm mắt. Tôi đương nhiên cũng không giấu nghề, dù hơn kém rất xa cũng phải dốc hết sức mình ra, như thế thì làm sao dừng lại đúng lúc. Nay chỉ đành nghe theo mệnh trời, nếu tôi được chết dưới kiếm của Đường chưởng môn cũng chẳng tiếc, chẳng may tôi thắng được một chiêu nửa thức lỡ tay đả thương Đường chưởng môn cũng mong thiền sư thứ lỗi. Nhưng ý của tôi lại cũng giống như ý của thiền sư, hôm nay chỉ muốn thỉnh giáo Đường chưởng môn, chẳng liên quan gì đến người khác. Nếu tôi thua cuộc mà không mất mạng, nhất định sẽ mãi mãi rời khỏi võ lâm, sau này quyết không trả thù, dù có người khác tim tôi trả thù, tôi cũng chỉ tỉ thí với những kẻ thù mà thôi, quyết không làm lớn chuyện.” Mạnh Thần Thông tuy không nghe theo ý của Thống Thiền thượng nhân nhưng cũng đã thề đây chỉ là việc riêng giữa y với Đường Hiểu Lan, dù cho nửa chừng trở thành cục diện hỗn chiến y cũng đối phó với một mình Đường Hiểu Lan chứ không đánh bừa, đả thương đến người khác. Thống Thiền thượng nhân đoán Đường Hiểu Lan nắm một nửa phần thắng, chỉ cần Mạnh Thần Thông không đánh bừa thì coi như đã yên tâm, thế rồi mới bảo: “Nếu tôn ý đã như thế, lão nạp cũng không nhiều lời nữa. Còn tỉ võ như thế nào xin mời hai vị tự định đoạt với nhau.”
Đường Hiểu Lan nói: “Mạnh tiên sinh, ông là khách, mời ông ra đề, tôi sẽ chiều theo.” Mạnh Thần Thông sớm đã có mưu đồ nhưng giả vờ suy nghĩ một hồi sau đó nói: “Tôi nghĩ đạo võ học rất tinh thâm ảo diệu, liên quan rất rộng, không chỉ giới hạn ở võ học, đối với hai người chúng ta, làm sao có thể vừa bước ra đã giơ quyền động cước, múa đao rộng kiếm, bắt chước bọn mãng phu?” Đường Hiểu lan nói: “Mạnh tiên sinh nói phải, vậy ý của ông là tỉ thi bằng văn chương?” Trong lòng cảm thấy ngạc nhiên, Mạnh Thần Thông lúc nãy đã bảo muốn quyết sống chết với ông ta, tùy theo số trời, sao trong chốc lát lại đổi giọng như thế?
Mạnh Thần Thông tiếp tục nói: “Không phải là tỉ thí bằng văn chương, cũng chẳng phải tỉ thí bằng võ học, hôm nay hiếm có được cơ hội tốt, chúng ta phải dốc hết bình sinh ra tỉ thí một phen, xem thử ai giỏi ai dở?” Đường Hiểu Lan nói: “Đạo võ học rộng như biển lớn, mênh mông vô bờ bến, nếu tỉ thí toàn diện thì không biết tỉ thí như thế nào, mong Mạnh tiên sinh chỉ rõ?” Mạnh Thần Thông nói: “Đạo võ học tuy bao la rộng lớn nhưng theo ngu kiến của tôi, không ngoài ba phương diện, thứ nhất là kiến thức về mặt võ học, thứ hai là dũng khí và đảm lượng của người học võ, thứ ba là tài nghệ của bản thân. Tôi muốn ra ba đề mục cho ba phương diện này, không biết Đường chưởng môn có chấp nhận không?” Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Kiến thức và tài nghệ của bản thân quan trọng như nhau, y nói điều đó không sai. Nhưng đối với dũng khí và đảm lượng y lại nói không rõ ràng, cảnh giới cao nhất của võ học không phải là cái dũng của bọn thất phu, cũng không phải là đảm lượng chẳng sợ chết, mà chính là chính khí hạo nhiên. Nhưng Mạnh Thần Thông đâu cần phải nói điều này.”
