Kim Thế Di vừa lo vừa giận, chàng không có lòng nghe tiếp, vừa thấy tên đồ đệ của Mạnh Thần Thông cầm roi bước ra thì lập tức lẳng lặng bám theo. Nhưng hán tử ấy đi tới trước bộ hòn non bộ thì hắng giọng, khẽ gọi: “Lục sư đệ, thất sư đệ” đã y không nghe thấy tiếng trả lời thì hơi ngạc nhiên, thế là đưa tay ra xoay hòn non bộ hai vòng, hai tảng đá đột nhiên tách ra, lộ một cánh cửa. Kim Thế Di cả mừng, nghĩ thầm: “Té ra bọn chúng nhốt Tâm Mai muội muội ở đây!” 
Ngay lúc này chợt nghe tiếng chuông tiếng trống ở ngoài vườn vang dậy, có người kêu lên: “Kim Thế Di đã vào trang!” “Ai nấy đứng yên chỗ cũ, không được rối loạn đợi sư phụ ra bắt y.” Hán tử ấy định chạy vào sơn động, chợt nghe Kim Thế Di đã vào thì thất kinh, bất đồ quay đầu lại, nào ngờ Kim Thế Di đã đứng ở sau lưng y.” 
Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Kim Thế Di không đợi y lên tiếng, tay phải đã đánh ra một chiêu Kính Đức đoạt tiên chụp cổ tay của y, tay trái xỉa vào huyệt khiếu âm của y. Hán tử toàn thân cứng đờ, Kim Thế Di giật cây roi rồi tung cước đá y bật ra. Chàng quay dầu lại nhìn chỉ thấy bóng đen thấp thoáng, nhưng lại không thấy có người chạy về hướng của mình. Té ra không phải vì Kim Thế Di bám theo hán tử này mà bị phát hiện mà là khi chàng vào trong trang chỉ điểm huyệt hai tên đệ tử của Mạnh Thần Thông nằm yên trong vòng một canh giờ, thế nhưng hai tên này cũng có được hai phần bản lĩnh của sư phụ, cho nên vận khí phá giải, không đầy nửa canh giờ thì đã giải được huyệt đạo. Bọn chúng có thể lên tiếng, cho nên Kim Thế Di mới bị lộ.
Kim Thế Di nhân lúc Mạnh Thần Thông chưa đến, thầm nhủ: “Tốt xấu gì cũng phải cứu Tâm Mai ra.” Thế rồi vung cây roi vào trong động, chỉ cảm thấy đầu roi chạm phải hai người, nhưng hai người này lại không chống cự, chẳng giống người sống, Kim Thế Di giật mình bước vào trong động, ngưng thần nhìn vào, trong bóng tối lờ mờ chàng vẫn có thể nhận ra ở dưới đất có hai hán tử, Kim Thế Di tung ra một cước nhưng cả hai đều không có phản ứng, khi sờ mũi thì thấy đã đứt hơi từ lâu. Kim Thế Di thất kinh, thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là lục sư đệ và thất sư đệ của tên lúc nãy, nhưng ai đã giết bọn chúng?” Nhưng tình thế lúc này rất cấp bách, Kim Thế Di không kịp suy nghĩ, chàng đưa mắt nhìn tới thì thấy trong góc động có một bóng người ốm yếu nằm co quắp, Kim Thế Di vừa kinh vừa mừng, khẽ kêu: “Tâm Mai muội muội, ta đến đây!”
Bóng đen ấy chợt lên tiếng: “Ta biết thế nào ngươi cũng tới!” trong khoảnh khắc điện quang hỏa thạch ấy, Kim Thế Di chợt cảm thấy cổ tay bị nắm chặt, hổ khẩu đã bị một cái cương tráo chụp chúng, lúc này Kim Thế Di đã nhìn rõ, té ra đó chẳng phải là Lý Tâm Mai mà là nàng thiếu nữ che mặt đêm qua, lúc này nàng đã lột mạng che mặt, nàng lạnh lùng nói: “Không được đến gần, nếu không ta nhả lực ra bóp nát xương cổ tay của ngươi, dù ngươi có giết ta thì cũng đã tàn phế!”
Đây là lần đầu tiên trong đời Kim Thế Di bị người ta ám toán, chỉ nghe thiếu nữ ấy lại nói: “Có phải ngươi đến cửu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?”
Kim Thế Di ngầm vận nội kình, đột nhiên cười lạnh: “Muốn ám toán ta cũng đâu dễ?” Chàng dùng công phu Xúc cốt, thiếu nữ ấy nhận ra, chưa kịp siết cương trảo thì bàn tay nàng đã trượt ra ngoài.
Kim Thế Di chưa kịp ngừng cười, nàng đã sớm thu lại cương trảo, rồi cười nói: “Uổng cho người là Độc thủ phong cái, đã trúng độc mà cũng không biết. Kim Thế Di giật mình, phát giác mạch môn hơi ngứa chàng thử vận chân khí đẩy ra, cổ tay đã đau đớn như bị dao cắt. Kim Thế Di lớn lên ở Xà đảo, tuy bản thân không thích dùng độc nhưng là đại hành gia của môn này, biết nàng ta đã nói thật, nghĩ bụng cây cương trảo của nàng chắc có chất kịch độc, lúc nãy mình chỉ muốn rút tay ra, nhưng lại để cho cương trảo của nàng cào rách da. Kim Thế Di cố nén cơn giận, cười lạnh nói: “Trước khi ta phát độc cũng có thể giết chết ngươi, ngươi có tin không?” Thế là chụp hai tay của nàng.
Chàng trợn trừng mắt, nhìn nàng chằm chằm, toan hù dọa ra sau đó sẽ hành hạ nàng. Với võ công của nàng thiếu nữ,tuy không thể là đối thủ của Kim Thế Di nhưng nếu muốn chống cự thì vẫn có thể được một lúc, Kim Thế Di không ngờ rằng nàng chẳng hề chống lại, khi nhìn vào mặt nàng thì chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Kim Thế Di ngạc nhiên lắm, chỉ nghe nàng khẽ cười “Ta tin rằng ngươi có bản lĩnh giết ta. Nhưng chúng ta cần gì phải lưỡng bại câu thương? Ngươi vẫn chưa đáp lời ta, có phải ngươi đến đây cứu nữ đệ tử họ Lý của phái Thiên Sơn không?” 
Kim Thế Di đang nôn nóng biết tung tích của Lý Tâm Mai, chỉ đành đáp: “Đúng thế. Lý cô nương đang ở đâu?” nàng thiếu nữ trả lời: “Nếu là thế có phải ngươi cũng đến kiếm Mạnh Thần Thông tính sổ không?” Kim Thế Di nói: “Nói mau, ngươi rốt cuộc có gặp Lý cô nương không?”
Thiếu nữ ấy từ tốn trả lời: “Cần gì phải nôn nóng như thế, khu vườn này rất rộng, bọn chúng không ngờ rằng ngươi nấp ở nơi này. Trước khi Mạnh Thần Thông tìm ra ngươi, chúng ta vẫn còn thời gian trò chuyện” Từ trước đến giờ Kim Thế Di chỉ bỡn cợt người khác, nhưng lần này đành phải bó tay, chàng gằn giọng nói: “Ngươi muốn nói gì?”
Nàng thiếu nữ nói: “Đêm qua ta không biết ngươi giúp ai, sau đó ta thấy ngươi chế phục đệ tứ của Mạnh Thần Thông, lẻn vào Mạnh gia trang mới đoán được vài phần. Chả lẽ ba kẻ vây đánh ta đêm qua cũng do ngươi hạ?” Kim Thế Di nói: “Ngươi biết thì tốt, tại sao ngươi còn lấy ân báo oán?” Thiếu nữ cười: “Lúc đó ta vẫn chưa biết. Huống chi lòng người hiểm ác, ngươi lại là một kẻ ma đầu, ta với người bèo nước gặp nhau, ta làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ngươi?” kêu đồng bọn rút lui. Những kẻ chưa bị thương và bị thương nhẹ đỡ những người đã bị thương nặng vượt tường tháo chạy, Trần Thiên Vũ và U Bình tuy đã toàn thắng nhưng họ cũng chẳng biết tại sao mình đã thắng!  U Bình đút kiếm vào vỏ, phất ống tay áo quạt khí âm hàn ra, xé một mảnh áo băng vết thương cho chồng rồi nói: “Không biết là cao nhân phương nào đã ngầm giúp chúng ta? Chàng có đau không?” Trần Thiên Vũ nói: “May mà không trúng xương. Không biết mùi hương hoa A Tu la từ đâu tới!” U Bình định hỏi hoa A Tu la là gì, chợt thấy Giang Nam tập tễnh bước ra, mặt lộ vẻ lo lắng, nói: “Công tử, tôi đã dắt nhầm kẻ thù đến nhà, công tử hãy xử phạt.” Trần Thiên Vũ nhíu mày nói: “Từ rày về sau phải cẩn thận hơn! Mau kêu người nhà rửa sạch vết máu dưới sân. Chuyện lúc nãy đừng nói ra ngoài.”
