Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Dịch giả: Cổ Nguyệt
Hồi Thứ Tư
Gió bụi kỳ văn truyền hậu thế
Võ lâm bí sự động hùng tâm

Giang Nam mừng rỡ kêu lên: “Có đúng là Bích linh đơn không?” Dương Liễu Thanh cười nói: “Chả lẽ ta gạt ngươi, hãy mau uống vào, ba viên Bích linh đơn ít nhất cũng có được ba năm công lực! ” Giang Nam huơ chân múa tay, cười nói: “Ngày mai tôi không cần lên đường nữa! ” Trâu Giáng Hà ngạc nhiên, hỏi: “Lên đường làm gì? Ồ, té ra huynh đến đây rồi lập tức sẽ ra đi? Mấy năm không gặp mà huynh chỉ ở lại được hai ngày?”
Giang Nam nói: “Muội còn nóng tính hơn cả huynh, muội vẫn chưa hỏi rõ, ta chỉ nói một câu mà muội đã trách ta.” Trâu Giáng Hà bĩu môi nói: “Được, vậy tôi hỏi huynh, huynh sắp phải đi đâu?” Giang Nam nói: “Đi xin Đường Kinh Thiên một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Trâu Giáng Hà cười nói: “Huynh nghĩ thật hay ho. Đường ca ca tuy khẳng khái nhưng cũng không tùy tiện cho huynh một đóa Thiên Sơn tuyết liên. Thôi được, nay đã có ba viên Bích linh đơn thì không cần phải đi xin tuyết liên nữa, hãy mau uống vào.” 
Giang Nam nói: “Không, tôi phải mang về cho đại tẩu của tôi.” Trâu Giáng Hà nói: “Huynh có đại tẩu từ khi nào?” Giang Nam nói: “Tôi gọi công tử của tôi là đại ca, vợ của y chẳng phải là đại tẩu của tôi hay sao?” Trâu Giáng Hà nói: “Ồ, tôi nhớ ra rồi, công tử nhà huynh là người họ Trần, có phải là Trần Thiên Vũ không?” Giang Nam nói: “Đúng thế, chúng tôi đã kết bái làm huynh đệ.”
Trâu Giáng Hà nói: "Ồ, té ra là huynh muốn lấy lòng nghĩa huynh với nghĩa tẩu, nhưng cũng đâu cần dùng loại linh đơn diệu dược hiếm có như thế này!” Giang Nam nói: “Tôi không thể không đem về! Nếu không có Thiên Sơn tuyết liên đại tẩu sẽ mất mạng!” Dương Liễu Thanh thấy họ càng nói càng rối, cười rằng: “Giang Nam, ngươi cứ từ từ mà nói, Hà nhi con đừng cắt lời.”
Giang Nam nói cả một hồi thì mọi việc mới rõ. Lúc này Trâu Giáng Hà mới biết vợ của Trần Thiên Vũ bị trúng độc tiễn cho nên Giang Nam mới đi xin Thiên Sơn tuyết liên, trong lòng hơi tiếc cho chàng nhưng càng bội phục nghĩa khí của chàng, vì thế mới cười nói: “Vậy huynh không thể uống ba viên linh đơn này được. Võ công còn có thể luyện được. Lúc trước cha của Đường Kinh Thiên là Đường Hiểu Lan là đệ tử của ông ngoại tôi, nay võ công của nhà họ Dương chúng tôi tuy không bằng phái Thiên Sơn nhưng nội công thì hơn họ.” Dương Liễu Thanh cười nói: “Hà nhi, con đừng nói bừa, bản lĩnh của Giang Nam hơn con rất nhiều, con định muốn nhận hắn làm đồ đệ?” nhưng Giang Nam lại vái Trâu Giáng Hà một cái rồi nói: “Sư phụ” rồi quay sang Dương Liễu Thanh nói: “Tiểu diệt không học được công phu căn cơ, nếu được dạy từ đầu thì tốt còn gì bằng!” Trâu Giáng Hà mỉm cười né tránh đại lễ của chàng, dưới ánh trăng chỉ thấy đôi gò má nàng hơi ửng hồng. Trâu Tích Cửu bước ra sân, ngửa đầu kêu: “Này, các người đứng trên đó làm gì? Hãy mau xuống tiễn khách.”
