Chương 12

Chú Tư Ðịnh lãnh thơ của ông Nhiêu Giám bơi xuồng đi Chợ Lớn, giao cho ông Nhiêu Lạc. Cách ít bữa chú trở về, có thơ của ông Nhiêu Lạc trả lời, nói rằng ông vẫn chăm nom dọ dẫm cụ Thủ Khoa Huân.
Mấy tháng nay ông không viết thơ gởi cho bạn là vì không có tin gì lạ, người ta vẫn nhốt cụ Thủ Khoa ở trong khám năm mười bữa thì có cho một viên quan Việt đã hiệp tác với Tây vào khám thăm cụ và mỗi lần thăm đều có đem bánh trái theo mà cho cụ dùng. Theo ý ông Nhiêu Lạc thì Tây cố ý muốn dụ cụ Thủ Khoa đầu hàng đặng cho cụ làm quan mà sắp đặt cuộc cai trị, nhưng tại cụ không đành phản quốc như bọn kên kên đánh hơi chỗ nào có thịt thì bu lại, bởi vậy họ nhốt hoài để dụ cụ, chớ không làm tội chi hết.
Trong thơ ông Nhiêu Lạc lại còn cho bạn hay rằng trong vùng Gia Ðịnh nhơn dân theo hướng xu Tây gần hết, duy có mấy nhà nho học giỏi với em cháu của các quan ta, thì bán nhà bán đất dời ra Bình Thuận, Khánh Hoà mà tránh, không chịu làm tôi cho giặc. Nhơn dân ở miệt Cầu Kho, Chợ Quán đi nhiều nhứt là từ tháng trước họ nghe tin cụ Trương Công Ðịnh ở Gò công bị thất bại nữa thì họ thất vọng nên mới đi lẹ. Còn những bợm ra đầu giặc, thì ai biết chữ, lanh lợi bặt thiệp, đều được làm quan, ai quê dốt thì làm lính. Người nào không giúp việc cho tân trào thì thong thả làm ruộng hoặc mua bán. Làm các nghề ấy nghề nào cũng có lợi nhiều, bởi vậy thiên hạ ồn ào chen nhau mà làm, không kể ông cha, cũng không nhớ non nước gì nữa.
Ông Nhiêu Giám đọc thơ của bạn rồi thì ông ngẩn ngơ, ông đọc đi đọc lại đến hai ba lần, ông chán nản buồn rầu, buồn vì nỗi nhơn tâm yểm cựu nghinh tân mà nhứt là buồn vì nghe cụ Trương Công Ðịnh thất bại ở Gò Công nữa.
Cách ít ngày sau ông Nhiêu lại còn nghe Ðốc Binh Thành chịu đầu giặc mà lãnh chức Ðội Mã tà rồi. Ðạt là con của ông cũng được mang lon Ðội nữa. Ông Nhiêu buồn quá nên ông cậy ông Thới đi qua Khánh Hậu kêu giùm Chí Linh qua cho ông nói chuyện.
Chí Linh qua tới. Ông lấy thơ của ông Nhiêu Lạc mà đọc mà cắt nghĩa cho Linh nghe. Ông lại cho hay Ðốc Thành chịu đầu nên được lãnh chức Ðội. Ðạt có công bắt Thành đem về khuyến dụ nên cũng được mang chức Ðội rồi nữa.
Linh nghe đủ tin tức rồi thì buồn hiu, nghĩ vì nhơn tâm đã mòn mỏi nên biến chuyển đến thế nầy. Sự biến chuyển đó là lẽ dĩ nhiên, con người thuộc hạng bình dân vì thấy ai mạnh mẽ thì họ phục tùng, thấy đâu có lợi thì họ áp tới. Lòng người chẳng khác nào dòng nước trên nguồn đỗ xuống. Nếu không ai dắp đập mà ngăn lại, rồi đào kênh mà dẫn nước vào mấy đám ruộng tốt đặng cày cấy, thì tự nhiên nước phải chảy tuốt ra sông mà ra biển.
Cha con bàn luận về nhơn tâm với thời cuộc thì chán nản, hết trông mong hoạt động đặng cứu nước cứu dân, mà lại còn sợ e dầu cụ Thủ Khoa Huân được thả về, cụ cũng khó mà mưu đồ đại sự được. Duy triều đình mới có uy tín, mới đủ lực lượng, mới mua được súng để chống với giặc xâm lăng. Triều Ðình cứ xụi lơ, thì thường dân làm sao nổi.
Tối lại ông Nhiêu khuyên Chí Linh làm lễ cưới với Thị Trâm rồi về Tịnh Giang ở với ông. Thấy Chí linh dụ dự ông mới nói: „Còn kháng chiến gì nữa mà mong con. Nghĩa binh của ông Ðịnh rã rồi. Nay mai đây ông Dương cũng sẽ tiêu nữa. Ở miệt mình đây người ta đã cử đặt cai Tổng đặng Tổng sắp đặt bàn Hương chức hội tề trong mỗi làng. Quan trên biểu làm chức gì ai cũng phải riu riu mà chịu, sợ từ chối người ta nói nghịch mạng người ta bỏ tù. Cha đã không kể thằng Ðạt là con, mấy tháng nay cha ở nhà không có ai nói chuyện đặng giải khuây. Bởi vậy cha buồn quá. Bên Khánh Hậu con không có nhà. Vậy thì cưới vợ rồi ở bên nây cho vui“.
Chí Linh không còn cớ gì mà đình cãi cuộc hôn nhân nữa nên vâng chịu.
Ông Nhiêu cho làm lễ cưới hết sức giản dị. Ðịnh ngày rồi Chí Linh đi với ít người bà con qua Tịnh Giang. Vợ chồng ông Nhiêu nấu ít mâm cơm cúng, có mời lối mươi người khách trong xóm.
Họ đàng trai tới rồi thì dâu rể làm lễ ra mắt ông bà cha mẹ cùng bà con thân tộc. Hai họ ăn chung với nhau một bữa cơm thì cuộc hôn nhơn đã thành.
Ông Nhiêu có rể ở trong nhà thì ông bớt buồn. Ban ngày ông dạy học thì Chí Linh chèo ghe đi giăng câu đặng kiếm cá ăn, hoặc bồi bổ thớt vườn đặng cây sởn sơ, trái oằn oại. Ban đêm rảnh rang thì hai cha con bàn luận việc đời, dẫu không làm được thì nói đặng xả hơi uất cho đỡ khổ.
Hễ có dừa chuối nhiều thì Thị Trâm với Thị Ðậu bỏ xuống ghe, chở ra chợ Mỹ mà bán, tuy là lấy cớ đi bán đồ vườn nhưng kỳ thiệt là đi thăm Ðạt nhờ có công dụ được Ðốc Thành nên đã lên chức Ðội, còn Ðội Tồn thì thăng chức Quản rất vinh vang.
Chí Linh ở ít ngày thì nhận thấy duy chỉ có ông Nhiêu ghét Ðạt phản bội, không chịu nhìn là con ông mà thôi, chớ bà Nhiêu cũng như Thị Ðậu với Thị Trâm, cả ba người đều yêu quí Ðạt như thường; tuy không dám khen Ðạt hiệp tác với kẻ xâm lăng là phải, song không chịu chê cách ẩn núp đặng lánh tai nạn đó là quấy.
Thị Trâm lấy chồng được ông Nhiêu yêu, đêm nào cha con cũng bàn luận về thời cuộc, nàng muốn biết ý kiến của chồng đối với thái độ của Ðạt coi chồng có ghét Ðạt như cha hay không, nên một bữa nàng hỏi Chí Linh:
- Anh Hai làm Ðội cai quản lính Mã tà ngoài Mỹ Tho, anh muốn đi thăm ảnh hay không?