Giang Nam vâng một tiếng, chàng chợt ngẩn người ra, lúc này sương lạnh của Băng phách thần đạn đã tan theo gió, U Bình nhìn theo ánh mắt Giang Nam, chỉ thấy dưới gốc hòe trong sân có một thiếu nữ che mặt đang ngồi, trên tay nàng là một đóa hoa đã khô. Đóa hoa có hai màu đỏ và trắng trông rất kỳ lạ. Trước kia khi còn ở trong băng cung, U Bình đã thấy rất nhiều loại hoa kỳ lạ, nhưng chưa bao giờ thấy loại hoa này! U Bình giật mình: “Chả lẽ đây là hoa A Tu la?” nhưng chợt thấy thiếu nữ ấy cúi đầu, tóc tai rối bời, run lên bần bật, từng cánh hoa rơi lả tả xuống đất, tựa như nàng ta không chịu nổi cơn lạnh. Giang Nam đứng thộn mặt ra, lạc giọng kêu lên: “Chính là nàng, người đã thổi Hồ Ca!” Trần Thiên Vũ kêu “Ồ” một tiếng, U Bình vội vàng chạy đến, lấy ra một viên Dương hòa hoàn có tác dụng chống lại khí lạnh, dịu dàng nói: “Đa tạ cô nương đã giúp chúng tôi đánh lui kẻ địch.” Lúc này U Bình rất cảm kích, đang định vạch mạng che mặt giúp nàng uống thuốc. Nàng thiếu nữ chợt phóng vọt người dậy, phát ra tiếng cười quái dị, còn U Bình thì kêu thảm một tiếng, ngã ngửa xuống đất, trên ngực cắm một mũi tên ngắn đen bóng, đuôi tên vẫn còn rung bần bật!  Trong khoảnh khắc ấy Trần Thiên Vũ kinh hoảng đến ngây người ra, chỉ nghe nàng thiếu nữ cười rú lên: “Thứ ta không lấy được cũng mãi mãi chẳng giữ được!” Trần Thiên Vũ phóng vọt người lên chụp vào vai của thiếu nữ ấy, gằn giọng quát: “Ngươi... ngươi là ai? Tại sao hạ độc thủ như thế?” Sau cuộc ác chiến, chàng lại hít phải mùi thơm của hoa A Tu la, lúc này vốn đã đuối sức. Chàng phóng vọt lên nhảy bổ tới khiến cho vết thương trên vai vỡ ra, đứng không vững chân cho nên kéo thiếu nữ ấy cùng ngã xuống đất. Thiếu nữ chợt kéo mạng che mặt xuống, đôi mắt long lanh tựa khóc mà không phải khóc, như cười mà cũng chẳng phải cười, nàng nhìn Trần Thiên Vũ sững sờ, Trần Thiên Vũ kêu lên lạc giọng như gặp phải ma quỷ: “Ngươi... ngươi là Tang Bích Y?” Thiếu nữ ấy đột nhiên cười rú lên, rồi nàng nói tiếp: “Đúng thế, ngươi đã nhận ra ta, vị hôn thê của ngươi đã đến tìm ngươi, chúng ta cùng đi thôi!” rồi đột nhiên nàng rút ra thêm một mũi tên ngắn, đâm vào cổ họng Trần Thiên Vũ, Giang Nam kêu hoảng. Trần Thiên Vũ mặt xám ngoét như xác chết, lòng thầm than: “Oan nghiệt, oan nghiệp” rồi chàng nhắm mắt chờ chết, chợt nghe soạt một tiếng, Trần Thiên Vũ mở mắt nhìn lại thì ra mũi tên ấy không phải đâm vào cổ họng của mình mà là đâm vào ngực của nàng thiếu nữ. Chỉ nghe nàng thiếu nữ thở dài, thều thào nói: “Thiên Vũ, ngươi hay lắ! Ngươi không chịu đi cùng ta có phải không? Dẫu sao ta cũng đã giết ả, một mình ngươi sống trên đời sẽ rất đau lòng. Thiên Vũ, ngươi hãy để ta cột lại dây giày cho ngươi.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, rồi người cũng đổ ập xuống dưới gối của Trần Thiên Vũ, hai tay thì nắm giày của chàng. Nàng thiếu nữ che mặt chính là con gái của Thổ Ti Tát Ca. khi Trần Định Cơ làm Tuyên úy sứ ở Tát Ca, bị Thổ Ti của Tát Ca uy hiếp, đành phải hứa cưới con gái của Thổ Ti cho con trai của mình. Lâu nay Trần Thiên Vũ không hề thừa nhận hôn sự này, chàng cũng đã chạy trốn. Sau này Thổ Ti đã bị một thiếu nữ người Tạng là Chi Na đâm chết, thế là hôn sự cũng ta vỡ. Không ngờ sau khi Trần Thiên Vũ trở về Giang Nam, Tang Bích Y đã vượt đường xa muôn dặm tìm chàng. Nàng vốn muốn đâm chết Trần Thiên Vũ, nhưng khi xuống tay thì đột nhiên không nỡ lòng, cho nên trở ngược mũi tên đâm vào ngực mình. Trần Thiên Vũ đẩy nhẹ Tang Bích Y ra, thì ra dây giày của mình đã bị xổ, té ra theo phong tục của Tây Tạng, thiếu nữ buộc dây giày cho một người đàn ông nào đó thì có nghĩa là trái tim của nàng đã thuộc về người ấy, trước đây Tang Bích Y đã từng buộc dây giày một lần cho Trần Thiên Vũ, lúc đó Trần Thiên Vũ không biết phong tục này. Tang Bích Y vẫn nhớ mãi hôn ước, cho đến chết vẫn muốn làm vợ của chàng, vì thế trước khi ra đi nàng vẫn muốn buộc dây giày cho Trần Thiên Vũ.
Trần Thiên Vũ rút chân ra, đưa tay sờ thì thấy Tang Bích Y đã đứt hơi. Trong không khí thê thảm ấy, máu chàng tựa như đông lại, chàng vội vàng chạy đến bên cạnh U Bình, nhưng U Bình đã nhắm tịt hai mắt, mặt không hề có sắc máu. Mảnh áo trên vai nàng đã bị Tang Bích Y xé rách, cả bờ vai của nàng bị bầm đen, chàng thấy mũi tên độc cắm vào ngực của U Bình, nghĩ bụng chắc nàng không thoát khỏi cái chết. Trần Thiên Vũ đứng ngẩn người ra, rút soạt thanh kiếm, trở mũi kiếm lại toan đâm vào yết hầu của mình. Trải qua biến cố lần này, chàng quả thật không muốn sống một mình trên đời để đau lòng nữa.  Giang Nam đang đứng bên cạnh, thấy thế thì tung ra một cước, đá bay thanh kiếm của Trần Thiên Vũ, kêu lên: “Công tử, xem kìa, đầu của thiếu phu nhân còn cử động được!” Trần Thiên Vũ nhìn lại, mái tóc của U Bình đang phất phơ theo gió, thần trí của nàng hơi tỉnh hơn, chàng nghĩ thầm: “Đúng thế, mình phải cố hết sức.” Vì thế mới kêu Giang Nam vào trong lấy cao đơn hoàn tán giải độc ra, chàng không dám rút mũi tên độc, chỉ nắm chặt hai tay của U Bình, cảm thấy mạch đập của nàng mỏng manh như sợi tơ, tuy hơi yếu nhưng vẫn chưa đoạn hoàn toàn.
Một hồi sau, Giang Nam đã đem ra tất cả các loại thuốc giải độc, Trần Thiên Vũ chọn hai loại thuốc mà U Bình đã lấy về từ băng cung, rồi vạch áo bôi vào vết thương, sau đó lại nhẹ nhàng xoa bóp, độc khí đã tản mát, qua một hồi lâu sau, U Bình hơi hé mắt, miệng mấp máy, Trần Thiên Vũ kề tai vào miệng nàng. Chỉ nghe nàng khẽ nói: “Đừng làm khó nàng ta!” Ý của U Bình là muốn nói Tang Bích Y. Trần Thiên Vũ nhói lòng, nói: “Nàng đã chết!” U Bình nói: “Chàng đừng căm hận nàng, cứ chôn nàng theo lẽ phu thê. Nếu muội chết, huynh cứ chôn muội bên cạnh nàng!” Trần Thiên Vũ thổn thức nói: “Không, muội không thể chết được.” Lúc này bên trong nhà có tiếng người ồn ào, Trần Thiên Vũ lòng rối bời, hỏi Giang Nam: “Lão gia thế nào rồi?” Giang Nam nói: “Lão gia hoảng quá đến nỗi ngã bệnh.” Trần Thiên Vũ bế U Bình vào phòng rồi vội vàng đến thăm cha. May mà Trần Định Cơ vì già cả yếu ớt, hoảng quá thành bệnh chứ không hề gì.
Suốt mấy ngày qua Trần Thiên Vũ ngồi bên giường chăm sóc cho vợ, không biết cây tên của Tang Bích Y đã tẩm loại độc gì mà tuy có linh dược của băng cung cũng chỉ có thể ngăn thương thế không mở rộng mà thôi. May mà được Đường Kinh Thiên chỉ điểm tâm pháp nội công chính tông, cho nên mỗi ngày chàng đều đùng nội công thượng thừa phối hợp với linh dược của băng cung trị thương cho U Bình. Lại cũng nhờ U Bình có căn cơ võ công vững chắc, kéo dài được đến ngày thứ tư thì nàng mới có thể ăn uống được một chút, mạch đập cũng hơi mạnh hơn nhưng vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. Trần Thiên Vũ vừa chăm sóc cho cha, vừa trông coi vợ, quả thật rất mệt mỏi.
Hôm nay U Bình đã hơi tỉnh táo, thấy Trần Thiên Vũ sắc mặt tiều tụy thì nàng buồn bã thở dài: “Muội đã liên lụy huynh ra nông nỗi này, chi bằng cứ để muội chết cho xong.” Linh dược của băng cung cũng không thể giải độc, chắc là không có thầy thuốc nào trị nổi. Mấy năm nay muội được hưởng phước, dẫu cho có chết sớm cũng nhắm mắt.” Trần Thiên Vũ nói: “Đừng nghĩ càn, muội không thể chết được!” chàng tuy nói cứng như thế nhưng đó chỉ là an ủi cho U Bình, thực ra trong lòng chàng cũng chẳng có cách gì hay. U Bình chợt nói: “Huynh đã xây mộ cho Tang Bích Y chưa?”