Dương Liễu Thanh cười nói: “Giang Nam, đêm nay ngươi trấn áp quần hùng, họ đều muốn gặp ngươi, ta sẽ dẫn kiến cho ngươi.” Giang Nam nói: “Không, tôi không xuống.” Dương Liễu Thanh nói: "Sao, có gì e ngại ư?” 
 Giang Nam nói: “Không, đêm nay người đánh bại kẻ địch không phải là tiểu diệt, tiểu diệt làm sao có thể xuống nghe họ khen ngợi được!” Dương Liễu Thanh cười nói: “Đừng như trẻ con nữa.” Giang Nam lắc đầu quầy quậy: “Không, tiểu diệt phải tìm Kim Thế Di.” Dương Liễu Thanh nói: “Y lai vô ảnh khứ vô hình, biết tìm ở đâu?” Giang Nam nói: “Cô cô không biết tánh tình của Kim Thế Di, y biết tiểu điệt thật lòng tìm thì sẽ tự âm thầm đến tìm tiểu diệt.” Trâu Giáng Hà nói: “Được, muội cũng theo huynh!”  Dương Liễu Thanh lắc đầu, nói: “Hai đứa trẻ này thật ngang bướng, giống lúc ta còn trẻ. Thôi được, dù sao trời cũng đã sắp sáng, sau khi trời sáng mà các con vẫn chưa tìm được tên ăn mày điên rồ ấy thì hãy mau quay về! " Giang Nam tuy nói có vẻ tự tin nhưng thực sự trong lòng cũng không nắm chắc lắm, chàng và Trâu Giáng Hà ra ngọn núi phía sau, kêu lớn một hồi vẫn không nghe tiếng trả lời, Giang Nam dần nhụt chí, Trâu Giáng Hà cười nói: “Kim Thế Di đã đi xa, có lẽ y không nghe được huynh.” “Nói không chừng y đang đi sau lưng của tôi. Y chắc chắn sẽ nghe tôi gọi.” “Nếu y đi sau lưng của huynh, huynh không cần kêu y cũng biết.” Giang Nam nghe Trâu Giáng Hà nói thế cũng có lý, lòng thầm nhủ: “Có lẽ nào Kim Thế Di đã thực sự đi xa.”
Kim Thế Di không đi xa, nhưng chàng cũng không nghe tiếng Giang Nam gọi.
Lúc đó chàng đang đứng trên ngọn núi cao nhất ở sau hồ Đông Bình buông tiếng hú dài! Giang Nam công lực rất kém, tiếng kêu không vọng tới được ngọn núi ấy nhưng tiếng hú của Kim Thế Di thì đã truyền xuống bên dưới, đáng tiếc gió thổi ào ạt, Giang Nam không thể nghe được.
Kim Thế Di âm thầm trợ giúp Giang Nam, bỡn cợt bọn Hách Hạo Xương một hồi, trong lòng rất sung sướng, mà điều đắc ý nhất là chàng đã cho Giang Nam ba viên Bích linh đơn. Năm xưa Đường Kinh Thiên đã nhờ Băng Xuyên thiên nữ giữ lại cho chàng ba viên linh đơn này. Mấy năm nay chàng vốn định trả ba viên linh đơn cho Đường Kinh Thiên, nhưng chàng sợ gặp Băng Xuyên thiên nữ, bởi vì chàng tự nhận Băng Xuyên thiên nữ là tri kỷ duy nhất trong đời mình, mà nay nàng đã lấy Đường Kinh Thiên.
Lúc nãy chàng trao ba viên linh đơn cho Giang Nam, chàng biết Giang Nam muốn lên Thiên Sơn lấy tuyết liên để cửu U Bình, lòng thầm nhủ: \"Ta dùng linh đơn của ngươi cứu bằng hữu của ngươi, ha ha, Đường Kinh Thiên ơi Đường Kinh Thiên, coi như ta không nhận ân huệ của ngươi!”