- Cha đã từ ảnh, không nhìn ảnh là con. Qua đi thăm sợ cha rầy.
- Em với chị Hai bán dừa chuối, hai đứa em đi thăm hoài, có sao đâu. Anh Hai có hỏi thăm anh, em nói cưới rồi, bây giờ anh ở bên nầy, ảnh biểu về nói với anh bữa nào đi chợ thì ghé cho ảnh thăm một chút, vì anh em lâu gặp nhau nên ảnh nhớ anh. Như anh muốn đi thì bữa nào đi bán dừa chuối, anh theo ghe mà đi.
- Ra ngoài chợ Mỹ có Tây nó bắt bất tử.
- Có bắt ai đâu, cũng không tra hỏi gì hết. Mà anh Hai có nói ảnh bảo lãnh hết không ai dám động đến bà con xóm mình đâu mà sợ.
Chí Linh cười, nghĩ Ðạt muốn dụ luôn tới chàng ra hiệp tác với giặc nữa, nhưng không lẽ nói ngay cho vợ biết, vì vợ thuộc bên phe của Ðạt. Nếu nói ngay sợ mất lòng, bởi vậy chàng lựa lời mà nói cho xuôi: "Qua cũng nhớ anh Hai. Qua cũng muốn gặp ảnh đặng hỏi coi tại sao ảnh làm trái ý cha cho cha giận. Ðể thủng thẳng coi khi nào tiện qua sẽ đi“.
Lời nói phân hai như vậy làm cho Thị Trâm không phải là người sâu sắc, nên nàng khó mà dò đến thâm tâm của chồng được, chỉ tưởng chồng không giận ghét anh, dụt dặt không muốn đi thăm anh là sợ ra Mỹ Tho bị Tây bắt, chớ không có ý gì khác.
Chí Linh về ở bên vợ hơn một tháng thì có người của ông Nhiêu Lạc sai đem thơ xuống cho ông Giám. Người ấy quá giang ghe thương hồ xuống Bến Tranh rồi hỏi thăm nhà đến kiếm mà đưa thơ.
Ông Nhiêu Giám tiếp được thơ của bạn thì nữa mừng nữa lo, vì không biết tin lành dữ thế nào ông biểu người đem thơ ngồi chơi một chút rồi ăn cơm ông mở thơ ra mà đọc. Vừa mới coi mấy hàng thì ông hớn hở kêu Chí Linh mà nói: „Lại đây biểu con. Cụ Thủ Khoa được thả rồi con à! Sướng quá!“
Chí Linh lại đứng trước mặt ông, bộ chàng lộ vẻ vui mừng cực điểm. Ông Nhiêu coi hết thơ rồi mới nói với Linh: "Ông nhiêu Lạc ở trên xóm Dầu cho cha hay rằng người ta đã thả cụ Thủ Khoa. Cụ đi chơi thong thả. Ông Nhiêu Lạc mới hay đây. Ông đi kiếm thì gặp cụ ở nhà một người đầu Tây lập công lớn nên tân trào cho lãnh chức Tri Phủ. Ông mời cụ lại nhà ông đặng nói chuyện chơi. Ông mới hay quan phủ đó bảo lãnh nuôi cụ, không để cho cụ làm loạn nữa, nên họ mới chịu thả. Ông Nhiêu Lạc thuật chuyện cha có lên kiếm cụ. Cụ mừng quá, cụ cậy ông Nhiêu Lạc viết thơ mời cha lên nữa, đặng cụ hỏi thăm tình hình dưới nầy. Thiệt chuyện bất ngờ, cha đã tuyệt vọng, nào ngờ còn gặp cụ Thủ Khoa nữa. Vậy phải sửa soạn đi cho gấp“
Ông Nhiêu biểu Linh nói dưới nhà bếp lại biểu sai người đi kêu chú Tư Ðịnh với ông Thới lại cho ông dạy việc.
Ông mừng rỡ, ông đi lăng xăng, ngồi không yên chỗ. Ông kêu bà mà chuẩn bị gạo thóc với mắm muối đặng chiều ông đi lên Sài Gòn ít bữa mà thăm cụ Thủ Khoa. Ông tỏ ý muốn đem Chí Linh theo ghe đặng nếu cụ Thủ Khoa về dưới nầy thì có Chí Linh hộ vệ, ông thấy học trò lại học thì đuổi về mà biểu cho hết thảy cả trường hay vì ông có việc phải đi Sài Gòn nên ông cho nghỉ học ít bữa, chừng nào ông về rồi sẽ dạy lại.
Lúc trong nhà đang ăn cơm, thì ông Thới với ông Tư Ðịnh lại. Ông Nhiêu vui vẻ nói: "Tôi cho hai bà con hay cụ Thủ Khoa được thả ra rồi. Cụ muốn gặp tôi nên biểu ông Nhiêu Lạc viết thơ mời tôi lên gấp. Vậy tôi cậy hai ông chịu khó đi lên xóm Dầu với tôi một lần nữa. Vì biểu lên gấp nên tôi tính chiều nay mới đi. Chú Tư về sửa soạn chiếc ghe của chú cho sẵn, đặng xế mình đem cơm gạo xuống rồi đi với nhau.“
Tư Ðịnh nói: "Cụ Thủ Khoa được thả thì mình phải lên mừng cụ chớ. Chiều đi được, tôi dọn ghe một chút thì xong“.
Ông Nhiêu nói: "Nếu cụ muốn về thì mình rước cụ về, bởi vậy tôi biểu Chí Linh đi với mình“
Tư Ðịnh với ông Thới về sửa soạn ghe. Ông Nhiêu biểu Thị Ðậu với Thị Trâm giả ít cối gạo đặng đem theo ghe, rồi chiều chở lương thực với vài chục quan tiền mà đi có Chí Linh hộ tống với người đem thơ cũng đi theo mà về.
Ông Nhiêu đi rồi, Thi Ðậu với Thị Trâm ra sau vườn kiểm điểm dừa chuối đặng chở ra chợ Mỹ mà bán. Thấy chuối có bộn còn dừa cũng được ít quày, nên chiều bữa sau hai nàng đốn đem vô nhà sửa soạn đặng khuya đi.
Hai nàng xin phép mẹ đem thằng Tâm theo đặng nó thăm cha nó, lại nói không có cha ở nhà nên tính ở chơi đến chiều mát sẽ về, xin mẹ đừng trông.
Hai chị em lấy chiếc ghe lườn chở dừa chuối cho vững vàng và có chỗ cho Tâm nằm ngồi thong thả. Ðã giao đồ cho chị Thiện bán giùm mấy lần rồi nên quen với chị, bởi vậy ra tới chợ thì giao hết ghe dừa chuối cho chị, rồi hai chị em dắt Tâm đi lên trại lính mà thăm Ðạt.
Ðạt với Dần thấy hai chị em dắt Tâm nữa thì mừng quá. Ðạt hỏi sao bữa nay cha cho Tâm đi.
Thị Trâm nói:
- Cha đi Sài Gòn, không có ở nhà, nên tôi xin phép mẹ đem Tâm ra thăm anh.
- Cha đi hồi nào?
- Sớm mơi hôm kia ông Nhiêu Lạc ở trên Sài Gòn sai người đem thơ xuống cho cha hay cụ Thủ Khoa được thả ra rồi, nên cụ muốn cha lên cho cụ nói chuyện. Cha được thơ rồi cha sửa soạn rồi chiều cha đi liền.