Trần Thiên Vũ nói: “Mấy ngày qua huynh đã bảo Giang Nam đốc công xây xong.” U Bình nói: “Nàng tuy ra tay ác độc nhưng cũng vì si tình. Huynh đừng đối xử tệ với nàng.” Trần Thiên Vũ nói: “Huynh đã chôn cất nàng theo lời muội.” U Bình nói: “Tốt lắm, sau này nếu gặp nàng ở suối vàng, muội cũng yên lòng.” Trần Thiên Vũ nói: “Muội hãy vì huynh, đừng nói những lời đau lòng ấy được không?” có linh dược của băng cung, lại thêm công lực của bản thân muội đủ cho trong nhất thời không thể khỏe hẳn, nhưng vẫn có thể giữ được lánh mạng.” U Bình cười thảm nói: “Hàng ngày huynh phải trông coi một người sắp chết như thế này, huynh không phiền muộn nhưng muội thì rất đau đớn!” nàng ngừng một lát rồi lại nói: “Có một chuyện muội vẫn chưa cho huynh biết, năm xưa Đường Kinh Thiên lần đầu tiên đến băng cung, đã viết đôi câu đối cho muội: “U cốc hoang sơn, nguyệt sắc tẩy thanh nhan sắc. Bình ngạnh liên diệp, vũ thanh tích toái hà thanh” nghĩ lại muội quả thực chỉ hợp sống ở nơi u cốc hoang sơn, khi theo huynh về nơi trần thế phồn hoa này, trái lại đã khiến huynh đau lòng vì muội suốt một đời!” Trần Thiên Vũ đang rối bời ruột gan, chàng chợt sực tỉnh, mừng rỡ kêu lớn: “Đúng rồi, sao huynh lại không nhớ ra chứ? Giang Nam, Giang Nam!”
U Bình nói: “Huynh đã nhớ được gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đường Kinh Thiên, Thiên Sơn tuyết liên? May mà muội nhắc đến ông ta. Thiên Sơn tuyết liên có thể giải bách độc, còn lo gì?” U Bình cười khổ sở: “Thiên Sơn cách đây bao xa?” Trần Thiên Vũ nói: “Nếu dùng khoái mã đi và về nhiều nhất không quá nửa năm. Trong thời gian này huynh sẽ điều trị cho muội, có lẽ bệnh tình sẽ không chuyển biến xấu!” lúc này Giang Nam đã vội vàng chạy vào, đứng cúi đầu chờ trước giường bệnh, vẻ mặt rất lo lắng. Trần Thiên Vũ nói: “Giang Nam, tôi muốn nhờ ngươi hai chuyện.” Giang Nam kêu ối chao rồi nói: “Sao công tử lại nói thế? Công tử đối với tôi rất tốt, có chuyện gì thì cứ sai khiến, dù nước sôi lửa bỏng Giang Nam cũng không nhíu mày!” Trần Thiên Vũ nói: “Làm phiền ngươi hãy đến băng cung một chuyến, xin Đường đại hiệp một đóa Thiên Sơn tuyết liên.” Vì lần này Giang Nam đã dắt kẻ địch đến, Trần Thiên Vũ tuy không trách, nhưng rất áy náy trong lòng, lúc nào cũng không yên, nay nghe Trần Thiên Vũ bảo đi lấy Thiên Sơn tuyết liên, chàng nghĩ chắc đó là một loại thuốc giải độc, không khỏi cả mừng nói: “Công tử hãy yên tâm, Giang Nam chắc chắn sẽ làm được.” Trần Thiên Vũ nói: “Đường sá xa xôi, người phải cẩn thận mới được.”
Giang Nam nói: “Đương nhiên, nếu trên đường gặp kẻ cường địch, nếu tránh được thì tránh, không tránh được tôi sẽ liều mạng với bọn chúng.” Trần Thiên Vũ nói: “Ta không lo diều này. Tuy trên đường nhiều cường đạo, nhưng ngươi chẳng mang theo vật gì đáng tiền, vả lại võ công của ngươi đã có tiến bộ, đủ ứng phó với bọn mã tặc thông thường. Điều quan trọng nhất là đừng gây sự.” Giang Nam nói: “Được, tôi sẽ giả vờ chẳng biết võ công, dù có bị đánh tôi cũng không trả đòn.” Trần Thiên Vũ nhíu mày: “Đâu có ai vô duyên vô cớ đánh mắng ngươi. Ngươi không gây chuyện đã là tốt lắm.” Ngừng một lát rồi trịnh trọng nói: “Ta còn nhờ ngươi một chuyện nữa.”
Giang Nam nói: “Công tử cứ căn dặn, Giang Nam sẽ nghe theo.” Trần Thiên Vũ nói: “Ngươi phải nhớ kỹ hai câu nói này!” Giang Nam vội vàng hỏi: “Câu nói gì?” Trần Thiên Vũ nói: “Đành rằng phải nói chuyện với người khác nhưng không thể vạch áo cho người xem lưng. Trên giang hồ hạng tiểu nhân gian xảo nào cũng có, ngươi phải sửa tật lắm lời.” Giang Nam đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Khi đi đường người khác hỏi tôi hai câu, tôi sẽ đáp một câu. Người ta hỏi mươi câu tôi sẽ đáp bốn câu. Nếu y có lai lịch bất minh, tôi sẽ giả vờ câm điếc. Quyết không dám làm hỏng chuyện lớn của
công tử.” U Bình nghe chàng nói một hồi thì bật cười, Giang Nam nói: “Bây giờ còn đang ở nhà, tôi có nói thêm vài câu cũng chẳng hề chi. Thiếu phu nhân hãy yên tâm, khi đi đường tôi sẽ kín như bưng!” Trần Thiên Vũ mỉm cười nói: “Ta rất cảm kích tấm lòng trung thành của ngươi đối với ta. Trước đây ngươi là thư đồng của ta, từ rày về sau đừng gọi ta là công tử nữa.” Giang Nam nói: “Đợi sau khi lấy được Thiên Sơn tuyết liên thì đổi cách xưng hô cũng được. Công tử có còn căn dặn gì nữa không?” Trần Thiên Vũ nói: “Chỉ có một việc ngươi có thể dò hỏi ở trên đường đó là tin tức của Kim Thế Di.” Nói rồi lấy ra hai trăm lượng bạc đưa cho chàng làm lộ phí, lại sai người dắt con ngựa tốt giống Đại Uyển ra cho Giang Nam. Trần Thiên Vũ đưa Giang Nam ra khỏi thôn, dặn dò một hồi rồi mới vẫy tay cáo biệt.
Trên suốt quãng đường Giang Nam nhớ kỹ lời đồn của Trần Thiên Vũ, quả nhiên không dám nói nhiều. Chàng phóng ngựa rất nhanh, mỗi ngày sáng sớm đã lên đường, đến trời tối thì tìm nơi tá túc, đến ngày thứ năm thì đã đi hơn một ngàn dặm đường, chàng nhủ thầm: “Đi nhanh như thế này không cần nửa năm, nhiều nhất bốn tháng là
có thể quay về.” Nào ngờ đến ngày thứ sáu thì gặp phải một chuyện bất ngờ, suýt nữa khiến chàng mất mạng.
Đó chính là: “Giang hồ sóng gió xưa nay lắm, vượt qua đâu dễ đã bao người?”
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Dịch giả: Cổ Nguyệt
Hối Thứ Sáu ( TT)

Số là bà bà của Phùng Lâm chính là Võ Quỳnh Dao một trong Thiên Sơn thất kiếm, anh trai của Võ Quỳnh Dao là Võ Quỳnh Hóa có hai người cháu, người anh tên gọi Võ Định Châu, người em tên gọi Võ Định Cầu. Tính ra cũng có quan hệ thân thích, tuy dã tương đối xa nhưng hậu nhân của Thiên Sơn thất kiếm vài ba năm thì gặp nhau một lần, nếu chưa thành niên thì càng thường gặp nhau hơn, cho nên anh em nhà họ Võ từ nhỏ đã rất thân quen với Lý Tâm Mai, họ biết chuyện nhà của nàng, đó đương nhiên không có chuyện gì lạ. Còn chàng thiếu niên kia chính là đệ tử duy nhất mà Đường Hiểu Lan đã thu nhận, tên gọi Chung Triển. Năm xưa Băng Xuyên thiên nữ lên Đà Phong, trước khi gặp vợ chồng Đường Hiểu Lan đã từng đánh với y một trận.