Một chuyện nữa khiến cho chàng thích thú đó là chàng đã giúp Giang Nam nổi tiếng, lấy được lòng của Trâu Giáng Hà. Thế nhưng trong lòng chàng vẫn có chút bùi ngùi! Đường Kinh Thiên có Băng Xuyên thiên nữ, Trần Thiên Vũ có U Bình. Cả Giang Nam cũng có Trâu Giáng Hà. Còn bản thân chàng? Đến nay chàng vẫn độc lai độc vãng, tìm tri kỷ trong biển người mênh mông! Trong khoảnh khắc ấy hình bóng của Lý Tâm Mai cũng lướt qua trong đầu chàng, chàng biết Lý Tâm Mai đang tìm mình, chàng xem Lý Tâm Mai như áng mây bồng bềnh trên trời cao, còn mình là biển rộng với sóng lớn thét gào. Chàng lớn lên ở hải đảo, biển rộng vô tận, biển và trời nối liền một dải. Chỉ có ở nơi biển và trời liền nhau, mây trắng mới bắt được sóng biếc, tựa như gấm vóc phủ lên mặt biển. Biển cả và mây trời có hai tính cách khác nhau, mây như động nhưng thực sự là tĩnh, còn biển cả, khi bề mặt tĩnh lặng, tâm trạng của nó cũng dạt dào, mây đơn thuần mà biển phức tạp, mây tuy thường kiên nhẫn lắng nghe biển gào thét, nhưng nàng có thể hiểu được bí mật của biển không? Có hiểu được tâm trạng của biển không? 
Lý Tâm Mai lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, nàng chưa bao giờ thấy bộ mặt xấu xa của cõi đời này, cũng chưa từng nếm trải đắng cay của cuộc đời, nàng vẫn là một thiếu nữ vô tư; còn Kim Thế Di? Tuy Kim Thế Di chỉ lớn hơn nàng năm sáu tuổi, nhưng chàng đã trải qua biển lớn cuộc đời. Chàng cảm kích sự quan tâm của Lý Tâm Mai đối với mình, nhưng chính vì thương hại nàng cho nên chàng mới tránh nàng.
Bởi vì chàng chấp nhận sống cuộc đời phiêu bạt trên giang hồ, tựa như sóng lớn không ngừng dập dềnh trên biển cả. Nếu để Lý Tâm Mai phải sống với chàng như thế, chàng cảm thấy đó là một tội lỗi.
Sắc trời dần dần sáng, sương mù ôm núi, mây trắng vờn quanh, Kim Thế Di đứng một mình trên ngọn núi cao tựa như một hòn đảo giữa muôn trùng biển khơi, chàng phát ra tiếng hú dài, mây trên đầu chàng vỡ ra như kinh hoảng trước tiếng hú của chàng.
Trong sương mù nhẹ bay chợt xuất hiện có một bóng đỏ, đó chính là tấm áo cà sa màu đỏ của Tàng Linh thượng nhân. Kim Thế Di thâu nhiếp tinh thần, chỉ trong khoảnh khắc Tàng Linh thượng nhân đã đến trước mặt chàng. 
Kim Thế Di cười ha hả, Tàng Linh thượng nhân cũng lao về phía Kim Thế Di rồi buông giọng cả cười. Kim Thế Di nện cây gậy sắt xuống đất, lạnh lùng hỏi: “Ngươi cười gì?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi cười gì?” Kim Thế Di nói: “Ta cười lúc nãy ngươi không dám động thủ với ta nhưng nay lại đuổi theo, có phải ngươi sợ thất bại trước mặt nhiều người hay không?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta cười ngươi sắp gặp phải họa lớn mà không biết?”
Kim Thế Di nói: “Ta chỉ biết người là đệ nhất của Mật Tông Tây Tạng, té ra ngươi còn là một kẻ xem bói nữa!”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Mạng của ngươi cần gì phải bói, ngươi chắc chắn đã gặp họa sát thân, ai bảo ngươi có di thư của Độc Long tôn giả? Ngươi lộ điện chỉ e ác ma đòi mạng sẽ theo ngươi!” Kim Thế Di cười lạnh: “Có phải ngươi muốn lấy mạng ta không? Hay lắm, hay lắm! Ta đã chán sống lắm, ngươi hãy đến thử xem sao.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta không phải ác ma, ta chỉ là người giúp ngươi giải nạn, không những có thể khiến người chuyển rủi thành lành mà còn giúp ngươi trở thành tông sư của một phái, cho nên muốn được họa hay phúc thì phải xem ngươi.” Kim Thế Đi đã đoán trước y sẽ nói những lời gì, nào ngờ y lại nói ra những lờikỳ dị như thế, chàng chỉ đoán được một nửa.