Song Đường Hiểu Lan tuy không đồng ý hết với kiến giải của Mạnh Thần Thông nhưng đã nói trước, vả lại phần lớn những lời của y cũng hợp lý, thế rồi chỉ đành gật đầu đáp: “Vậy xin mời Mạnh tiên sinh ra đề.” Mạnh Thần Thông nói: “Đường chưởng môn là thiên tài nghiên cứu võ học, lẽ ra Mạnh mỗ không xứng ra đề, nhưng đã được nhường cho nên cung kính chi bằng tuân mệnh, tôi chỉ đành làm trò cười mà thôi.” Y ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Ba lần tỉ thí, ai thắng được hai thì coi như toàn thắng. Tôi biết Đường chưởng môn là người rộng lượng, chẳng để tâm đến chuyện thắng thua nhưng cũng phải nói trước, để người khác khỏi nghị luận.” Đường Hiểu Lan vuốt râu cười nói: “Mạnh tiên sinh nói rất phải, ai thắng ai thua cũng đừng nên để trong lòng, nếu tôi thua trước hai trận, trận thứ ba cũng không cần tỉ thí nữa.” Đường Hiểu Lan đồng ý với y tỉ thí ba trận, chưởng môn của các chính phái đều chấn động, trong lòng thầm lo, nếu tỉ thí bản lĩnh võ công, ai cũng cho rằng phần thắng nghiêngvề Đường Hiểu Lan, nhưng nếu tỉ thí kiến thức và đảm lượng, vả lại cũng không biết Mạnh Thần Thông giở trò gì, bởi vậy cũng khó đoán được ai thắng ai thua. Mạnh Thần Thông nói: “Được, tôi sẽ đưa ra đề mục đầu tiên, mời Đường chưởng môn chọn một đệ tử đắc ý nhất ra tỉ thí võ công với tiểu đồ!” Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Chẳng phải đã nói đề mục thử nhất là xem kiến thức võ học của ai hơn hay sao?”
Mạnh Thần Thông nói: “Đúng thế, nhưng cũng chính như Đường chưởng môn đã nói, đạo võ học không bờ bến, nếu cả hai người chúng ta lấy tinh nghĩa võ học ra mà làm khó nhau, cả ba ngày ba đêm cũng chưa chắc nói hết, mọi người cũng chưa chắc thích những lời đàm luận của chúng ta. Chi bằng cứ để cho bọn đệ tử tỉ thí bằng võ công bổn môn, sau đó chúng ta sẽ chỉ ra chỗ ưu kém trong võ công của chúng, ông nói một điều, tôi sẽ nói theo một điều, như thế cũng có nghĩa chúng ta bình luận võ công của nhau. Xem ra ai chỉ ra ưu điểm và khuyết điểm nhiều hơn thì người đó thắng, như thế chẳng phải sẽ có căn cứ thực tế hơn là nói suông sao?” Đường Hiểu Lan gật đầu: “Biện pháp này cũng giống với các người xưa luận kiếm nhưng không hoàn toàn giống nhau mà cũng có mặt mới mẻ.” Mạnh Thần Thông nói: “Nếu Đường chưởng môn đã đồng ý, vậy xin phái một cao đồ ra đây. Đây là tiểu đồ Cơ Hiểu Phong, Đường chưởng môn và Thống Thiền thượng nhân đều đã gặp.” Đường Hiểu Lan thấy Mạnh Thần Thông phái ra Cơ Hiểu Phong thì nhíu mày, thầm nhủ: “Gã này khinh công siêu phàm, chỉ e Chung Triển chẳng đối phó nổi.” Bởi vì trận này thực tế là một cuộc tỉ võ hai lần, tuy việc thắng thua được quyết định bởi hiểu biết của Đường Hiểu Lan và Mạnh Thần Thông về võ học của đối phương nhưng nếu đệ tử đại diện cho bổn môn thua thì rốt cuộc cũng chẳng vinh quang gì.
Đại đệ tử của Đường Hiểu Lan là Chung Triển, tuy bảo kiếm pháp đã được chân truyền, nhưng hoa hầu vẫn còn thiếu, Đường Hiểu Lan đang đắn đo thì Đường Kinh Thiên bước ra nói: “Cha, cha cho phép con lãnh giáo cao đồ của Mạnh tiên sinh.”