Chuyện này Kim Thế Di đã từng nghe Băng Xuyên thiên nữ kể. Kim Thế Di biết lai lịch của hai người này, trong lòng dâng lên nỗi thắc mắc, chỉ nghe Võ Định Cầu tiếp tục nói: “Hôm ấy, tôi đang luyện kiếm với Tâm Mai ở trong sân, Đường đại hiệp bước vào nói chuyện với mẹ Tâm Mai về Kim Thế Di. Đường đại hiệp bảo, Kim Thế Di đã mất tích nhiều năm, ông ta nhờ người đi tìm khắp nơi mà vẫn chẳng hề có tin tức, chỉ e lành ít dữ nhiều. Rồi ông ta lại nhắc đến hôn sự của Tâm Mai, sư thúc có biết ông ta nhắc đến ai không? Đó chính là người mẹ của Tâm Mai xưa nay mau mắn, bà bảo đã biết tâm ý của con gái, trừ phi biết rõ Kim Thế Di đã chết, nếu không e rằng cũng rất khó khuyên nàng, nhưng cũng lo con gái sẽ lỡ tuổi thanh xuân, bảo rằng sau khi hỏi con gái thì mới nghĩ đến mối hôn sự này. Tâm Mai đang ở trong vườn với tôi đương nhiên nghe rất rõ ràng lời họ nói, nàng nghĩ bà cũng có ý muốn cho nàng nghe. Lúc đó tôi cũng thấy thần sắc của nàng có hơi kỳ lạ, nhưng cũng không để ý, không ngờ tối hôm ấy nàng đã bỏ trốn xuống núi”
Chung Triển thở dài, nói: “Té ra Tâm Mai sư muội đã bỏ trốn vì chuyện này!”  Võ Định Cầu cười rằng: “Tiểu sư thúc, người đừng quá lo lắng. Nàng bỏ trốn xuống núi đương nhiên là đi tìm Kim Thế Di, cứ để nàng thỏa lòng cũng được. Nàng đi tìm khắp nơi không thấy, biết chắc Kim Thế Di đã chết, chả lẽ suốt đời nàng không lấy ai nữa?” Chung Triển im lặng không nói. Võ Định Cầu lại bảo: “Kẻ tôi căm ghét nhất là tên quái vật Kim Thế Di, đúng là một tên ăn mày điên khùng, Tâm Mai đã thích y như thế, thậm chí cả mẹ của nàng, sư phụ của sư thúc đã phí nhiều công sức vì chuyện y còn sống hay đã chết? Y chết thì không sao, nếu Tâm Mai mất tích vì y e rằng chúng ta lại phải đi tìm nàng!” Chung Triển nói: “Chúng ta đã tìm nửa năm mà chẳng hề nghe tung tích nàng. Nàng xưa nay ngang ngạnh, một thiếu nữ trẻ tuổi mà một mình đi lại trên giang hồ, mong rằng nàng không xảy ra chuyện gì thì tốt.” Võ Định Cầu nói: “Sư thúc đúng là tình sâu ý nặng, đáng tiếc nàng không biết điều đó. Thực ra cũng không cần lo lắm, võ công của Đường đại hiệp là thiên hạ đệ nhất, võ công của nàng cũng chẳng kém chúng ta. Trên giang hồ có mấy người có thể địch lại nàng? Dù cho có thể thắng nàng, chỉ cần động thủ với nàng thì lẽ nào không biết nàng là đệ tử của phái Thiên Sơn? Sư thúc thử nghĩ xem, ai dám đụng đến môn hạ của phái Thiên Sơn?”.
Kim Thế Di ngồi bên ngoài cửa sổ ngẩn người ra, chàng thầm nhủ: “Không ngờ Tâm Mai lại có tình sâu ý nặng với mình như thế, đã bốn năm qua mà vẫn chẳng hề thay đổi! Người họ Chung nhân phẩm hình như cũng không tệ. Còn tên họ Võ thì thật đáng ghét.” Võ Định Cầu vẫn không ngừng nói trong phòng, vừa nguyền rủa Kim Thế Di vừa chọc cười Chung Triển.
  Kim Thế Di bực mình, móc một ít bùn ở dưới đất vo lại, chàng đưa tay chọc rách giấy cửa sổ bắn viên bùn ấy vào miệng Võ Định Cầu.
Thế mà cả hai chàng thiếu niên không biết trời cao đất dày nhảy dựng dậy, Chung Triển rút cây thanh cương kiếm treo trên vách đâm ra cửa sổ, Võ Định Cầu cũng nhảy ra, y tức giận đến nỗi ngoác mồm mắng: “Tên khốn kiếp ở đâu dám hí lộng tiểu gia?” Tiếng mắng chưa dứt thì một viên bùn lại bay tới, lúc này Võ Định Cầu né tránh rất nhanh, viên bùn trúng bốp vào mặt y, vừa thối vừa ướt nhèm nhẹp. Kim Thế Di cố ý để cho họ đuổi theo, Chung Triển biết võ công của người này cao hơn mình nhưng Võ Định Cầu đã đuổi theo, cả hai người coi như là đồng môn cho nên y cũng chỉ đành chạy theo. Kim Thế Di dụ họ ra ngoài ngoại ô, chốc chốc thì ném lại một hòn đá hoặc một viên bùn trêu ghẹo họ.
Khinh công của Kim Thế Di cao mình hơn họ nhiều, họ đuổi mãi mà chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng của Kim Thế Di, đến khi không đuổi thì bùn và đá lại bay tới khiến Võ Định Cầu cứ ngoác mồm mắng mãi không thôi. Chung Triển lanh lẹ hơn, nhủ thầm: “Chẳng lẽ người này là Kim Thế Di?” nghĩ chưa đứt, chợt nghe một tiếng hú dài chói tai vọng tới, chiếc bóng ở trước mặt đã biến mất dạng.
Kim Thế Di rẽ sang một con đường nhỏ, quay về khách sạn trước hai người Võ, Chung.
Kim Thế Di vừa đi vừa cười thầm, nào ngờ vừa mới về đến phòng thì phát hiện có một sự việc khiến chàng không thể cười được nữa.
Đó là một cây ngọc thoa, Kim Thế Di bước vào phòng thì thấy có cây ngọc thoa trên bàn, cây ngọc thoa phát ánh sáng lấp lánh, Kim Thế Di cầm lên nhìn, chàng ngạc nhiên đến nỗi không đám tin vào mắt mình, đó là một cây ngọc thoa hình bươm bướm, kiểu dáng rất đặc biệt, đó chính là vật trang sức của Lý Tâm Mai, từ lúc Kim Thế Di gặp gỡ cho đến khi chia tay nàng, nàng vẫn thường cắm cây ngọc thoa này. “Ở đâu ra thế này? Chả lẽ Tâm Mai tìm đến mình?” Kim Thế Di nhặt cây ngọc thoa lên, đoán bừa một hồi, khi nhìn kỹ thì thấy trên cây ngọc thoa có vết máu nhàn nhạt.”Có phải nàng đã bị thương? hay là nàng muốn bày tỏ tâm ý của mình?” Kim Thế Di cầm cây ngọc thoa mà như nhìn thấy Lý Tâm Mai, nhớ lại giọng nói nét cười của nàng, nhớ lại ánh mắt u oán củaụng, muốn rút lui ra khỏi vòng chiến, nào biết Kim Thế Di rất kỳ quặc, toàn sử dụng những chiêu số nửa hư nửa thực, một mặt cố ý chặn đường rút của nàng, một mặt lại dẫn chiêu số của ba ma đầu đánh về phía nàng ta. Võ công của cả ba ma đầu này đều thuộc hàng nhất lưu, nàng hơi lơi lỏng, suýt nữa đã bị chúng đánh bị thương, nàng chỉ đành thâu nhiếp tinh thần, triển khai kiếm pháp tinh diệu, chặn thế công của bọn chúng lại.
Kim Thế Di chính là muốn nàng như thế, cho nên cố ý để nàng che trước mặt mình, tiếp phần lớn chiêu số của ba ma đầu còn chàng ở một bên tìm cơ hội tấn công tựa như trêu đùa, nhưng thực ra chàng đang âm thầm để ý sơ hở của cả ba.
Nàng thiếu nữ đang bực mình, chợt nghe Kim Thế Di quát: “Trúng!” Cây gậy sắt vểnh lên, đánh ra một chiêu Cử hỏa thiêu thiên, Côn Luân tản nhân vừa vỗ ra một đòn Đại thủ ấn, bị cây gậy của chàng chọc trúng thì đau đến tận tim phổi, Kim Thế Di cười ha hả, chàng chợt xoay người rồi phun một bãi nước bọt về phía Tang Mộc Lão, Tang Mộc Lão vội vàng lộn người phóng ra, Kim Thế Di đuổi theo như hình với bóng, giở gậy lên giáng mạnh một gậy xuống mông của mụ. Tang Mộc Lão kêu lớn, lăn người xuống đất, khi đứng dậy thì thấy Côn Luân tản nhân đã vượt qua trước mặt mụ, chân phóng như bay, té ra gân cổ tay của y đã bị Kim Thế Di đánh đứt lìa, phải luyện trở lại ba năm nữa công phu Đại thủ ấn mới hồi phục được. Từ trước đến giờ Tang Mộc Lão chưa từng chịu nhục như thế này, nhưng mụ ta cũng còn biết mình biết ta, thấy Côn Luân tản nhân đã chạy trước thì biết mình quay lại liều mạng cũng sẽ bị Kim Thế Di làm nhục lần nữa. Vì thế mụ cũng bắt chước Côn Luân tản nhân, ba mươi sáu kế chạy là thượng sách, thế là cũng co giò bỏ chạy chẳng màng đến Kim Nhật nữa.