Kim Thế Di biết mấy năm nay, những ma đầu lợi hại trong tà phái đang âm thầm đi tìm mình. Sự phân biệt giữa chính và tà đương nhiên dựa vào hành vi mà phán đoán, mà về cách tu tập nội công, đường lối giữa hai bên cũng rất khác nhau. Nội công của chính phái coi trọng thuần chính hòa bình, nội công càng sâu thì càng có ích đối với bản thân. Nội công của tà phái coi trọng hung tàn mãnh liệt, cái gọi là tàn có nghĩa là có thể khiến cho người ta tàn phế; cái gọi là liệt là có thể âm thầm đả thương người ta, tựa như ma quỷ nhập hồn không thể nào giải thoát được. Cho nên nội công của tà phái dễ luyện hơn nội công của chính phái, nhưng nội công càng cao thì càng có hại đối với bản thân, tẩu hỏa nhập ma cũng là một trong những hiện tượng này. Kim Thế Di vốn luyện loại nội công thuộc tà phái, may mà khi chàng tẩu hỏa nhập ma đã được Đường Hiểu Lan dùng nội công chính phái của phái Thiên Sơn giải cứu, lại còn cho chàng uống năm viên Bích linh đơn, lúc đó chàng đang ngất xỉu ở dưới chân núi Chu Mục Lang Ma, sau khi tỉnh đậy tuy đã biết là Đường Hiểu Lan cứu mình nhưng không biết ông ta đã cho mình uống năm viên Bích linh đơn cho nên mấy năm vừa qua chàng hoàn toàn không có hiện tượng tẩu hỏa nhập ma, vả lại cảm thấy nội công càng lúc càng tinh thuần, cả chàng cũng hơi ngạc nhiên.
Còn các ma đầu tà phái thì lại không biết, bọn chúng nghe đồn Độc Long tôn giả đã để lại cho Kim Thế Di một quyển Độc long bí kíp, loại võ công trong bí kíp này có thể giúp cho chàng không bị tẩu hỏa nhập ma, bọn họ truy tìm Kim Thế Di là để lấy Độc long bí kíp. Nào ngờ Độc Long tôn giả cũng chết bởi tẩu hỏa nhập ma, võ công trong Độc long bí kíp tuy lợi hại nhưng cũng không có cách nào giúp ông ta tránh khỏi tẩu hỏa nhập ma.
Kim Thế Di biết Tàng Linh thượng nhân là một trong những ma đầu đang đuổi theo mình, nhưng không ngờ Tàng Linh thượng nhân lại bảo giúp chàng. Điều đó khiến cho chàng kinh ngạc.
Tàng Linh thượng nhân nhìn chàng rồi nói: “Ngươi không tin sao? Ta hỏi ngươi, từ xưa đến nay, người không phải xuất thân từ chính phái mà luyện được võ công đến mức cao nhất là ai?” Kim Thế Di buông giọng cả cười, Tàng Linh thượng nhân nói: “Ta biết ngươi đang cười điều gì, ngươi tưởng rằng ta muốn nói đến Độc Long tôn giả sư phụ của ngươi? Nếu đó là sư phụ của ngươi, ngươi đương nhiên không cần ta giúp đỡ.” Kim Thế Di hừ một tiếng rồi ngạo mạn nói: “Không phải sư phụ của ta thì là ai?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Tôn sư võ công tuy lợi hại, nhưng nhiều nhất là chỉ có thể tránh được cái họa do luyện nội công tà phái. Ông ta có thể dung hợp nội công của hai phái chính tà, luyện thành một loại nội công không phải chính cũng chẳng phải tà, lại vượt hơn hẳn hai phái tà chính hay không?” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Nếu luyện đến cảnh giới đó thì đã đến mức siêu phàm nhập thánh, hơn hẳn các bậc tôn sư võ học từ xưa đến nay!” Tàng Linh thượng nhân nói: “Đúng thế, ta chính là muốn ngươi trở thành một bậc đại tôn sư như thế! Ta quen biết một người, ngươi có muốn cùng ta bái y làm sư phụ không?” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ta và ngươi hẹn y tỉ thí, nếu y chịu nổi ba trăm gậy của ta ta sẽ cam lòng bái y làm sư phụ!” 
 Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi muốn đánh y ba trăm gậy? Đáng tiếc y đã chết gần ba trăm năm nay!” Kim Thế Di tức giận nói: “Ngươi lặn lội đường xa từ Tây Tạng đến đây chỉ muốn đùa như thế thôi sao?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Không, không phải là chuyện đùa. Ngươi có từng nghe cái tên Kiều Bắc Minh chưa? Y là người sống vào thời Thành Hóa triều Minh, là lãnh tụ của tà phái đương thời, cả sư phụ của thủy tổ phái Thiên Sơn là Hoắc Thiên Đô cũng từng bại dưới tay y, hành tung của y rất kỳ dị. Tuy thời gian đã khá dài nhưng đến nay vẫn còn lưu truyền!” Kim Thế Di nói: “Lúc đó y đối chọi với học trò của đại hiệp Trương Đan Phong, từng gây ra cơn sóng gió, sau này bị chính phái võ lâm vây đánh, cuối cùng chết dưới kiếm của Trương Đan Phong. Hoắc Thiên Đô là người khai sáng ra kiếm thuật phái Thiên Sơn, còn Hối Minh thiền sư mới chính thức khai tông lập phái. Võ công của Kiều Bắc Minh đã sớm thất truyền. Ngươi muốn bái một người chết làm thầy? Nói thực, dù Kiều Bắc Minh có sống lại ta cũng không phục y!”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi biết một mà không biết hai. Kiều Bắc Minh không hề chết dưới kiếm của Trương Đan Phong, ông ta chỉ bị trọng thương sau đó chạy đến một đảo nhỏ ở miền Đông Hải. Mặc cho ngươi có phục y hay không, nhưng y đã dung hợp được võ công tuyệt thế của hai phái chính tà, đối với chúng ta, những kẻ không đi bằng đường chính rất có ích!” “Những kẻ không đi bằng đường chính”mà Tàng Linh thượng nhân vừa mới nói chính là những người trong tà phái, Kim Thế Di nghe thế thì giật mình, nén không được hỏi: “Tại sao ngươi biết tiếp đó ông ta chạy đến hải đảo? Chuyện này đã xảy ra ba trăm năm trước, sao ngươi lại dám nói chắc chắn như thế?” 
Tàng Linh thượng nhân nói: “Sau này có một hải khách gặp sóng gió trên biển, trôi dạt đến hải đảo ấy, lúc đó Kiều Bắc Minh đã quá trăm tuổi, biết không còn sống được bao lâu nữa cho nên đã làm một cỗ quan tài bằng gỗ dày, trong quan tài có chứa hương liệu tốt nhất để thân xác không bị thối rữa, ngươi có biết tại sao ông ta lại coi trọng thân xác của mình không?” Kim Thế Di nói: “Bởi vì ông ta sống ở hoang đảo quá lâu cho nên một lòng mong muốn trở về cố hương.” Đó là bởi vì từ nhỏ sống với Độc Long tôn giả ở Xà đảo, chàng mới hiểu được tâm trạng này. Tàng Linh thượng nhân nói: “Đúng thế, khi còn sống, ông ta không thể trở về trung thổ, sau khi chết cũng mong muốn có thể trở về. Lúc đó ông đã hợp nhất nội công của hai phái chính tà, tin rằng từ xưa đến nay không ai bì nổi, nhưng đáng tiếc không có truyền nhân. Mà tuổi thọ của ông ta lại có hạn, lúc đó đã quá già yếu, biết rằng không thể nào vượt biển trở về. Vì thế đã phát lời thề rằng ai có thể đưa quan tài ông trở về Trung Nguyên chôn cất thì coi như đó là đệ tử cách thế của ông ta, lấy được võ công tuyệt thế của ông ta. Đáng tiếc người hải khách ấy là thương nhân, chẳng hiểu gì về võ công, cũng chẳng có ý học võ. Nhưng ông ta đã sống cùng Kiều Bắc Minh trên hải đảo ba tháng trời, nghe Kiều Bắc Minh kể lại nhiều chuyện lạ trong võ lâm, lại còn bảo đã giải quyết xong những vấn đề khó khăn trong võ học. Người hải khách nghe ông ta thao thao bất tuyệt nhớ được rất nhiều lời của ông ta, đương nhiên chỉ là nhớ mà thôi chứ không hiểu được sự ảo diệu trong đó.” Kim Thế Di càng nghe càng thấy li kỳ, nhìn vẻ mặt của y cũng không phải là giả.