- Cụ Thủ Khoa được thả chắc cha mừng lắm hả?
- Mừng. Cha nói lên trển coi như cụ muốn về dưới nầy thì cha rước cụ về bởi vậy cha có biểu anh Linh đi với cha.
- Có Linh đi nữa? Cha rước cụ về làm chi?
- Biết đâu.
- Cụ về sợ sanh chuyện nữa chớ.
- Cha làm sao cha làm ai dám nói.
Thị Dần rủ Ðậu với Trâm đi chợ mua thịt đặng gởi về cho mẹ và mua đồ đặng ăn bữa cơm sớm mơi nầy. Ba nàng dắt nhau đi hết, để Tâm ở nhà chơi với cha.
Ra chợ Dần mua đồ đủ thứ mà gởi cho chị Thiện đặng Ðậu và Tâm đem về. Nàng cũng mua thịt cá đem về mà đãi khách, lại còn mua hai ba thứ bánh cho Tâm ăn.
Ðậu với Trâm ăn cơm rồi ở chơi đến chiều mát. Dần mới đưa ra chợ lấy tiền bán dừa chuối và lấy đồ gởi đặng xuống ghe mà về với Trâm.
Còn Ông Nhiêu đi Sài Gòn, lên tới Xóm Dầu ông cho người đem thơ ít quan tiền mà đền ơn rồi ông dắt Linh đi lên nhà ông Nhiêu Lạc với ông. Chủ khách gặp nhau vui mừng hết sức. Ông Nhiêu Lạc nói đã gần tối rồi, vậy để sáng hôm sau hai ông sẽ lại nhà ông Phủ mà thăm cụ Thủ Khoa rồi mời cụ ra nhà ông Nhiêu Lạc ăn cơm đặng đàm đạo cho thong thả.
Ông Nhiêu Giám giới thiệu Chí Linh với chủ nhà, nói rằng Linh là rể, lại có võ nghệ đủ dùng, nên lần nầy đem theo đặng nếu cụ Thủ Khoa chịu về thì có người hộ vệ. Chí Linh nghĩ phận mình nhỏ mọn không nên làm khách nhà người, bởi vậy chàng xin phép trở xuống ghe mà nghỉ rồi sáng sẽ lên. Ông Nhiêu Lạc không cho, biểu ở trên nhà nghỉ cho thong thả.
Ðêm đó hai ông Nhiêu đàm luận với nhau, cả hai đều than phiền về sự kháng chiến lần lượt bị tiêu tan hết, còn dân tâm thì dời đổi, đâu người ta cũng ra đầu thú, kẻ làm quan người làm lính kẻ mua bán, người làm làng, hiệp tác với giặc để đem lại an ninh đặng tổ chức hàng chánh.
Sáng bữa sau, ăn lót lòng rồi ông Nhiêu Lạc mới dắt ông Nhiêu Giám đi thăm cụ Thủ Khoa, Chí Linh cũng đi theo. Tới nhà ông Phủ may nhờ cụ Thủ Khoa đứng chơi trước cửa ngõ. Cụ Thủ Khoa thấy ông Nhiêu Giám thì mừng quá. Cụ cũng biết Chí Linh là bộ tướng của cụ ngày trước. Nhưng cụ không mời khách vô nhà cụ khuyên dắt nhau trở về nhà ông Nhiêu Lạc rồi một lát nữa cụ sẽ ra đó mà hỏi thăm công việc.
Ông Nhiêu Lạc mời cụ ra chơi rồi ở ăn cơm trưa với ông. Cụ chịu và nói để cụ cho trong nhà hay đặng trưa khỏi chờ cụ về ăn cơm.
Hai ông Nhiêu trở về nhà một chút thì cụ Thủ Khoa ra tới. Cụ vừa ngồi thì hỏi thăm tình hình kháng chiến ở vùng Bình Cách Bến Tranh.
Ông Nhiêu Giám mới tỏ thiệt từ ngày cụ bị thương và bị bắt rồi thì dân tâm ly tán, tinh thần bể nghể, nghĩa binh rã rời. Thiên hạ đua nhau ra đầu giặc đặng làm quan làm làng mà giúp cho giặc tổ chức cuộc trị an. Thậm chí con trai của ông là Ðạt cũng ra đầu thú lãnh chức Cai Mã tà, rồi dụ dỗ em út trong đoàn nghĩa binh đi lính, nó lập công nên được thăng chức Ðội; Ðốc binh Thành bị bắt rồi chịu đầu nên cũng làm Ðội Mã tà. Hiện giờ cuộc kháng chiến ở vùng Bến Tranh Bình Cách chẳng còn hoạt động gì nữa, chỉ có nhóm môn đệ của Chí Linh ở Khánh Hậu, kể được vài chục người, còn hăng tập võ nghệ mà chờ thời, nhưng số đó ít quá, lại không có súng thì không làm sao mà chống với giặc cho nổi. Cụ Thủ Khoa ngồi nghe, cụ buồn hiu.
Ông Nhiêu nói tiếp: "Lúc ông bị bắt đem về Mỹ Tho, tôi có sai Ðạt giả dạng người giăng câu kéo lưới ra ở đó mà nghe tin tức. Ðạt nói vết thương của ông thì không nguy hiểm mà Tây lại trông nom đãi ông trọng lắm. Tôi chắc ông sẽ được thả về. Tôi suy nghĩ nghĩa binh của mình thiệt là hùng dõng, chớ không phải dở. Như trận Bình Cách mình ăn chớ không phải thua. Tiếc vì binh mình không có súng, nên phải thất thế. Nếu muốn kháng chiến được thành công, thì cần phải có súng đạn dồi dào mới được. Tôi lại nghĩ mình có 4 nhóm kháng chiến mà rời rạc, nhóm nào lo riêng cho phận nấy không liên lạc, không đồng tâm. Tôi tính đợi ông về tôi dâng cho một kế hoạch kháng chiến cho có qui tắc, đặt các lực lượng chỉ huy dưới quyền một người chỉ huy tối cao.
Mà bí quyết của thành công là phải có súng đạn. Té ra ít ngày nghe họ chở ông lên Sài Gòn đặng đày ra Côn nôn. Tôi tuốt lên theo ở mấy ngày, chừng nghe họ bỏ tù ông tôi mới trở về. Tôi cậy ông bạn tôi ở trên nầy chăm nom giùm, có nghe tin gì lạ thì cho tôi hay rồi tôi sẽ lên. Té ra mấy nhóm kháng chiến lần lượt tiêu tan hết. Sau mình đó có ông Nguyễn Trung Trực bên Nhựt Tảo cũng thất bại nữa, may ổng thoát thân được mà chạy xuống phía Hậu Giang. Kế đó nữa tới ông Trương Công Ðịnh ở Gò Công bị bộ hạ phản phúc đầu giặc rồi dắt giặc ruồng bắt, làm cho ông Ðịnh bị bí đường phải tự tử cho tròn tiết nghĩa. Hiện giờ chỉ còn Thiên Hộ Dương hùng cứ trên Tháp Mười. Mà ở trên đó ở yên vậy thôi, chớ không ra mặt mà đánh với giặc, thì làm sao lấy nước lại được. Lại giặc dẹp yên mấy nhóm kháng chiến miệt dưới rồi có lẽ nay mai đây giặc sẽ đem binh lên đánh Tháp Mười nữa, thì ông Dương cũng không chống cự nổi.