Kim Nhật còn một mình, bị thiếu nữ ấy dồn ép phải thối lui từng bước, Kim Thế Di nện cây gậy sắt xuống, nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi cứng cỏi lắm, ta tha cho ngươi, sao ngươi vẫn chưa đi, còn đợi khi nào nữa?” Kim Nhật thở dài, thu lại cây gậy, gằn giọng nói: “Nếu ta không thể sáng tạo ra một loại võ công mới, từ rày về sau không bao giờ đến Trung Nguyên nữa.” Kim Thế Di nói: “Cũng không cần phải thề như thế, nào, chúng ta kết làm bằng hữu!” rồi chàng đưa tay ra, Kim Nhật thầm nhủ: “Nếu y có ý giết mình, mình có chạy cũng chẳng thoát.” Thế rồi thản nhiên đưa tay ra nắm lấy tay chàng, nhưng chợt cảm thấy chưởng lực của Kim Thế Di dồn tới, Kim Nhật giật mình, vội vàng vận công chống trả, y vừa nhả chưởng lực ra, thì đột nhiên cảm thấy chưởng lực của Kim Thế Di tiêu biến chẳng còn tăm hơi, còn bàn tay của chàng thì vuột ra khỏi tay Kim Nhật như con cá kình, Kim Nhật chợt mất trọng tâm loạng choạng lao về phía trước mấy bước. Kim Thế Di cười nói: “Ngươi đã không té, hay lắm, ngươi có tâm cơ như thế thì có thể sáng tạo ra được một phái võ công, ngươi hãy đi!” Kim Nhật lúc này mới biết Kim Thế Di có ý muốn thử công phu của y, mặt đỏ ửng, không biết nên khóc hay nên cười, thế rồi cũng co giò bỏ chạy.
Giang Nam nhảy ra khỏi động, kêu lớn: “Đánh rất hay!” Kim Thế Di chợt nghiêm mặt nói: “Giang Nam, ngươi hãy mau nấp vào động trở lại tiếp tục làm con chuột nhắt đi. Ta vẫn đánh chưa đã!” Giang Nam đang định hỏi thì Kìm Thế Di đã quét một gậy về phía thiếu nữ ấy!
Giang Nam kêu lên: “Hỏng bét, Kim đại hiệp đã trúng tà rồi?” Nàng thiếu nữ giật mình thất kinh, nhưng khinh công của nàng tuyệt đỉnh, Kim Thế Di tuy đánh gậy ấy rất bất ngờ nhưng nàng đã né kịp.
Nàng chưa kịp lên tiếng hỏi Kim Thế Di đã đánh tiếp chiêu thứ hai, chiêu này dùng cả gậy lẫn kiếm, lợi hại hơn trước nhiều, nàng thiếu nữ dốc hết bản lĩnh ra nhảy vọt người lên, cây gậy của Kim Thế Di đánh vù một tiếng quét vào bắp chân nàng, cây kiếm thì đánh ra một chiêu Tiềm long thăng thiên đâm vào bụng của nàng, thiếu nữ đang trên không trung mà vẫn có thể xoay người, khi người nàng xoay qua cây Sương hoa kiếm chém xéo ra đánh keng một tiếng, hai kiếm giao nhau, nàng thiếu nữ phóng người hạ xuống đất, kêu lên: “Này, ngươi muốn gì thế?” 
Nàng chưa dứt lời, Kim Thế Di lại vung gậy lên, đánh tiếp ra một chiêu Đại bằng triển xí cây gậy sắt chỉ đông đánh tây, kiếm gậy chỉ nam đánh bắc, kiếm và gậy đều mở rộng tựa như chim đại bàng giang cánh, một luồng cuồng phong nổi lên kêu vù vù, cát chạy cát bay. Giang Nam kêu ối chao một tiếng, trên trán đã bị trúng một hòn đá, chàng vội vàng nép mình trong động, Trâu Giáng Hà kẻo chàng lại xem, miệng thở phào nói: “Còn may, vẫn chưa bị thương. Kim Thế Di quả thật kỳ quặc.”
Giang Nam nói: “Y chắc chắn đã trúng tà, tôi muốn đưa cho y một viên Bích linh đơn để y xua tà giải độc, nhưng họ đánh dữ dội như thế, có cách gì đến gần họ? Hỏng bét, ngoại trừ có một người bị đối phương đánh ngất, nếu không trận này rất khó giải!”
Nàng thiếu nữ thấy Kim Thế Di đánh chiêu sau hung dữ hơn chiêu trước, gậy giáng kiếm đâm tựa như sông dài biển rộng cuồn cuộn dồn tới, nàng buộc lòng toàn thần ứng phó, thi triển hết tất cả những chiêu số tinh diệu trong Huyền nữ kiếm pháp, vừa đánh vừa lấy làm lạ, nàng thấy Kim Thế Di chẳng hề có vẻ đùa giỡn, vả lại đánh còn dữ dội hơn ba ma đầu lúc nãy, “chả lẽ y đột nhiên nổi điên?” có điều chiêu số của chàng liên miên không ngớt, chẳng hề rối loạn, chẳng giống như thần trí mê loạn.
Nàng thiếu nữ kinh ngạc, nhưng vì Kim Thế Di đánh quá hung mãnh, nàng không thể lên tiếng, chỉ dành ngậm tăm mà chống đỡ.
Một hồi sau, hai người đã giao thủ đến bốn năm mươi chiêu mà vẫn chưa phân thắng bại. Đang lúc kịch chiến, Kim Thế Di chợt quát lớn một tiếng, bổ xuống một gậy, gậy này chàng đã dùng đủ mười thành công lực, bốn mặt tám phương đều là bóng gậy, dồn tới như dời núi lấp biển, Giang Nam đứng trong động nhìn ra mà kinh tâm động phách, chàng không khỏi kêu lên kinh hãi, chỉ trong khoảnh khắc nữa nàng thiếu nữ dung mạo đẹp tựa như hoa ấy sẽ mất mạng dưới gậy của Kim Thế Di.
Trong khoảnh khắc nguy ngập ấy, Giang Nam vẫn chưa nhìn rõ, chàng chợt cảm thấy hoa mắt, nàng thiếu nữ phóng vọt người lên, đầu kiếm điểm vào đầu gậy, mượn luồng kình lực của Kim Thế Di bắn vọt người lên rồi lộn người lao ra cách đó đến mấy trượng Kim Thế Di chợt thu cây gậy, cười ha hả: “Tốt lắm, cô nương quả nhiên là đệ tử của Lữ Tứ Nương!”
Giang Nam toát mồ hôi lạnh toàn thân, lúc này mới biết Kim Thế Di có ý thử võ công của nàng. Số là Độc Long tôn giả sư phụ của Kim Thế Di từng có quan hệ sâu sắc với Lữ Tứ Nương, ông ta bỏ tà theo chính là nhờ có Lữ Tứ Nương thuyết phục.
Độc Long tôn giả chẳng bao giờ phục ai cả, chỉ phục có một mình Lữ Tứ Nương, cho nên thường kể với Kim Thế Di về chuyện của Lữ Tứ Nương. Do đó từ nhỏ Kim Thế Di đã có ấn tượng sâu sắc với tên của Lữ Tứ Nương. Chàng thấy nàng thiếu nữ tự nhận là học trò của Lữ Tứ Nương, kiếm pháp lại tinh diệu, trong lòng đã có cảm tình, nhưng chàng chưa bao giờ thấy kiếm pháp của Lữ Tứ Nương, cho nên không dám đoán rằng nàng đã sử dụng Huyền nữ kiếm pháp của bà ta, nói cách khác cũng có nghĩa là không dám đoán chắc rằng nàng là đệ tử của Lữ Tứ Nương, nhưng chàng vẫn nhớ sư phụ đã từng kể với chàng về một chiêu Huyền nữ kiếm pháp, khi Lữ Tứ Nương gặp Độc Long tôn giả đã từng dùng chiêu này hóa giải đòn sát thủ lợi hại nhất của Độc Long tôn giả, cho nên mấy mươi năm sau mà Độc Long tôn giả vẫn còn nhớ như in. Lúc nãy Kim Thế Di thử võ công của nàng thiếu nữ là muốn buộc nàng sử dụng chiêu này.
Giang Nam thò đầu ra khỏi sơn động, thấy Kim Thế Di đã đút cây đoản kiếm vào trong gậy, chậm rãi bước về phía thiếu nữ, nàng giơ ngang kiếm trước ngực, chăm chú nhìn Kim Thế Di, tựa như đề phòng chàng bất ngờ ra tay. Giang Nam cười thầm, chỉ thấy Kim Thế Di bước tới trước mặt nàng ta, hỏi: “Lữ Tứ Nương chỉ thu một đệ tử là cô nương sao?” Nàng ta nói: “Đúng thế, ngươi hỏi điều này làm gì?” Kim Thế Di nghiêm mặt, chợt cúi đầu vái thiếu nữ ấy, rồi buông tay quá đầu gối, đó chính là đại lễ long trọng nhất trên giang hồ? Trên giang hồ ngoại trừ đệ tử hành lễ quỳ xuống trước mặt sư phụ, kẻ vãn bối gặp bậc trưởng bối, dùng lễ tiết này là thể hiện sự tôn kính nhất. Nàng thiếu nữ cả kinh, vội vàng tránh qua, Kim Thế Di nói: “Tôi vái sư phụ của cô nương, cô nương đừng tránh, cũng đừng trả lễ, nếu không là coi thường tôi?” Sau khi bái xong chàng chợt khóc rống lên.
Giang Nam thầm nhủ: “Y biết nàng ta là đệ tử của Lữ Tứ Nương, chỉ cần hành lễ là đủ, sao lại khóc đau lòng như thế? Chả lẽ y đã thực sự trúng tà?” Đang định lên tiếng khuyên nhủ, chợt nhớ Kim Thế Di bảo chàng tiếp tục làm chuột nhắt, trong lòng hơi bực cho nên quay trở lại trong động.
Nàng thiếu nữ thấy Kim Thế Di làm thế thì luống cuống cả một lúc sau mới nói: “Té ra ngươi biết sư phụ ta đã qua đời?” Kim Thế Di nói: “Tôn sư được chôn ở đâu?”
Thiếu nữ đáp: “Ở trên Mang Sơn, bên cạnh mộ của sư tổ.”
Kim Thế Di nói: “Đáng tiếc suốt đời này tôi không có duyên gặp người nữa.”