Mạnh Thần Thông cười ha hả: “Thiếu chưởng môn đích thân ra tay đúng là đã coi trọng tiểu đồ. Ngươi hãy cẩn thận lãnh giáo thiếu chưởng môn?” Đường Kinh Thiên mang thân phận thiếu chưởng môn của phái Thiên Sơn, lại thành danh đã lâu, uy vọng còn cao hơn rất nhiều chưởng môn của các phái khác, tỉ thí với Cơ Hiểu Phong thật sự là thắng cũng chẳng hay ho gì, không thắng thì sẽ bị chê cười. Lúc nãy Đường Hiểu Lan không muốn bảo chàng bước ra chính là vì thế, nhưng giờ đây việc đã rồi, đành phải chấp nhận. Cơ Hiểu Phong cười hì hì: “Xin mời Đường thiếu chưởng môn rút kiếm!” Đường Kinh Thiên sầm mặt, nói: “Ngươi dùng chưởng thì ta cũng dùng chưởng!” Mạnh Thần Thông cười nói: “Đường thiếu chưởng môn đã hiểu nhầm, trận này tôi và lệnh tôn tỉ thí hiểu biết đối với võ học, dùng biện pháp này để tí thí chính làmuốn thấy tinh hoa võ học của đối phương, sau đó có thể căn cứ vào mà bình luận. Quý phái lừng lẫy võ lâm nhờ kiếm pháp, nếu Dường thiếu chưởng môn không dùng kiếm, thì lát nữa tôi biết nói từ đâu?” Đường Hiểu Lan nói: “Thiên nhi, con cứ dùng kiếm đi!” Đường Kinh Thiên cũng đành chịu, rút cây Du long kiếm ra, Cơ Hiểu Phong cười một tiếng nói: “Thanh kiếm này ánh sáng lấp lánh, trông rất thú vị!” rồi đưa tay toan chụp vào cổ tay của Đường Kinh Thiên.
Đường Kinh Thiên cả giận, đâm ngược lại một chiêu Hoành vân đoạn phong, kiếm pháp của chàng đã đến mức tùy tâm sở dục, đột nhiên đâm ra một kiếm nhanh như điện chớp, Cơ Hiểu Phong kêu lên: “Ôi chao, không xong!” Rồi y lướt người né tránh, quay đầu lại cười: “Còn may không trúng!” Sau đó sử dụng Thiên la bộ pháp phối hợp với khinh công tuyệt đỉnh, lời chưa dứt thì đã vòng ra sau lưng của Đường Kinh Thiên, vươn tay chụp lấy bảo kiếm của chàng.
Cơ Hiểu Phong biết bản lĩnh thực của mình chẳng bằng Đường Kinh Thiên cho nên cố ý chọc giận để thừa cơ ra tay, Đường Kinh Thiên quả nhiên trúng kế, những chiêu đầu vì tâm phù khí loạn cho nên có một lần đã bị Cơ Hiểu Phong chạm trúng vào chuôi kiếm, may mà căn cơ của Đường Kinh Thiên rất vững chắc, vừa cảm thấy không ổn thì chân lực nội gia lập tức phát ra, ngón tay của Cơ Hiểu Phong như chạm vào điện, chấn động đến nỗi thối lùi ba bước. 
Đường Kinh Thiên thâu nhiếp tinh thần, hú dài một tiếng triển khai Truy phong thập bát thức trong Thiên Sơn kiếm pháp, từng chiêu đánh gấp ra, chỉ trong chớp mắt thì tựa như sóng biển vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác! Thân pháp của Cơ Hiểu Phong cũng nhanh đến cực điểm, y dùng Thiên la bộ pháp phối hợp với khinh công tuyệt đỉnh, luồn qua lách lại trong màn kiếm quang của Đường Kinh Thiên. Chỉ thấy ánh kiếm bóng người trùng trùng điệp điệp, tất cả những người đứng xem đều hoa cả mắt, tựa như xoay người theo Cơ Hiểu Phong.