Ông Nhiêu Lạc tiếp nói tình hình trong tỉnh Gia Ðịnh còn tệ hơn dưới tỉnh Ðịnh Tường nữa. Thiên hạ trẻ già đều thuần phục Tây hết. Ông Trương Công Ðịnh thất bại rồi thì người có tâm chí với đất nước không còn mong đuổi giặc mà lấy nước lại được tự nhiên phải theo tân trào. Người nào bực tức không chịu theo thì phải bán đất bán nhà đem vợ con ra ở ngoài Bình Thuận hoặc Khánh Hoà đặng tránh cái ách nô lệ của người ngoại quốc, mà cũng chưa chắc sẽ tránh khỏi.
Cụ Thủ Khoa nghe rõ hết rồi thì cụ tức giận nên vỗ bàn mà nói: "Thà chết chớ tôi không thể khum lưng cúi đầu mà làm tôi tớ quân giặc, mà cũng không thể ngồi khoanh tay mà ngó quân giặc làm chủ đất nước của ông cha. Nam nhi có nhiệm vụ báo thù giang san. Anh hùng hào kiệt thì chết trên lưng ngựa ngoài sa trường, chớ không nên chết trên giường lèo nệm gấm.“
Bây giờ cụ mới thuật chuyện cho hai ông Nhiêu nghe tại sao cụ bị bắt đem về Mỹ Tho Tây trọng đãi cụ mà rồi lại còng cụ mà giải lên Sài Gòn. Cụ nói Tây biết cụ có khoa mục, lại có uy tín lớn với dân gian, nên chúng dụ cụ đầu hàng, chúng hứa sẽ phong cho cụ làm quan lớn để lo tổ chức cơ quan cai trị cho đúng đắn đặng dân được hưởng an nhàn, xứ càng thêm thịnh vượng. Cụ quyết định không chịu đầu, chúng giận mới còng mà giải lên Sài Gòn, hăm he sẽ đài cụ ra Côn Nôn.
Lên Sài Gòn Tây sai quan Việt thay phiên nhau vào khám mà thăm cụ, kiếm chuyện lợi hại mà nói đặng dỗ cụ đầu Tây, hứa sẽ cho cụ làm chức Huyện Phủ. Cụ mắng tụi quan bán nước đó, cụ nói ngay thà cụ chết, chớ không bao giờ cụ làm như họ vậy được. Tụi nó hết dám vô dụ dỗ nữa. Người ta bỏ cụ ở trong khám mấy tháng, không ai vào thăm. Chừng một tháng sau đây mới có một ông Phủ của Tây vào nói với cụ rằng ông nghe Tây muốn thả cụ, nhưng buộc phải có người bảo lãnh họ mới thả. Ông nghĩ cụ là một nhà chí sĩ, cụ không bao giờ chịu quật hạ ai. Vậy ông vào hỏi cụ như muốn ra ở ngoài cho thong thả thì ông sẽ bảo lãnh giùm và rước cụ về nhà ông nuôi cụ, bằng không thì thôi, ông không dám ép. Cụ biểu để suy nghĩ ít bữa rồi cụ sẽ trả lời. Cụ nghĩ bọn vô khám thăm cụ đều là bọn ăn lương của giặc nên chúng đặt chuyện mà nói tốt cho giặc, cụ không thể tin được. Cụ phải ra ngoài đặng xem rõ tình hình rồi sẽ ấn định thái độ cho hợp thời. Không đầu giặc đặng hiệp tác với họ đó là một việc đã quyết định chính chắn, không cần bàn cãi gì nữa. Nhưng không đầu giặc thì phải làm việc gì? Ðó là việc cần phải biết tình hình rồi mới liệu được.
Trong vài bữa sau, ông Phủ đó trở vô khám. Cụ Thủ Khoa chịu để cho ông bảo lãnh đặng cụ ra ngoài ở cho thong thả. Ông Phủ rước cụ về nhà, dọn một cái phòng cho cụ ở mà đọc sách. Cụ tự do muốn đi chơi đâu cũng được, không bị ngăn cấm không ai coi chừng. Nhờ vậy cụ đi chơi thong thả, ông Nhiêu Lạc mới hay đến thăm cụ và nói lóng trước có ông Nhiêu Giám lên kiếm cụ. Cụ mới cậy ông Lạc viết thơ mời ông Giám lên đặng bàn về thời cuộc.
Cụ Thủ Khoa thuật công chuyện của cụ xong rồi cụ hỏi hai ông Nhiêu theo tình trạng hai ông nói cho cụ nghe hồi nãy, vậy thì cụ phải làm việc gì bây giờ.
Hai ông Nhiêu nhìn nhau không trả lời.
Cụ Thủ Khoa mới nói: "Hiện giờ trước mặt tôi có mấy ngã đường nầy:
Thứ nhứt: Cứ nằm nhà ông Phủ cho ổng nuôi. Sống mà làm tốn cơm tốn áo của người ta vô ích cho mình, mà cũng vô ích cho đời, thì sống làm gì. Huống chi ổng cứ kính tặng tôi là anh hùng chí sĩ, dường như ổng muốn tôi hoạt động lại. Nếu như vì ý đó ổng bảo lãnh cho tôi ra khỏi tù, mà tôi nằm lì trong nhà thì ổng sẽ thất vọng cho tôi thuộc về hạng anh hùng rơm.
Thứ nhì: Ra hàng đầu Tây đặng lãnh quyền tước mà giúp giặc thâu phục đất nước của ông cha. Làm như vậy thì vinh thân phì gia nhưng phải mang tiếng bán nước hại dân muôn đời. Thánh nhơn nói: đời loạn ly hỗn độn mà mình được giàu sang thì hổ lắm. Tôi cũng là nhà nho như hai ông tôi sợ cài hổ đó nên không thể nào tôi chịu đầu giặc mà lãnh quyền tước.
Thứ ba: Tây đã lấy 6 tỉnh nầy rồi, thôi thì mình dời ra Bình Thuận, Khánh Hoà cho khỏi làm tôi mọi cho ngoại quốc. Trước thái độ nhu nhược của triều đình đã thấy rõ rồi, dầu mình dời đi tỉnh nào cũng không thoát khỏi cái ách nô lệ được.
Thứ tư: Cạo đầu vô chùa mà tu. Ðó là tư cách của hạng người ích kỹ, hễ thất vọng thì chán đời tìm nơi thanh tịnh mà ẩn núp. Chúng ta có tâm trí về nợ quốc gia, nợ xã hội, chúng ta không thể làm như họ được
Thứ năm: tìm nơi hẻo lánh ở mà dạy học, hoặc làm ruộng, hoặc lập vườn. Ðã quen tánh hoạt động đặng cứu dân giú nước, tôi không thể ngồi ngó dân đồ khổ, nước nguy vong.
Mấy ngã đường tôi kể ra đó, không ngã nào tôi đi được hết. Cụ Thủ Khoa suy nghĩ một chút rồi cụ nói tiếp: „Hiện giờ Thiên Hộ Dương vẫn còn hoạt động. Mà Ðồng Tháp Mười là chỗ dụng võ đắc lợi, ở vùng đó có thể tổ chức cuộc trường kỳ kháng chiến, có thể qui tụ những người ái quốc làm ruộng để lấy lúa mà nuôi binh lính, đổi súng đạn, lập một tri ều đình riêng biệt mà chống với giặc Tây, thắng thì mình thâu đất Lục Tỉnh trở về, còn như thất thì mình có sẵn hậu phương mà gây dựng lực lượng lại. Vậy tôi xin ông Nhiêu ở lại chơi vài bữa cho tôi sắp đặt rồi tôi theo ghe ông xuống Tân An kiếm thế lên Tháp Mười quan sát lực lượng của Thiên Hộ Dương coi thế nào mà bàn với người đó mà làm việc lớn“.