Trong mắt nàng thiếu nữ ươn ướt, nàng biết chuyện sư phụ của mình thu phục Độc Long tôn giả, lòng thầm nhủ: “Té ra đệ tử của Độc Long tôn giả, kẻ mà ai ai cũng gọi là quái vật trên võ lâm lại là một người có tình có nghĩa như thế này.” Thấy chàng khóc quá đau lòng, nàng an ủi rằng: “Nhưng sư phụ của tôi đã gặp người hai lần, có điều người không biết đấy thôi.” Kim Thế Di nói: “Ở đâu?” Nàng ta nói: “Một lần ở trên núi Nga Mi”. Kim Thế Di nhớ lần đó chàng đã bị ma đầu Động Minh Tử đánh bị thương, đã chạy xuống núi, chàng không khỏi đỏ mặt nói: “Một lần nữa ở đâu?” Lần đó là ở Hy Mã Lạp Nhã. Sư phụ của tôi thấy người định trèo lên đỉnh Chu Mục Lang Ma, nhưng người không thấy sư phụ tôi.”Có chuyện này không?” Suốt đời Kim Thế Di đã có hai lần thất bại. Một lần là bị Động Minh Tử đánh bị thương, một lần là không thể trèo lên được đỉnh Chu Mục Lang Ma, không ngờ đều bị Lữ Tứ Nương thấy. Nàng thiếu nữ nói: “Sư phụ của tôi khen ngợi võ công của người.” Kim Thế Di vừa mừng rỡ vừa hổ thẹn, hỏi: “Người có còn nói gì về tôi không?” thiếu nữ nhìn Kim Thế Di rồi nói: “Không có. Sư phụ tôi chỉ nói một câu rằng hy vọng người phát dương quang đại võ công của lệnh sư.” Kim Thế Di rất thông minh, thấy ánh mắt của nàng thiếu nữ hơi kỳ lạ, đoán rằng nàng nhất định còn lời nhưng không chịu nói, nếu là người khác thì Kim Thế Di sẽ buông lời mỉa mai, hoặc tìm cách buộc nàng nói ra, nhưng đã biết nàng là đệ tử của Lữ Tứ Nương Kim Thế Di chỉ đành rầu rĩ, chẳng dám làm gì cả. Đó là lần đầu tiên trong đời chàng tự trói buộc mình.
Trâu Giáng Hà thì thầm: “Kim đại hiệp thật thú vị, vừa rồi đánh nhau với người ta một trận, nay lại cười nói như không. Tựa như lúc huynh mới gặp tôi, Giang Nam nói: “Thế ư? Nói như thế Kim đại hiệp chắc chắn sẽ kết bằng hữu với nàng thôi.”
Trâu Giáng Hà chợt thây lòng xao xuyến, nàng đỏ ửng mặt thầm nhủ: “Té ra ngươi vừa gặp đã muốn kết bằng hữu với ta rồi ư?” nàng không nói ra lời ấy, chỉ thấy Kim Thế Di lại vái dài nàng thiếu nữ, nàng ta lách người sang một bên, cười nói: “Lại chuyện gì nữa?” Kim Thế Di nói: “Ba tên ma đầu ấy thật sự là tìm đến tôi, đa tạ cô nương đã giúp tôi chặn bọn chúng. Hơn nữa vừa rồi tôi đã vô lễ với cô nương, tôi cũng nên xin lỗi cô nương.” Nàng thiếu nữ cười: “Không sao cả. Người không muốn thử võ công của tôi, tôi cũng muốn thử võ công của người. Nay tôi cũng nhận ra quả nhiên người là đệ tử của Độc Long tôn giả. Không những võ công mà tính tình của người cũng giống như lệnh sư.”
Kim Thế Di ngạc nhiên: “Cô nương đã gặp sư phụ tôi từ lúc nào?” nàng thiếu nữ nói: “Là sư phụ của tôi đã nói. Người bảo nửa đời trước lệnh sư là một quái nhân, sau đó đã dần dần thay đổi. Có phải như thế không?”
Kim Thế Di hơi buồn bã gật đầu: “Cô nương nói chẳng sai.” Lòng thầm nhủ: “Sư phụ gặp phải Lữ Tứ Nương, người hiểu tâm sự của mình nên tính tình dần dần thay đổi. Mình thì không may mắn như người.” 
Nàng thiếu nữ nói: “Vừa rồi người đã cứu tôi, tôi cũng nên đa tạ người. ”Nói rồi vái Kim đỏ như máu, mũi hếch lên trời. Còn một người thân hình cao lớn tựa như dân du mục Hồi Cương, hai tay dài hơn người bình thường, khi đi cứ đung đưa, ngón tay buông đài quá gối. Còn một người nữa là một bà già gầy đét, hai lỗ tai đeo hai xâu khuyên tai, khi đi xâu khuyên tai đánh vào nhau kêu leng keng, cũng ăn mặc như người Tây Tạng. Ba người này đến trước cửa động, cả ba ngó nghiêng một hồi, người Tạng tóc đỏ nói: “Tàng Linh thượng nhân đã nấp ở đâu rồi?” người tay dài bảo: “Ở đây không còn vết máu nữa, lẽ nào y đã leo lên núi?” bà già hừ một tiếng rồi chợt nói: “Chính là ở đây, các người không ngửi được sao?”
Giang Nam thất kinh, thầm nhủ: “Lỗ mũi của lão yêu phụ thật thính!” chợt nghe bà già ấy lại nói: “Ta đã ngửi thấy mùi của Tàng Linh thượng nhân, chắc chắn y nấp ở gần đây.” Người Tạng tóc đỏ kêu lớn bằng tiếng Tạng: “Tàng Linh thượng nhân, bọn ta không có ác ý, mời ra gặp mặt!” kêu liền cả mấy tiếng mà vẫn không ai trả lời. Người Hồi tay dài nói: “Gần đây lại không có sơn động, y nấp ở đâu?” Bà già kêu lên: “Tàng Linh thượng nhân, nếu ngươi không ra nữa thì bọn ta đành đắc tội!” rồi quay lại nói với hai người kia: “Chắc chắn y nấp trong kẹt đá, chúng ta lôi y ra!” rồi mụ ta vung tay, một tảng đá nứt làm đôi, Giang Nam cả kinh: “Nếu bị mụ tóm lấy thì chắc sẽ toi mạng!” chàng chợt thấy Trâu Giáng Hà đứng sát lại, nàng hơi run rẩy, Giang Nam nắm chặt bàn tay nàng, thì thầm trấn an: “Đừng sợ, bọn chúng làm ồn như thế, Kim đại hiệp chắc chắn sẽ tới.” Trâu Giáng Hà toát mồ hôi, khẽ kêu hừ một tiếng: “Chờ đến khi Kim đại hiệp của huynh đến thì chúng ta đã rơi vào tay bọn chúng.”
Người Hồi tay dài nói: “Được, chúng ta hãy cùng ra tay!” rồi vung ra một đòn Phách không chưởng, chỉ nghe ầm một tiếng, một tảng đá rơi xuống, người Tạng  đỏ nói: “Không có ở đây!” rồi trở tay vỗ ra một chưởng, một tảng đá lớn khác rung rinh, người Hồi bồi thêm một chưởng, một tiếng kêu ầm thật lớn vang lên, tảng đá đã bị bọn chúng đánh bật gốc rơi xuống khiến Giang Nam và Trâu Giáng Hà đều nghiêng ngả.
Người Hồi kêu lên: “Ngươi có phải đã bị trọng thương rồi không? Hãy mau lên tiếng để khỏi hiểu nhầm?” bà già nói: “Ta còn ngửi thấy hơi của người sống. Chắc là y bị thương cho nên bị người ta kìm chế.” Rồi chợt quát lên bằng tiếng Hán: “Kim Thế Di, có gan hãy bước ra đây!” ba người đều nghĩ: “Kẻ có thể đánh bị thương Tàng Linh thượng nhân, ngoại trừ Kim Thế Di thì chắc không còn ai nữa.” vì thế nhao nhao quát mắng để khích Kim Thế Di bước ra.
Giang Nam thầm mong Kim Thế Di nghe được tiếng mắng của họ, thầm nhủ: “Bọn chúng cứ mắng càng lớn tiếng càng tốt!” ba tên ma đầu mắng một hồi không thấy có tiếng trả lời thì lại bàn nhau một hồi nữa, rồi lại phát ra Phách không chường, chỉ nghe tiếng ầm ầm vang lên không ngớt, đá trên núi bị bọn chúng đánh rơi xuống như mưa!
Giang Nam đang kinh hoảng, chợt thấy có một nguồn lực lớn đẩy tới, tảng đá chèn ở cửa động lung lay, Giang Nam kêu một tiếng “không xong” rồi kéo Trâu Giáng Hà nhảy tránh qua một bên, chỉ nghe một tiếng ầm vang lên, tảng đá đã bị Phách không chưởng của bọn chúng đẩy lăn vào bên trong, đè cả lên người Tàng Linh thượng nhân. Mụ già cười ha hả: “Đây rồi, đây rồi, Tàng Linh thượng nhân, ngươi còn chưa chịu ra sao?”
Giang Nam và Trâu Giáng Hà hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, chỉ thấy ba ma đầu dần dần tiến từng bước vào, cả ba người vừa nhìn thì thấy có hai thiếu niên nam nữ đứng ở trong động, không khỏi cả kinh, cao giọng quát: “Các ngươi là ai?” nói chưa đứt lời chợt tung mình nhảy vọt lên mấy trượng, mụ già quát: “Kim Thế Di thật vô sỉ, ngươi nấp trong động ám toán đâu có phải là anh hùng hảo hán gì.” Giang Nam cả mừng, cả Trâu Giáng Hà cũng tướng Kim Thế Di đã tới. Ngay lúc này chàng chợt nghe tiếng cười lanh lảnh từ trên núi vọng xuống, tiếp theo là có người lớn giọng mắng: “Các người đều đui cả, ta rõ ràng là ở đây, ai nấp trong động ám toán các ngươi?”