Đường Kinh Thiên thét một tiếng, kiếm chiêu càng lúc càng nhanh hơn, vòng kiếm quang càng lúc càng mở rộng như kết thành một màn ánh sáng bọc Cơ Hiểu Phong vào ở giữa, Cơ Hiểu Phong tuy vẫn có thể gắng gượng chống trả nhưng Truy phong thập bát thức, nếu chỉ hơi sơ suất thì sẽ máu rơi tại chỗ, vả lại nội lực của y cũng không thể cầm cự được lâu như Đường Kinh Thiên, Cơ Hiểu Phong rất lanh mắt vừa thấy không ổn thì lập tức mạo hiểm ra chiêu áp sát tới trước người Đường Kinh Thiên, hai tay búng ra, một luồng hàn phong lựa như một mũi tên vô hình bắn thẳng vào hai mắt của chàng.
Đó chính là công phu Huyền âm chỉ. Môn công phu này được Kiều Bắc Minh cải biến từ Tu la âm sát công, song Tu la âm sát công thì dùng chưởng lực, uy lực đương nhiên mạnh hơn dùng chỉ, nhưng Tu la âm sát công khó luyện còn Huyền âm chỉ thì dễ, Mạnh Thần Thông vì muốn cho y có thành tựụ cho nên sau khi lấy bí kíp về trung thổ thì lập tức dạy cho Cơ Hiểu Phong luyện môn công phu này.
Huyền âm chỉ lực của Cơ Hiểu Phong lúc này tương được với công lực tầng thử ba của Tu la âm sát công, vốn là chẳng thể làm gì được Đường Kinh Thiên nhưng y dựa vào thân pháp lanh lẹ, dùng đòn hiểm hóc đột kích đôi mắt của Đường Kinh Thiên.
Đường Kinh Thiên tuy có nội công thâm hậu những đôi mắt là nơi nội công không thể luyện đến, may mà chàng cũng lanh lẹ, vừa cảm thấy không ổn thì nhắm hai mắt, bước xoay người qua, dù như thế nhưng trán cũng bị Cơ Iíểu Phong búng trúng một cái, khi mở mắt ra thì hai mắt vừa sưng vừa đỏ, nước mắt chảy ròng ròng.
Cơ Hiểu Phong cười nói: “Thiếu chưởng môn, ta chỉ đánh nhẹ ngươi một cái mà không ngờ lại đau đến thế, đừng khóc nữa!” Đường Kinh Thiên cả giận, thi triển sát chiêu, một chiêu Đại mạc cô yên cuộn thẳng ra, một thanh kiếm tựa như biến thành hàng trăm thanh kiếm từ bốn phương tám hướng đánh về phía Cơ Hiểu Phong, chỉ nghe một tràng tiếng loạt soạt vang lên. Áo trên người Cơ Hiểu Phong đã bị kiếm đâm rách năm sáu chỗ nhưng cũng chưa chạm được vào người y. 
Cơ Hiểu Phong cũng thật lớn gan, dưới màn kiếm ảnh mịt mờ mà vẫn áp sát tới người Đường Kinh Thiên, lại giở trò cũ phát ra Huyền âm chỉ, lần này Đường Kinh Thiên đã phòng bị, chàng thổi ra một luồng chân khí nội gia, tựa như gió xuân giải đông hóa giải Huyền âm chỉ của y.
Nhưng cũng chính vì Đường Kinh Thiên dùng chân khí nội gia chế ngự Huyền âm chỉ lực cho nên không khỏi ảnh hưởng đến tốc độ kiếm chiêu, Cơ Hiểu Phong dần dần có thể lấy lại ưu thế. Lúc này hai bên đều kinh hoảng, một bên sưng mắt, một bên áo quần rách rưới tính ra cũng đồng đều nhau, nhưng với thân phận của Đường Kinh Thiên thì càng cảm thấy hổ thẹn, thầm nhủ: “Nếu mình để y thoát nổi một trăm chiêu thì làm sao ăn nói với các bậc tiền bối?” Bản lĩnh của chàng vốn cao hơn Cơ Hiểu Phong nhiều, nghĩ đến đây thì lập tức nảy ra một ý. Đường Kinh Thiên biết muốn thắng được kẻ địch thì phải lấy sở trường của mình để đánh sở đoản của kẻ địch, thế là thay đổi kiếm pháp, từ cực nhanh trở thành cực chậm, mỗi kiếm như treo một vật nặng ngàn cân, chàng chậm rãi đâm đông một kiếm, tây một kiếm. Cơ Hiểu Phong giật mình, chỉ cảm thấy áp lực trùng trùng từ bốn phương tám hướng dồn tới, dù bộ pháp của y nhẹ nhàng, tay chân lanh lẹ cũng không thể tiến sát tới gần Đường Kinh Thiên.