Ông Nhiêu Giám nói:
- Tôi nghe Thiên Hộ Dương là một võ phu không có học thức, không thông chiến lược, tôi sợ e người không nhượng quyền cho ông sắp đặt việc lớn.
- Không hại gì. Ðể tôi lên đó tôi nói chuyện với người rồi xem địa thế tôi sẽ liệu.
- Người ta đã cho tôi thong thả, mà ông Phủ bảo lãnh tôi đó ổng cũng tỏ ý muốn tôi hoạt động lại, thế thì có ai ngăn cản gì đâu. Vậy ông chờ tôi chừng hai bữa. Xuống Tân An có lẽ tôi kiếm ghe tôi mướn đưa tôi lên Tháp Mười.
Ăn cơm trưa rồi cụ Thủ Khoa trở về nhà ông Phủ. Thiệt cách 2 bữa cụ xách hành lý một gói trở lại, cụ vui vẻ nói ông Phủ nghe cụ tính đi Tháp Mười ổng khen lắm, nên có tặng tiền bạc với vài bộ áo quần.
Ông Nhiêu Giám biểu Chí Linh xuống ghe sửa soạn đặng về, phải mua thịt cá đem theo cho cụ Thủ Khoa dùng dọc đường.
Ông Nhiêu Lạc thỏ thẻ với cụ Thủ Khoa:
- Cử chỉ của ông Phủ làm cho tôi nghi quá. Ổng là người tâm phúc của Tây. Ổng có công lớn nên người ta cho làm tới chức Tri Phủ. Ông bảo lãnh cụ nên Tây mới thả cụ. Tại sao ổng lại tặng bạc tiền xúi cụ đi kháng chiến?
- Ổng nói ổng bất đắc dĩ nên phải đầu giặc, chớ ổng kính mến nhà chí sĩ lắm. Không có sao đâu mà ngại. Mà tôi được ra ngoài như cá đã ra sông, thì tôi lội lặn thong thả. Mấy ông khỏi lo.
Ông Nhiêu lạc đãi cụ Thủ Khoa một bữa cơm trưa rồi đưa cụ xuống ghe đi với ông Nhiêu Giám và Chí Linh.
Ghe nhổ sào lui ra khỏi bến, cụ Thủ Khoa hớn hở như chim được sổ lòng bay về non cao rừng thẳm.
 

Truyện Đại nghĩa diệt thân Lời mở đầu Chương 1 Đã xem 60848 lần. --!!tach_noi_dung!!--


Chương 10

--!!tach_noi_dung!!--
Hôm nay trời mưa dầm dề, cỏ cây mát mẻ. Dân tâm trong vùng Bến Tranh tuy bớt xao xiến song vẫn còn lơ lững giữa hoàn cảnh chiến bất chiến, bất hòa.
Nhưng chén cơm là vật cần yếu của sanh mạng, bởi vậy người ta phải xông lướt hiểm nguy mà ra đồng cày cấy để kiếm hột lúa mà nuôi sống.
Bữa nay người ta cấy tới đám ruộng của bà Nhiêu, nên hồi tảng sáng Thị Ðậu với Thị Trâm đã ra ruộng hiệp với mấy chị em trong xóm tựu lại cấy trả công đặng lo cấy một bữa cho rồi, kẻo dây dưa úa mạ.
Ông Nhiêu với bà Nhiêu ở nhà. Ông ngồi ngó ra sân, thấy đám mưa đêm làm cho sân ướt át, bẩy lầy không thể đi ra ngoài được. Bà Nhiêu bưng bình trà với cái chén để trước mặt ông mà mời ông uống cho ấm. Chú Tư Ðịnh ở nhà chú đi lại, hai tay chú níu hai ống quần lên cao cho khỏi lắm bùn, rồi khi vô sân chú lựa mấy chỗ khô ráo mà bước.
Bà Nhiêu thấy chú bước vô cửa thì bà lấy thêm một cái chén nữa và mời chú ngồi uống trà với Ông Nhiêu.
Tư Ðịnh vừa ngồi thì nói:
- Trưa hôm qua tôi đi ra chợ Mỹ mua chai(#1) về trét ghe. Tôi mắc một đám mưa lớn quá sá, lại mưa dai nũa. Phải đợi tới chiều tối, phải dịu bớt tôi mới ráng chèo ghe mà về. Gần hết canh một tôi mới tới nhà. Trời cứ mưa lâm râm, phần tôi chắc bên nầy ông bà đã nghỉ rồi nên tôi tính trời sáng mới qua nói chuyện.
Ông Nhiêu chau mày hỏi:
- Chú ra ngoài Mỹ có nghe tin tức quan hệ lắm hay sao?
- Tôi có gặp chú Hai Ðạt.
- A! Nó làm việc gì ngoài Mỹ nó theo Tây rồi phải hôn?
- Chú gặp tôi chú mừng quá. Chú mời tôi về nhà chú. Kế trời ụp mưa nên tôi mắc kẹt ở đó. Chú không cho về cứ theo cầm ở ăn cơm với chú đến gần tối tôi mới rứt mà về được.
- Mà thằng Ðạt, làm việc gì ngoài đó chớ? Chú nói phứt cho tôi nghe. Phải nó làm việc với Tây hay không?
- Phải, chú làm Cai.
- Cai gì?
- Cai mã tà… Cai đội đó …
- A, a! Cai Mã tà! Tốt dữ! Sang trọng dữ!
- Tội nghiệp chú nói chuyện của chú cho tôi hay mà chú khóc. Chú nói chú biết ra đầu giặc đặng lãnh lương lãnh chức cha mẹ chú không bằng lòng. Ngặt nếu chú từ chối không chịu làm thì chúng nói chú nghịch rồi bắt mà bắn chết hoặc đài ra Côn Nôn Ðại Hải, hoặc bỏ tù rụt xương. Ấy vậy chú phải chịu đặng ẩn núp cho qua hồi khó khăn. May nhờ có em gái của ông Ðội Tồn thương chú năn nỉ với ông Ðội lập thế cứu dùm mạng chú nên khỏi bị hại, mà vô lính Mã tà lại được làm Cai liền.
- Nó kiếm chuyện nói dóc với chú. Hôm nó về cho tin cụ Thủ Khoa, nói chuyện với tôi thì tôi đã biết nó sanh tâm phản quốc rồi. Lên Sài Gòn về tôi hay ở nhà nó đã đi mất thì tôi chắc nó đã đi đầu giặc chớ đi đâu. Tôi không thèm nói đến nó nữa. Tôi có nói trước cho nó biết nếu nó yểm cựu nghinh tân, quên cả giống nòi đất nước mà phụ tá với giặc thì tình cha con sẽ dứt, nó không được về nhà nầy, không được xưng là con của tôi nữa. Vậy nó cãi lời tôi ra lãnh chức Cai Mã tà thì nó làm gì nó làm, tôi không kể nó là con nữa.
- Có phải một mình chú Ðạt vô làm lính Mã tà đâu mà ông giận. Tôi thấy có người mình bộn bộn ở ngoải.
Bà Nhiêu chận hỏi:
- Trong vùng mình đây có ai đi lính Mã tà như nó vậy không?
- Có chớ. Trong làng mình có hai đứa. Hôm qua chú Hai Ðạt có kêu lại đặng thăm tôi.
- Con của ai vậy?