Giang Nam kinh ngạc đến nỗi khó hình dung, đó chẳng phải là Kim Thế Di mà là một thiếu nữ. Nàng thiếu nữ đứng trên tảng đá, tà áo phất phới tựa như lướt gió bay tới.
Ba ma đầu này còn kinh hãi hơn cả Giang Nam. Cả ba đều là kẻ có võ công lợi hại, mắt tinh tai thính hơn cả người thường trăm lần, thế nhưng lại không biết thiếu nữ này đã đến từ lúc nào, người Hồi tay dài quát một tiếng rồi vung tay lên, một vật như mũi tên phóng vọt ra, té ra thiếu nữ lúc nãy đã âm thầm bắn một cành cây khô về phía y, đã bị y tóm lấy cho nên lúc này mới trả ngược trở lại. Người Tạng tóc đỏ và mụ già đánh tiếp ra hai đòn Phách không chưởng. Chỉ thấy cuồng phong nổi lên, cát chạy đá bay, nàng thiếu nữ mặc bộ đồ màu xanh lục đột nhiên phóng vọt người xuống cả ba ma đầu không thể chặn lại được, chỉ trong chớp mắt thì nàng đã phóng tới cửa động.
Nàng thiếu nữ đảo mắt, liếc nhìn ba ma đầu rồi mỉm cười nói: “Các người có muốn động thủ không? Ta sẽ chiều theo!” người Tạng tóc đỏ kinh ngạc hỏi: “Sư phụ của ngươi là ai? Có phải ngươi đến đây chỉ muốn đối địch với bọn ta?”
Thiếu nữ nói: “Côn Luân tản nhân, ta khuyên ba người hãy về đi thôi. Các ngươi đã quên lời thề với một võ lâm tiền bối vào ba mươi năm trước sao? Tang Mộc Lão, bà đã lớn tuổi như thế mà còn đến Trung Nguyên sinh sự hay sao? Còn ông, Kim Nhật, lẽ ra với bản lĩnh của ông đã có thể khai tông lập phái, cần gì phải dòm ngó võ công của kẻ đã nằm trong quan tài?”
Cả ba ma đầu đều thất kinh. Té ra người Tạng tóc đỏ tên là Côn Luân tản nhân, ba mươi năm trước đã đến Trung Nguyên gây sóng gió, nhưng sau đó chịu bại dưới kiếm của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương buộc y phải thề rằng không được vượt núi Côn Luân về Trung Nguyên, nay y nghe Lữ Tứ Nương đã qua đời cho nên mới đám mò đến Trung Nguyên lần nữa. Còn bà già kia là Tang Mộc Lão, mụ có một người em tên gọi Tang Thanh Nương, vợ của trướng lão phái Linh Sơn là Vân Linh Tử, lần này mụ muốn mời vợ chồng Vân Linh Tử cùng đi, nhưng hai vợ chồng nhà này đang đóng cửa tu luyện một loại võ công cực kỳ lợi hại, do đó mụ mới đi cùng hai kẻ này. Còn người Hồi tay dài tên gọi Kim Nhật, y có năng khiếu học võ, đã từng luyện qua nhiều loại võ công ở miền Tây Vực.
Côn Luân tản nhân trừng mắt hỏi: “Ngươi là người thế nào với Lữ Tứ Nương?” thiếu nữ đáp: “Tên của ân sư há để cho ngươi gọi!” Tang Mộc Lão cười nói: “Ta chưa từng nghe nói Lữ Tứ Nương nhận đồ đệ gì cả, ngươi tưởng rằng có thể đem mụ đe dọa bọn ta hay sao? Hừ, dù Lữ Tứ Nương có sống lại ta cũng không sợ!” Lữ Tứ Nương bình sinh chưa từng nhận học trò, người trong võ lâm đều biết chuyện này, chả trách nào Tang Mộc Lão lại không tin. Nhưng Côn Luân tản nhân thì thầm nghi ngờ, nhủ rằng: “Sao ả biết ba mươi năm trước mình đã từng thề với Lữ Tứ Nương? Chả lẽ ả là đệ tử quan môn của Lữ Tứ Nương.”
Trong ba người thì Kim Nhật trẻ tuổi nhất nhưng tự phụ nhất, từ lâu y đã nghe nói Lữ Tứ Nương và Mạo Xuyên Sinh là Thái sơn Bắc đẩu của võ lâm Trung Nguyên, thường tiếc rằng mình chưa có cơ hội gặp họ thì họ đã chết. Nay nghe thiếu nữ áo xanh là đệ tử của Lữ Tứ Nương, Côn Luân tản nhân lại tỏ ý phân vân. Y nén không được, liếc nhìn thiếu nữ rồi quay sang Côn Luân tản nhân nói: “Nếu chính xác là võ công của Lữ Tứ Nương, tôi sẽ thay ông thử ả!” Nói chưa dứt lời chỉ nghe bình một tiếng, một luồng điện từ trong tay y phóng ra, Giang Nam nấp ở trong động thì thấy chói mắt, chàng thất kinh thầm nhủ: “Đây là yêu pháp gì? Chả lẽ là Chưởng tâm lôi?” chàng vừa nghĩ thì chợt thấy thiếu nữ phóng vọt người lên, cả người lẫn kiếm hóa thành một luồng ánh sáng màu xanh, Giang Nam chưa kịp nhìn rõ thì chỉ nghe một tràng âm thanh nổi lên tựa như tiếng nhạc gõ. Kim Nhật kêu lên một tiếng “hay”, trở tay lại đánh bình một tiếng, chấn động đến nỗi đá vụn bay vào trong động.
  Giang Nam dụi mắt nhìn một hồi thì mới thấy rõ, hóa ra trong tay Kim Nhật là một món binh khí kỳ quái, không biết được làm bằng kim loại gì mà khi múa lên lại phát ra ánh sáng lấp lánh màu đỏ vàng trắng, chỉ nghe tiếng bình bình vang lên, chưởng phong của y lại dồn tới, nhưng có điều y ra tay quá nhanh cho nên người bên cạnh trông vào thì thấy tựa như sấm nổ!
Kim Nhật tinh thông võ công của các phái ở miền Tây Vực, y đã dung hợp tất cả các loại võ công này để luyện thành Lôi điện bổng pháp, từ lâu đã muốn đến Trung Nguyên tranh hùng, nào ngờ lần đầu tiên đến Trung Nguyên thì gặp phải nàng thiếu nữ này, mà chẳng hề chiếm được phần tiện nghi, trong lòng thất kinh, sợ mất mặt với đồng bọn. Khi y mới tấn công thì chỉ muốn thử võ công của thiếu nữ này cho nên vẫn chưa dốc hết sức lực, lúc này không dám coi là thử chiêu nữa, thế là y thay đổi chiêu số đột nhiên quát lớn một tiếng, đánh ra một chiêu Lôi mẫu chiếu kính, cây gậy quái dị vung lên, ánh điện lướt tới, đâm thẳng vào huyệt toàn cơ trước mặt nàng thiếu nữ, Giang Nam tuy không biết sự quái dị của phép đánh gậy này, nhưng chỉ cần thấy thanh thế mãnh liệt thì chàng cũng đã hoảng hồn.