Kim Thế Di nửa tin nửa ngờ, hỏi: “Sau này người hải khách ấy như thế nào?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Kiều Bắc Minh giúp y chặt cây kết bè, mùa xuân năm sau gió mùa nổi lên thì ông ta trở về trung thổ.” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ngươi bịa câu chuyện này thật hay, đáng tiếc đã lộ sơ hở.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Sơ hở chỗ nào?” Kim Thế Di nói: “Người hải khách trở về nếu bị đắm giữa đường thì bí mật ấy sẽ nằm dưới đáy biển. Dù cho y may mắn có thể vượt biển trở về trung thổ, chắc chắn có thể tung tin ra, người trong võ lâm đương nhiên kẻo tới, có lẽ nào cho đến hơn ba trăm năm sau mà vẫn không ai biết?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi hỏi rất đúng, nhưng người hải khách ấy không trở về trung thổ mà trôi sang Ba Tư. Sau đó y cưới vợ sinh con, đời sau của y cũng trở thành người Ba Tư, không về Trung Quốc nữa.”
Kim Thế Di nói: “Nếu như thế tại sao ngươi lại biết?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ba mươi năm trước, ta nhận được lời mời của quốc vương nước Nê Bách Nhĩ, lúc ta ở nước Nê Bách Nhĩ dã quen biết một võ sĩ Ba Tư, ta cùng y đã đến nước A Phú Hán, thuận đường ghé Ba Tư chơi một chuyến. Nhờ thế ta gặp được hậu nhân của người hải khách ấy, cả nhà y đã quên tiếng Trung Quốc, cả chữ Trung Quốc cũng chẳng biết.” Kim Thế Di nói: “Nếu y không biết nói tiếng Trung Quốc, nhưng tại sao có thể nhớ tổ tiên của mình đã từng trôi dạt ở một hoang đảo, gặp một kẻ tên Kiều Bắc Minh?”
Tàng Linh thượng nhân nói: “Người hải khách ấy đã ghi lại nhật ký hải hành, sau khi thoát khỏi hoang đảo đã ghi thêm vào nhật ký. Hậu nhân của người hải khách gặp ta, biết ta từ Trung Quốc đến thì rất vui mừng.”  Kim Thế Di nói: “Do đó y bảo tổ tiên của y cũng là người Trung Quốc, lại còn đưa quyến nhật ký hải hành của tổ tiên y cho ngươi xem?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đoán không sai tí nào, chính là như thế. Giờ thì ngươi đã tin chưa?” Kim Thế Di nói: “Tin ngươi thì thế nào?” “Kiều Bắc Minh đã hứa rằng, ai có thể đưa quan tài của y trở về trung thổ thì người ấy chính là đệ tử cách thế của y, nói như thế chắc chắn trong quan tài có bí mật, rất có thể y đã cất bí kíp trong quan tài. Nếu không sau khi y chết thì làm sao có thể truyền thụ cho đệ tử?”
Kim Thế Di cười lạnh nói: “Ngươi đã biết bí mật này tại sao không tự mình đi tìm mà lại muốn cùng hưởng với ta? Ta với ngươi đâu có giao tình gì?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Có ba nguyên nhân ta muốn đi cùng ngươi là bởi vì ta không biết đi biển, còn ngươi lại lớn lên trên Xà đảo ở miền Đông Hải; thứ hai ngươi cũng biết nội công của ta không phải tu luyện theo chính phái, giờ cũng đã nguy ngập, trong vòng ba năm lúc nào ta cũng có thể bị tẩu hỏa nhập ma. Ngươi có thể tránh được kiếp nạn tẩu hỏa nhập ma, chắc là đã biết được cách giải cửu trong di thư của lệnh sư, ta không dám mượn sách của ngươi, nhưng mong ngươi chỉ điểm cho ta vượt khỏi kiếp nạn này. Nếu không có thể ta chưa tìm được quan tài của Kiều Bắc Minh thì đã chui vào quan tài trước.”
 Kim Thế Di nói: “Làm sao ngươi biết sư phụ đã để lại di thư cho ta?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Thật không dám giấu, lúc còn sống Đổng Thái Thanh đã từng nói với ta.”