 Trong vòng tám thước xung quanh Đường Kinh Thiên tựa như có một bức tường sắt dựng lên, mà bức tường sắt ấy không ngừng mở rộng ra ngoài, bao vây cả Cơ Hiểu Phong. Té ra Đường Kinh Thiên đã sử dụng Đại tu di kiếm thức, nội lực của toàn thân dồn ra mũi kiếm, bề ngoài tựa như chẳng tai hại bằng Truy phong kiếm thức nhưng kình lực ấn chứa sâu xa, dồn ra tựa như dòng sông ngầm. Khinh công của Cơ Hiểu Phong cao minh hơn Đường Kinh Thiên, nội công thì lại kém rất xa, lần này bị Đại tu di kiếm thức vây khốn, phải vùng vẫy như trong dòng nước siết, dù có bơi giỏi cũng khó thoát thân, chỉ hơi sơ sẩy thì họa giáng xuống đầu Cơ Hiểu Phong thấy không xong, thầm nhủ: “Mình thua cũng không sao, nhưng nếu bó tay chịu trói thì sư phụ cũng mất mặt, mình thua cũng phải thua cho vinh quang một chút.” Đường Kinh Thiên từng bước ép tới, Cơ Hiểu Phong đột nhiên xông về phía kiếm của chàng tựa như liều mạng. Đường Kinh Thiên chưng hửng, bởi vì hai bên đã nói trước, trận tỉ thỉ này mỗi bên đại diện cho bổn môn ấn chứng võ công của đối phương, tuy nói binh đao vô tình, sống chết do trời nhưng Cơ Hiểu Phong tội không đáng chết, nếu giết y thì cũng hơi áy náy.
Kiếm thuật của Đường Kinh Thiên đã đến mức thu phát tự nhiên, ý niệm vừa động thì mũi kiếm lập tức trượt sang một bên, nào ngờ Cơ Hiểu Phong chính là muốn chàng như thế, nhân thời Cơ ấy, áp lực giảm xuống thì lập tức thí triển khinh công tuyệt đỉnh Nhất hạc xung thiên phóng vọt người lên, đồng thời thi triển công phu âm dương trảo. 
Loại công phu âm dương trảo này, chân lực của hai chưởng là một nhu một cương, hai luồng lực đạo dẫn dắt lẫn nhau, tạo thành một vòng xoáy, đủ đế chế ngự tiềm lực của Đại tu di kiếm thức phát ra, nếu công lực của Cơ Hiểu Phong bằng năm thành của Mạnh Thần Thông, không những có thể hóa giải áp lực mà còn mượn lực đạo của Đường Kinh Thiên rồi dồn chàng vào chỗ chết. Đường Kinh Thiên liếc mắt lừa, tay trái đè dẫn xuống, xử ra năm phần chân lực, hay cho Cơ Hiểu Phong, y vừa phóng vọt người lên thì đồng thời cũng trong khoảnh khắc ấy đã tấn công Đường Kinh Thiên ba chiêu, ba chiêu này đều là võ công tà phái trong bí kíp của Kiều Bắc Minh, một là âm dương trảo, hai là Tồi tâm chưởng, ba là Huyền âm chỉ, Đường Kinh Thiên dùng bảo kiếm hộ thân, công lực của bản thân lại hơn y, không đến nỗi bị ám toán nhưng cũng hơi núng thế, trong chớp mắt đã để Cơ Hiểu Phong thoát đi.
Cơ Hiểu Phong đang hú hồn, định quay đầu lại trêu mấy câu, nào ngờ chưa đứng vững thì đột nhiên có một luồng ám kình xé gió bay tới, Cơ Hiểu Phong xoay người trên không trung, dù y né tránh lanh lẹ cũng trúng một cây Thiên Sơn thần mãng của Đường Kinh Thiên, lập tức rơi xuống đất.
Đó chính là: Chẳng phải trừ ma đã không sát thủ, vinh nhục sư môn
chuyện chẳng đùa. Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi 48 sẽ rõ