- Thằng Bồi con của Sáu Dụng với thằng Hớn con Bảy Khá ở xóm dưới.
- Vậy mà hôm kêu nhổ mạ, hai đứa đó sợ Tây ruồng bắt nên trốn đi xa chưa dám về.
- Hai đứa bận đồ lính lại nói chuyện với tôi tại nhà Hai Ðạt. Hai đứa đều nói bị Tây bắt, may nhờ chú Hai Ðạt xin giùm và bảo lãnh nên Tây mới chịu tha và cho làm lính. Có năm sáu đứa trai trong Bình Cách cũng đi lính đó nữa, tôi biết mặt nhưng không nhớ tên, hết thảy đều có chưn trong đoàn nghĩa binh.
- Vậy thì còn gì nữa mà kháng chiến. Lớp trốn đi mất, lớp ra đầu giặc hết rồi. Thằng Ðạt không ra mà đầu để chết một mình hay sao. Vậy mà ổng còn làm giận làm hờn, ổng mắng chữi là đồ hại dân bán nước.
Ông Nhiêu trợn mắt mà nói:
- Ai bội phản thì mặc họ. Thằng Ðạt là con của tôi, nó không được phép phản bội mà làm nhơ nhuốc danh giá của tôi. Người anh hùng biết rụng đầu cho trọn nghĩa, chớ không biết hàng đầu đặng mang nhục. Bữa nào chú Tư có đi chợ nữa, chú gặp thằng Ðạt thì chú nói với rằng tôi biết mưu mô của nó rồi. Giặc dụ dỗ nó ra hiệp tác, cho nó làm Cai để cậy tay nó phá hoại cuộc kháng chiến trong vùng nầy. Nó biết ai có chưn trong đoàn nghĩa binh hết. Nó chỉ chọc cho giặc bắt, rồi nó đứng bảo lãnh đặng dụ đi lính. Chú nói cho nó biết thứ phản bội không bao giờ được trường tồn. Tôi không nhận nó là con của tôi nữa. Nó không được trở về nhà tôi.
Bà Nhiêu ứa nước mắt, bỏ đi vô trong. Tư Ðịnh nói chuyện chơi một hồi nữa rồi về, nhưng thấy ông Nhiêu ghét đầu giặc và đi lính Mã tà, nên không dám nói việc của Ðạt nữa.
Ruộng của Ông Nhiêu chỉ hơn một mẫu, mỗi năm làm được một thiên lúa chớ không nhiều, bởi vậy cấy một bữa thì giáp hết. Bữa sau Ðậu với Trâm ở nhà. Bà Nhiêu ra ruộng coi lúa có nỗi hay không. Chừng về bà khen dâu con chăm nom nên cấy kỹ lưỡng, lúa ngay hàng ngay lối, không trôi nổi không ngã nghiêng.
Chừng Ông Nhiêu dắt Tâm đi ra trường học bà Nhiêu mới to nhỏ thuật lại cho con với dâu nghe các câu chuyện của Tư Ðịnh nói hồi sớm mơi bữa trước về sự gặp Ðạt và được Ðạt mời về nhà. Bà nói vì có Ông Nhiêu ngồi đó, lại ông đương giận Ðạt cãi lời mà theo giặc, nên bà không dám hỏi Tư Ðịnh coi nhà Ðạt ở chỗ nào và làm sao mà vào đó được.
Bà biểu Trâm đi lại nhà Tư Ðịnh mà hỏi kỹ đường đi nước bước rồi bữa nào chị em đi kiếm Ðạt một lần nữa coi.
Trâm vâng lời mẹ mà đi liền.
Qua nhà Tư Ðịnh. Trâm tỏ thiệt tháng trước nàng cùng chị dâu có ra Mỹ Tho mà kiếm anh. Lại xóm chài thì Ðạt không còn ở đó nữa. Người ta nói Ðạt đã làm Cai và coi lính Mã tà và cùng với người vợ mới là Hai Dần, qua ở bên thành. Trâm làm gan lên thành mà kiếm. Nhưng đi được một khúc rồi nàng thấy Tây nhiều quá, mà không có người mình hỏi cho biết nhà Ðạt ở đâu, nàng sợ Tây bắt, nên thối lui xuống xuồng mà về. Nàng hỏi Tư Ðinh bây giờ nhà Ðạt ở chỗ nào, đi đường nào mà lại đó, mình không phải lính, mình đi có bị tra hỏi bắt bớ gì không, xin nói cho nàng biết đặng bữa nào rảnh nàng đi kiếm nữa.
Tư Ðịnh mới bắt đầu thuật chuyện tình cờ mà gặp Ðạt rồi Ðạt dắt về nhà. Trâm nói mẹ đã thuật cho nàng nghe rõ rồi, chẳng cần nói nữa, xin chỉ đường lại nhà Ðạt mà thôi.
Tư Ðịnh nói:
- Tại chợ Mỹ cháu đi ra đường mé sông trở ra vàm, đi một chút tới bến đò.
- Phải. Có bến đò tôi thấy.
- Ừ, tới bến đò đó cháu quẹo qua phía tay mặt mà đi thẳng hoài, đi một khúc xa cháu sẽ thấy bên tay trái có trại lính Tây lúm khúm, ngoài cửa có Tây bồng súng đứng gác. Ngang đó, mà bên tay mặt là trại lính Mã tà cất bằng cây lá. Dựa mé đường có mấy cái nhà. Ðó là nhà của đội Cai ở, còn lính ở trại phía sau. Chú Hai Ðạt làm Cai chú ở cái nhà thứ nhì kế bên nhà ông Ðội.
- Mình đi vô tới đó, có ai tra hỏi gì hay không?
- Không mà vợ chồng chú Hai Ðạt có dặn nếu ai có hỏi thì cứ nói "Tôi đi thăm em gái ông Ðội Tồn là vợ chú Cai Ðạt" thì họ sẽ để cho đi thong thả.
- Chú có thấy vợ bé của ảnh hay sao?
- Thấy, có ra trình diện và cầm tôi ở ăn cơm. Mà hôm qua tôi giấu, không dám nói với ông bà. Người dó trắng trẻo, vui vẻ, ngộ lắm.
- Tôi có gặp, chị Hai tôi cũng biết nữa.
- Hèn chi thím đó cứ theo dặn tôi về nói với cháu và thím Hai hễ có đi chợ thì làm sao cũng phải ghé thăm chú Hai, chú trông lắm.
- Thím biểu cứ đi, đừng sợ chi hết. Tây dễ lắm, không cấm cản ai đâu. Mà có ai hỏi thì cứ nói đi thăm em gái ông Ðội Tồn, vợ chú Cai Ðạt, thì không ai dám làm khó.
- Ði dễ như vậy thì hai chị em tôi kiếm cớ mà đi. Hôm trước tôi đi khỏi bến đò, mà tôi đi thẳng chớ không quẹo qua tay mặt. Ði một khúc tôi thấy Tây tôi sợ rồi tôi đi trở lại. Té ra hôm qua chú nói chuyện nên cha tôi hay anh Hai tôi đầu Tây lãnh chức Cai Mã tà rồi phải hôn?
- Cha chả! Ổng hay giận chú Hai quá. Ổng biểu tôi nói chuyện cho chú biết ông không nhìn chú là con nữa, chú không được về nhà ông. Phải tôi dè như vậy thì tôi giấu, tôi có dám nói đâu. Bởi tôi thấy ông giận nên tôi nín luôn, không dám nói chú có vợ bé.