Kim Thế Di vỡ lẽ ra, cười rằng: “Té ra ngươi chịu đến giúp cho Hách Hạo Xương kỳ thực là muốn xem thử Đồng Thái Thanh đã chết hay chưa.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Nếu không phải vì chuyện này, chả lẽ ta lại đi bức hiếp một người đàn bà như Dương Liễu Thanh sao? Khi còn sống Đổng Thái Thanh đã bảo, y đi tìm một quyển sách của lệnh sư ở Xà đảo, sau đó mới kết giao với ngươi. Theo y nói, Độc long bí kíp là võ công do lệnh sư sáng tạo, mà quyển di thư ông ta trao lại cho ngươi lại có ghi cách phá giải tẩu hỏa nhập ma.” Kim Thế Di cười thầm, té ra Đổng TháiThanh đến Xà đảo chỉ tìm được một quyển nhật ký của sư phụ chàng, trong đó có một trang quan trọng nhất là dự đoán núi lửa ở Xà đảo sẽ bùng nổ mười năm sau khi ông ta chết, đồng thời ghi lại cách tránh nạn này chứ chẳng phải võ công ảo diệu gì cả.
Còn quyển nhật ký này không phải là do Đổng Thái Thanh đích thân giao cho chàng mà bởi Phùng Lâm cướp được từ tay Đổng Thái Thanh, sau đó Phùng Lâm đưa cho Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan gặp Kim Thế Di ở Hy Mã Lạp Nhã mới trao cho chàng. Sở dĩ Đổng Thái Thanh nói dối như thế là muốn xúi giục các đại ma đầu ở tà phái đối đầu với chàng. Kim Thế Di biết được đầu đuôi câu chuyện nhưng vẫn không vạch trần lời nói dối của Đổng Thái Thanh mà cười ha hả với Tàng Linh thượng nhân: “Té ra ngươi tính toán như thế, nếu Đổng Thái Thanh chưa chết, có lẽ ngươi sẽ tìm đến y.” Tàng Linh thượng nhân cười ngượng ngùng: “Không, ta chỉ muốn hỏi thăm thử xem chuyện này có đúng hay không.” Ngập ngừng rồi lại nói: “Kim Thế Di, ngươi cần gì phải đa nghi như thế? Cuộc giao dịch này đều có lợi cho đôi bên chúng ta, ngươi giúp ta phá giải mầm họa tẩu hỏa nhập ma, ta giúp ngươi tìm bí mật trong quan tài của Kiều Bắc Minh, nói không chừng vì thế mà ngươi sẽ trở thành một bậc võ học tôn sư xưa nay chẳng ai bằng!”
Kim Thế Di buông giọng cười rằng: “Đa tạ tấm thịnh tình, nhưng nói như thế ta được lợi hơn ngươi rất nhiều.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Chẳng phải sao?” Kim Thế Di nói: “Ngươi đã nói hai nguyên nhân, còn một nguyên nhân nữa?” Tàng Linh thượng nhân nói: “Chúng ta liên thủ với nhau thì trên đời này có ai địch nổi? Đó là nguyên nhân thứ ba mà ta tìm đến ngươi.” Kim Thế Di nói: “Té ra ngươi sợ có người biết phong thanh cho nên muốn ta giúp đỡ.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi đừng quên rằng, nay đang có vài đại ma đầu âm thầm truy đuổi ngươi, ngươi cần ta giúp đỡ hơn là ta cần ngươi giúp đỡ.”
Kim Thế Di lại cười ha hả, Tàng Linh thượng nhân nói: “Này, vậy ý ngươi thế nào?” Kim Thế Di nói: “Người đã tốt với ta như thế, lẽ nào ta lại không chấp nhận? Được, bây giờ ta sẽ giúp ngươi trừ mầm họa tẩu hỏa nhập ma.” Tàng Linh thượng nhân cả mừng, hỏi: “Ngươi có bí quyết gì truyền thụ?” Kim Thế Di nói: “Không, ngươi hãy cúi xuống.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Cúi xuống làm gì?” Kim Thế Di nói: “Ta sẽ đánh vào mông ngươi ba cái!” Tàng Linh thượng nhân thộn mặt ra, đột nhiên cả giận, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng đã cướp lời: “Tàng Linh thượng nhân, ngươi cần gì phải nghi ngờ? Võ công của sư phụ ta rất ảo diệu, đánh ba cái vào mông có thể khiến cho trăm huyệt của ngươi thông suốt, chân khí nghịch chuyển từ dưới lên trên, tất cả mầm họa trong người ngươi đều bị tiêu trừ!” Tàng Linh thượng nhân nửa tin nửa ngờ: “Ngươi có đùa đấy không?” Kim Thế Di nói: “Nếu ngươi không tin thì thôi vậy.” Tàng Linh thượng nhân đành phải phục ở dưới đất, để cho chàng đánh ba cái vào mông.