Chợt nghe Trâu Giáng Hà kêu lên: “Nhìn kìa, nhìn kìa! Hay quá, hay quá!” chợt thấy nàng thiếu nữ mở rộng trường kiếm, tiếng sấm nổ ầm ầm ngừng lại, thanh trường kiếm của nàng ta đã chặn vào cây gậy cuộn mấy vòng, Kim Nhật chợt rú lên, lảo đảo thối lui mấy bước, tiếp theo là ánh quang loang loáng, kiếm gậy lại giao nhau, tiếng binh khí chạm nhau khiến lỗ tai của ai nấy đều kêu lên ong ong. Côn Luân tản nhân càng nhìn càng thất kinh, nàng thiếu nữ đã sử dụng Huyền nữ kiếm pháp của Lữ Tứ Nương, nàng biến hóa tinh diệu, công lực thâm hậu, xem ra đã được Lữ Tứ Nương truyền thụ, lòng thầm nhủ: “E rằng mười năm nữa lại sẽ có một Lữ Tứ Nương khác xuất hiện, như thế chừng nào mình mới ngóc đầu lên được?” Côn Luân tản nhân nghĩ như thế cho nên sát cơ trỗi dậy, chẳng hề nhớ đến mình có thân phận của một bậc tônsư, đột nhiên phóng vọt lên, lật tay vỗ chướng xuống đầu thiếu nữ. Côn Luân tản nhân luyện công phu Đại thủ ấn của Hồng giáo Tây Tạng, so với các loại chưởng pháp cương mãnh của chính phái như Kim cương chưởng, Suất bi thủ còn lợi hại hơn nhiều, đòn đánh bất ngờ ấy vốn chắc chắn sẽ trúng vào đối thủ, nào ngờ thiếu nữ tựa như có mắt ở sau lưng, nàng lập tức rùn người trở tay đánh lại một kiếm, luồng kiếm quang xanh lè quét vào chưởng của Côn Luân tản nhân, Côn Luân tản nhân thấy đó là cây Sương hoa kiếm mà Lữ Tứ Nương đã sử dụng khi còn sống, loại kiếm này có thể chém vàng chặt ngọc, nhưng Côn Luân tản nhân chẳng hề sợ, có điều nàng thiếu nữ đã dùng nội công chính tông để vận dụng bảo kiếm, đó chính là khắc tinh của các loại công phu như Kim chung trảo, Thiết bố sam, Côn Luân tản nhân làm sao dám mạo hiểm! Thế là y vội vàng rút tay về, chỉ nghe ầm một tiếng, tảng đá chặn ở cửa động bị chưởng lực của y đẩy ra, lại lăn vào bên trong hơn một trượng, thế là cửa động đã trống hoác. Giang Nam nắm chắc tay Trâu Giáng Hà, lòng bàn tay của hai người đều toát mồ hôi. Nhưng Giang Nam lại cảm thấy ấm áp, chẳng còn sợ như lúc nãy nữa. Lại có tiếng bình bình vang lên, từng hòn đá to như nắm dấm bị chưởng phong của Côn Luân tản nhân quét bay vào trong động, đánh trúng vào vách đá phía sau Giang Nam. Côn Luân tản nhân liên tiếp đánh ra hai chưởng đều bị nàng thiếu nữ khéo léo né tránh, thế là lửa giận bốc lên, y quyết tâm dồn nàng vào chỗ chết, bèn dốc ra hết chân lực của toàn thân ngưng tụ vào lòng bàn tay đè Đại thủ ấn xuống, lúc này Kim Nhật đã đánh ra đến chiêu Bát phương phong vũ, bóng gậy trùng trùng bao trùm nàng thiếu nữ. Côn Luân tản nhân đắc ý cười rộ, tưởng rằng nàng đã hoàn toàn nằm trong vòng chưởng lực của mình, dù cho có tài cao bằng trời cũng khó thoát. Nào ngờ nàng ta không những võ công cao cường mà thân pháp cũng lanh lẹ đến cùng cực, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, nàng đã đánh ra một chiêu kiếm pháp khéo léo, mũi kiếm dẫn đầu gậy của Kim Nhật sang một bên còn mình thì lách người ra sau lưng của y, thành thử Kim Nhật đã che cho nàng, chỉ nghe tiếng ầm ầm vang lên, chưởng lực của Côn Luân tản nhân đã đánh Kim Nhật chấn động thối lui đến ba bước, nhưng bản thân y cũng bị cây gậy của Kim Nhật đánh cho loạng choạng! Lúc này nàng thiếu nữ lập tức đâm kiếm tới, chỉ nghe soạt một tiếng, mái tóc rối bời của Côn Luân
Từ Tân An đến Mạnh gia trang phải đi khoảng một trăm dặm, người bình thường ít nhất phải đi cả ngày nhưng Kim Thế Di thi triển khinh công Lục địa phi đằng chỉ hơn một canh giờ đã tới nơi Mạnh gia trang nằm ở một sơn cốc phía nam núi Thái Hàng, Ở đó có hơn hai mươi gian nhà, người trong thôn đều là họ hàng và đệ tử của Mạnh Thần Thông.
Mạnh Thần Thông thì ở trong một tòa nhà lớn trông như thành cổ, trước đây Kim Thế Di đã đến một lần, cho nên nay chàng dễ dàng tìm ra. Mạnh gia trang nằm dưới sơn cốc. Kim Thế Di đứng từ trên sườn núi nhìn xuống chỉ thấy thôn làng lặng lẽ chứ chẳng có người tuần tra.
Chàng trầm ngâm một lúc lâu thì thầm nhủ: “ Âm thầm độc nhập vào Mạnh gia hay là cầu kiến quang minh chính đại.” Chàng chợt nghe có tiếng loạt soạt trong bụi cỏ tranh, Kim Thế Di dỏng tai lắng nghe, chợt co người quát: Xem ngươi chạy đi đâu? Này, ta tìm được ả nha đầu rồi!” rồi khẽ vỗ tay hai tiếng, ba bốn người từ ba hướng nhảy bổ tới.
Kim Thế Di nhảy vọt lên cành cây, chàng nghe người ấy nói thì biết bọn chúng không phải phát hiện ra mình bèn nghĩ thầm: “Ả nha đầu nào, chả lẽ là Lý Tâm Mai?”
Lập tức, một bóng người từ trong bụi cỏ tranh phóng vọt ra, dáng dấp chẳng khác gì Lý Tâm Mai, Kim Thế Di giật thót tim, ngay lúc này có tiếng phụ nữ quát: “Hừ, tặc tử xem kiếm!” rồi tiếng binh khí chạm nhau, cả ba đại hán đều bị nàng ép thối lui mấy bước.
Giọng nói này không phải của Lý Tâm Mai, Kim Thế Di rất thất vọng. Nàng thiếu nữ đã che mặt cho nên chàng không nhìn thấy rõ. Chàng thầm nhủ: “Nàng tuy không phải là Lý Tâm Mai nhưng võ công chẳng kém gì Lý Tâm Mai. Sự việc hôm nay sao mà bí hiểm đến thế, lúc nãy là một hán tử che mặt, giờ đây lại gặp một cô nương che mặt không biết bọn họ có cùng một phe hay không?”
Kiếm pháp của  nàng thiếu nữ tuy rất cao minh nhưng võ công của ba hán tử kia cũng không tệ, trong chớp mắt đôi bên đã chạm nhau hơn hai mươi chiêu mà vẫn chưa phân thắng bại. Thiếu nữ che mặt tựa như rất nôn nóng, nàng múa kiếm đánh liên hoàn, tấn công ra mấy chiêu, chiêu số rất hiểm hóc nhưng lại không vững chãi, ba hán tử kia một người thì sử dụng roi dao long một người sử dụng cây thanh đồng giản, một người sử dụng đại trảm đao, tất cả đều là binh khí nặng nề. Thiếu nữ muốn liều mạng nhưng bọn họ cứ né tránh che chắn, nàng ta như bị vây trong một bức tường bằng đồng rắn chắc. Hán tử sử đụng cây roi dao long cười lạnh: “Mạnh gia trang nào có thể để cho ngươi dễ dàng ra vào? Ngươi hãy ngoan ngoãn theo ta trở về, nghe trang chủ phát lạc, có lẽ sẽ được miễn tội chết, nếu chống cự đến cùng chỉ e ngươi khó giữ mạng” 
Thiếu nữ ấy chẳng nói một lời, đâm liền tới mấy nhát kiếm Kim Thế Di thầm nhủ: “Thiếu nữ này đã từng đến Mạnh gia trang, chi bằng mình sẽ dò hỏi nàng trước.
Xem ra ba hán tử này chẳng địch nổi, chỉ cần nàng không nóng vội, trong vòng ba trăm chiêu có thể đánh bại bọn chúng. Nhưng dù cho trong trang không có hậu viện kẻo tới, mình cũng không thể đợi lâu.” Kim Thế Di cũng hơi nôn nóng, nàng thiếu nữ càng nôn hơn, chỉ thấy kiếm pháp của nàng thay đổi, chiêu số hung hiểm hơn trước nhiều, tựa như hoàn toàn liều mình, trong lúc kịch chiến, hán tử dùng thanh đồng giản nhắm đúng sơ hở, đánh tới một giản, nàng ta đang muốn liều mạng với y, nhân lúc y chưa kịp rút cây giản về thì trở tay đâm một kiếm tới vai của y.
Hán tử ấy cả giận, đột nhiên phát tiếng hú dài, số ba người này đều là đệ tử đắc ý của Mạnh Thần Thông, ba người bọn chúng vây đánh một mình nàng thiếu nữ mà không chịu kêu lên là vì sợ đồng môn chê cười. Lúc này thấy thiếu nữ quá lợi hại, mới đành phải phát ra tiếng hú gọi đồng môn.
Nào ngờ y vừa mới phát ra tiếng hú thì chợt cảm thấy cổ họng đau nhói, lập tức im bặt. Té ra Kim Thế Di âm thầm ra tay, dùng phi châm bắn trúng vào á huyệt của y. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, thiếu nữ đâm soạt tới một kiếm kết liễu y.  Kim Thế Di từ trên cây lướt xuống, kêu lên: “Giữ lại mạng bọn chúng!” Rồi tiện tay phóng ra hai mũi phi châm, một mũi đâm vào mạch môn của kẻ sử đụng roi dao long, một mũi thì đâm vào huyệt kỳ môn của kẻ sử dụng đại trảm đao, hai món binh khí đều vuột khỏi tay chúng bay ra.
Trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt ấy, Kim Thế Di chưa kịp kêu ngừng thì thiếu nữ che mặt đã đâm soạt soạt hai kiếm nhanh chóng, giết phăng hai hán tử ấy.
Kim Thế Di cũng không khỏi thất kinh, không ngờ nàng ta lại ra tay độc ác đến thế. Nàng thiếu nữ giơ kiếm chặn ngang ngực quát: “Ngươi là ai? Tại sao lại xin tha cho bọn chúng?” Có lẽ nàng vẫn chưa biết Kim Thế Di âm thầm giúp đỡ, Kim Thế Di cười rằng: “Có lẽ cô nương đã nghe tên tôi, tôi tên là Kim Thế Di, là tôi...” Thiếu nữ ấy giật mình, té ra “Tiếng xám” của Kim Thế Di đã truyền khắp giang hồ. Thiếu nữ tưởng rằng chàng là một ma đầu tà phái cùng phe với Mạnh Thần Thông.
Kim Thế Di chưa nói xong, chợt nghe phập một tiếng, thiếu nữ ấy vung tay, một cuộn khói đen bốc lên.
Đó chính là: Câu đố ngọc thoa đã khó giải, cô nương che mặt càng lạ hơn.
Muốn biết tiếp đó thế nào, mời xem hồi bảy sẽ rõ.