- Việc ảnh có vợ nhỏ và lãnh chức Cai hôm chị em tôi đi kiếm ảnh, thì người xóm chài có nói cho chị em tôi hay rồi. Nhưng về tôi nói với mẹ tôi mà thôi, chớ không dám cho cha tôi biết. Mà sớm muộn rồi thì cha tôi cũng phải hay. Thà là chú Tư cứ nói phứt cho rồi.
- Thím Hai hay chú ra ngoài Mỹ chú có vợ nhỏ thím không giận sao?
- Không, chỉ nói chồng mình phải bỏ nhà đi lánh nạn. Mình mắc nuôi cha mẹ, không thể theo giúp đỡ chồng được. May có người hảo tâm lập thế che chở cho chồng mình yên thân, lo cơm cháo áo quần cho chồng mình nữa. Vậy thì mình mang ơn chớ sao lại giận.
- Thím Hai hiền đức quá! Ðàn bà như vậy chồng nỡ nào bỏ được mà lo mất chồng. Chừng giặc giả yên rồi, chú sẽ trở về với thím chớ gì.
- Biết đâu chừng nào Tây về thì yên. Chừng nào yên chú Tư?
Thị Trâm từ mà về. Nàng nói chú Tư Ðịnh đã chỉ đường cho nàng biết mà đi tìm nhà anh rồi. Bây giờ hễ đi chợ được thì nàng đi ngay lại đó, chẳng cần hỏi ai mà chẳng sợ chi hết. Nàng lại nói cho mẹ và chị dâu hay Thị Dần có nhắn với Tư Ðịnh biểu Ðậu với Trâm vô mau mau, vì Ðạt trông lắm.
Thị Ðậu than: "Bây giờ lấy cớ gì mà đi chợ?". Bà Nhiêu nói: "Ruộng bây cấy xong rồi lúc nầy bây rảnh. Vậy bữa nào có chuối đúng vóc được chừng chục buồng và dừa nạo được ít quày thì đốn chở ra ngoài chợ mà bán đặng lấy thịt cá mắm muối mà ăn. Sao lại không có cớ?"
Hai nàng hiểu ý mẹ muốn mình đi thăm Ðạt nên bày biểu như vậy. Ðến xế hai chị em ra sau vườn thăm chừng dừa chuối coi chừng nào có thể đốn mà bán được. Hai nàng lấy làm mừng mà thấy dừa chuối đã có sẵn nhiều, trong năm ba ngày nữa có thể đốn mà chở một xuồng không hết. Hai nàng vô cho mẹ hay.
Tối lại bà Nhiêu nói cho ông hay dừa chuối có nhiều mà không thấy ghe lại mua. Con với dâu cấy xong rồi, lúc nầy nó ở không. Vậy bà tính biểu nó đốn chở ra chợ mà bán.
Ông Nhiêu nghe như vậy mà không nói gì hết, bởi vậy hai bữa sau bà Nhiêu biểu con với dâu đốn dừa chuối chở đi bán. Ðậu với Trâm đốn được 12 buồng chuối, 2 quày dừa xiêm với một nhánh cau đầy, chị em vui vẻ chắc bán có tiền bộn bộn. Khuya dậy nấu cơm ăn rồi đem đồ xuống xuồng, đồ nhiều lại nặng nên chiếc xuồng khẳm liển. Bà Nhiêu khuyên nên để lại ít buồng cho nhẹ xuồng. Hai nàng không nghe lời nói cứ kiềm giầm cho sâu mái mà bơi, thì không đến nổi chìm mà sợ.
Thi Ðậu than, ra tới chợ bị chiếc xuồng chở chở đầy dừa, chuối đầy không biết phải gởi cho ai coi đặng đi kiếm Ðạt với nhau. Thị Trâm mới tính, ra tới chợ đậu ở dưới chợ coi chừng đồ. Nếu có bạn hàng hỏi mà mua sỉ thì bán hết cho họ giá nào cũng được. Trong lúc ấy để một mình Trâm đi kiếm nhà Ðạt, kiếm được rồi sẽ quay trở lại gởi xuồng và rước Ðậu đi.
Lúc ở nhà sửa soạn đi thì chị em sốt sắng dữ lắm. Mà đi gần tới chợ thì hai nàng đều lo. Trâm đi kiếm Ðạt không biết họ có tra hỏi làm khó hay không còn Ðậu lo xuồng dừa chuối không biết bỏ cho ai đặng đi kiếm Ðạt. Thấy bước đường có chỗ trắc trở, hai nàng lo ngại nên hết vui.
Mặt trời mọc một lát thì hai chị em bơi ra tới chợ. Ðậu lựa một chỗ trống trước mặt chợ mà đâm vô. Trâm cắm cây giầm cho chắc rồi bước lên mé buộc xuồng vào đó. Ðậu cũng gác cây dầm lên đứng một bên em.
Hai chị em ngơ ngáo ngó vô chợ, ngó người đi qua đi lại trên đường, ngó tứ phía trong lòng không yên.
Trâm quen tánh cương quyết nên dụ dự một chút rồi cứng cỏi nói: "Thôi chị Hai ở đây nghe hôn. Ai có lại hỏi giá dừa chuối mà mua, thì chị liệu mà bán phứt cho rồi. Ðể em đi kiếm một mình thử coi. Bữa nay em quyết kiếm cho được, dầu phải ở tới chiều em cũng ở." Trâm nói dứt lời rồi xây lưng đi liền, đi theo hướng ra vàm y như lời của Tư Ðịnh dặn. Ði tới bến đò nàng thấy có con đường ngay đâm xuống đó. Lúc ấy người ta đi chợ lăng xăng. Nhưng nàng nhớ lời Tư Ðịnh nên biết con đường bên tay mặt đó là đường lên trại lính, bởi vậy nên nàng không thèm hỏi ai hết cứ quẹo qua đó mà đi, quyết đi mạnh mẽ, dầu gặp cọp cũng không sợ.
Trâm thấy phía trên có năm sáu người đi xuống phía bến đò, nhưng đi rãi rác chớ không phải đi chung. Thấy có người ta đi thong thả trong đường đó nàng càng thêm vững bụng.
Thình lình trong đám người đi ngược chiều đã có một thiếu phụ tay bưng rổ, miệng la lớn: "Cô Trâm phải cô Trâm đó không?"
Trâm ngạc nhiên nên chậm bước mà ngó. Người thiếu phụ đó xăng xớm đi riết tới. Trâm nhìn kỹ té ra là Thị Dần. Trâm mừng quá nên cũng đi xốc lại vừa đi vừa nói: "Phải, phải tôi đi kiếm nhà chị đây".
Thị Dần cũng mừng nên ôm Trâm mà hỏi:
- Bữa hổm anh Ðạt đi chơi, tình cờ gặp chú Tư Ðịnh, ảnh mời về nhà. Tôi nhắn với chú biểu cô với chị Hai ra chơi. Chú có nói lại hay không?
- Có, nhờ chú chỉ đường, nên tôi mới biết, rồi tôi liều mạng mà đi đây. Hôm trước hai chị em tôi có qua kiếm bên xóm chài.
- Tôi về bển, có nghe bà Sáu nói lại. Tôi có dặn bả nếu cô có ra nữa thì chỉ đường cho cô biết mà qua nhà tôi.
- Bữa hổm bả nói, bả biết ở bên thành, nhưng không biết ở chỗ nào. Tôi làm gan nên đi kiếm thử. Mới đi được một khúc thấy Tây tôi sợ quá, nên trở lại.
- Có sao đâu mà sợ. Bữa nay cô đi một mình hay sao?
- Có chị Hai chớ.