Kim Thế Di giở gậy lên đập liên tục ba gậy vào mông của y, rồi đột nhiên chàng cười lớn: “Ta đang đùa với ngươi đấy!”
Tàng Linh thượng nhân nổi giận đùng đùng nhảy vọt lên, rút phắt đôi đồng bạt lên, hai cái bạt vỗ vào nhau đánh choang một tiếng, rồi lập tức giáng về phía Kim Thế Di bằng một chiêu Song phong quán nhĩ, Kim Thế Di hất hai cái đồng bạt ra kêu lên: “Ngươi chẳng phải muốn hợp tác cùng ta sao?” Tàng Linh thượng nhân cả giận mắng: “Sao lại có lẽ này, ta có tấm lòng Bồ Tát mà người lại bỡn cợt ta.” Kim Thế Di cười lạnh: “Nếu ngươi có tấm lòng Bồ Tát thì ta chính là Phật Tổ đại từ đại bi. Ta đánh ba cái vào mông của ngươi, không thừa cơ đánh chết ngươi thì đã đủ đại từ đại bi rồi chứ? Hừ, Kim Thế Di này độc lai độc vãng, cần gì phải hợp tác với nhà ngươi?” Tàng Linh thượng nhân múa tít đôi đồng bạt đánh tới, Kim Thế Di thấy y đánh quá mạnh mẽ, chiêu số kỳ diệu thì cũng không dám khinh địch, sau khi chàng né được ba chiêu của y thì quát rằng: “Ta đánh ba cái vào mông của ngươi, nhường ngươi ba chiêu, nếu ngươi đánh nữa thì ta không lưu tình.” Tàng Linh thượng nhân vỗ hai cái đồng bạt vào nhau phát ra tiếng kêu đinh tai nhức óc rồi lại giáng xuống đầu Kim Thế Di, Kim Thế Di nói: “Ngươi thật đáng ghét!” thế rồi chàng giở cây gậy sắt gõ xuống, chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau vang lừng cả bốn bên, Tàng Linh thượng nhân lùi bước đột nhiên phóng vọt người lên, hai cái đồng bạt múa ra một cuộn hàn quang rộng đến cả trượng vuông bao trùm Kim Thế Di vào ở giữa, Kim Thế Di cười lạnh: “Ngươi thực sự muốn liều mạng với ta ư?” thế rồi chàng kéo cây gậy, rút ra một thanh thiết kiếm, tay phải cầm kiếm tay trái cầm gậy tấn công mạnh mẽ đến nỗi đất trời nghiêng ngả, chỉ trong chốc lát tiếng bạt của Tàng Linh thượng nhân dần dần nhỏ lại, ánh hàn quang cũng bị phá tản mát. Kim Thế Di chợt quát lớn một tiếng. cây gậy sắt vung lên. lại gõ xuống một chiêu Ngũ đỉnh khai sơn, một tiếng choang thật lớn vang lên, đôi đồng bạt của Tàng Linh thượng nhân vỡ ra làm tư, tai mắt mũi miệng đều đổ máu.
Tàng linh thượng nhân cũng thật ghê gớm, đã bị nội thương mà vẫn có thể cất bước chạy như bay, vừa chạy vừa mắng: “Kim Thế Di, nhà ngươi là tên quái vật không thông tình đạt lý, chết đến nơi mà vẫn không biết. Ta không cần trả thù, những kẻ đối địch của ngươi kéo tới thì ngươi có nước chết chắc!” Kim Thế Di cười ha hả: “Ngươi hãy giữ hơi lại, đừng nổi giận, chỉ e ngươi phải đến gặp Diêm Vương trước.” Tàng Linh thượng nhân quả nhiên không dám mắng nữa trong chớp mắt đã chạy mất dạng. Kim Thế Di cười rộ lên một hồi, đột nhiên nhớ lại bí mật mà Tàng Linh thượng nhân vừa mới nói, tim đập thình thình, chàng vội vàng chạy xuống núi.
Đó chính là: Võ công tuyệt thế tìm ở đâu? Hãy xem phong ba Đông Hải nổi.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi năm sẽ rõ.