- Ủa chỉ ở đâu?
- Chỉ ở đằng chợ. Chỉ mắc giữ xuồng, tại dưới xuồng có dừa chuối nhiều quá.
- Vậy hả? Thôi cô trở lại chợ với tôi đặng lấy dừa chuối và gởi xuồng rồi dắt chị Hai đi luôn với mình.
Hai nàng dắt nhau trở lại chợ, Trâm hân hoan nên nói ngay ra:
- Chú Tư Ðịnh về nói chuyện đi chợ gặp anh Hai. Anh đã đầu giặc và lãnh chức Cai Mã tà, thì cha giận cha rầy quá, cha nhứt định không nhìn ảnh là con nữa. Bữa đó chị em tôi mắc cấy, không có ở nhà. Bữa sau tôi qua nhà chú mà hỏi thăm đường đi nước bước, chú mới chỉ cho tôi biết. Chị em tôi muốn đi kiếm, mà sợ cha rầy, không biết lấy cớ gì để đặng xin đi chợ. Mẹ mới nói dừa chuối đúng lứa bộn mà không có ghe đến mua. Chị em tôi cấy xong rồi. Vậy đốn dừa chuối chở ra chợ mà bán đặng mua thịt cá về ăn. Nhờ vậy nên đi mới được đây. Bây giờ đồ chở khẳm xuồng, tới 12 buồng chuối, 2 quầy dừa và một nhánh cau. Chị muốn dùng bao nhiêu thì chị lấy, còn dư lại chị làm sao bán giùm, chớ không lẽ chở về?
Thị Dần nói:
- Chở đồ nhiều dữ vậy sao? Nhưng cô đừng lo. Tôi quen với mấy chị bán dừa chuối. Ðể tôi giao cho mấy chị bán giùm cho cô.
- Ðược vậy thì khoẻ lắm. Mà còn chiếc xuồng. Nếu hai chị em tôi đi hết theo chị đặng gặp anh Hai thì bỏ xuồng mất còn gì?
- Không mất đâu. Tôi sẽ gởi cho họ coi chừng giùm. Ai dám lấy mà sợ. Chú Tư Ðịnh về có nói tôi làm bạn với anh Hai hay không?
- Thấy cha giận rồi chú thụt, chú không dám nói cho cha hay. Nhưng chú có nói với tôi, rồi tôi nói lại cho má với chị Hai biết. Mà chuyện đó hôm trước bà già ở xóm chài cũng đã nói cho chị em tôi hay rồi.
- Chị Hai coi bộ chỉ buồn hay không? Chắc chỉ giận tôi lắm phải hôn?
- Không có đâu, chỉ không buồn không giận ai hết. Chị không tin để lát rồi chị coi.
- Ðược như vậy thì tôi mừng lắm. Vì thấy anh Hai bị hoạn nạn, tôi muốn làm ơn che chở giùm. Trời khiến anh em lại thương nhau thành ra như tôi muốn giựt chồng của chị Hai. Nếu chỉ có phiền xin cô nói giùm: tôi không có ý xúi ảnh bỏ chỉ mà theo tôi đâu. Tôi thương ảnh, tôi làm bạn đặng giúp ảnh vậy thôi. Nếu trời khiến xui tôi có duyên nợ với ảnh, tôi phải ở đời với ảnh, thì bề nào chị Hai cũng là lớn, tôi là nhỏ tôi đâu có vượt bực hay thương ảnh một mình. Vậy chị em nên hoà thuận với nhau đặng chung lo cho chồng tốt hơn là đố kỵ.
- Chỉ nói ảnh lánh nạn, chỉ mắc nuôi cha mẹ không theo được mà lo cho ảnh. Có chị ở ngoài nầy chị lo cơm cháo áo quần cho ảnh thì chỉ mang ơn lắm, chỉ có giận đâu.
- Chỉ nói như vậy thì đáng cho tôi kính phục chỉ lắm.
Chị em nói chưa hết chuyện thì ra tới bến chợ Dần thấy Ðậu đang đứng tại mé sông thì kêu: "Chị Hai! Chị Hai!" vừa kêu vừa đi riết lại. Hai người mừng nhau vui vẻ vô cùng.
Dần ngó dừa chuối dưới xuồng rồi nói: "Bây giờ phải lo xử cái đám dừa chuối nầy cho rảnh tay chưn đặng chị em mình lên nhà rồi sẽ nói chuyện. Ðồ ở nhà chở ra thì phải để chút đỉnh cho anh Hai ăn.Vậy xin cô Ba lựa đem lên bờ một quày dừa với hai buồng chuối đặng lát nữa mình xách lên nhà. Còn lại bao nhiêu thì mình để dưới xuồng. Ðể tôi lại tôi giao cho chị Thiện bán giùm rồi trưa chiều mình trở ra mà lấy tiền"
Dần nói rồi bỏ đi lên chợ.
Trâm xuống xuồng xách bỏ lên một quày dừa, với 2 buồng chuối, ít nải mà trái no tròn. Chẳng bao lâu Dần trở lại có một chị theo sau, Dần chỉ chiếc xuồng mà nói: „ Ðồ trong nhà gởi ra cho tôi bán, dừa chuối với cau đó. Chị làm ơn gởi bán dùm cho tôi nghe hôn. Chị liệu giá phải thì thôi. Tôi không nói gì đâu chị đừng ngại".
Chị Thiện nói:
- Ðược mà, thím để đó cho tôi, thím Cai. Chị em mà. Ðể tôi bán cho.
Thị Dần hỏi:
- Chừng nào em tôi ra lấy tiền được?
- Trưa xế gì lấy tiền cũng được.
- Tôi gởi luôn chiếc xuồng cho chị coi giùm được hôn?
- Ðược mà. Ai dám lấy mà sợ. Ðể đó cho tôi.
Bây giờ hai chị em mới tính chia nhau xách hai buồng chuối với quày dừa mà đi. Dần nói chưa đi được, vì nàng còn phải lên chợ mua thịt cá đặng đem về nấu cơm ăn. Vậy thì để đồ lại đó đặng đi chợ một lát rồi sẽ trở lại mà xách. Ba người dắt nhau vô chợ. Dần mua thịt cá rau cải rất nhiều bỏ hết vô rổ rồi mới trở lại bến.
Trâm mạnh mẽ dành xách quày dừa. Hai người kia chia với nhau mỗi người xách một buồng chuối, Ðậu thấy Dần đã bưng một rổ đồ ăn, lại còn xách chuối nữa, sợ nàng mỏi tay nên Ðậu biểu để Ðậu xách luôn 2 buồng chuối. Dần không chịu, nói một tay bưng rổ, một tay xách chuối được.
Ba chị em đùm đề xách đi, mới tới ngang bến đò thì gặp Ðạt mặc sắc phục lính, hai tay áo có gắn lon vàng tươi, đầu đội nón gõ, đương thả rều đi chơi.
Ðạt thấy vợ, thấy em thì mừng quýnh, giăng tay cản lại, cười nói om sòm giữa đường. Ðậu với Trâm đã có Dần, mà còn có thêm Ðạt nữa thì hết sợ Tây, hết lo ai tra vấn, nên cũng mừng nói lăng xăng, thêm Dần xen vô khoe mình đi rước chị em. Cả 4 người đều giành nhau mà nói, gây ra một cuộc gia đình hội hiệp thân ái tràn trề, giữa đám người đi chợ đông dày, dưới bóng cây gáo che tàn mát mẻ.
Mừng nhau rồi Ðạt nói: "Thôi đi về nhà rồi sẽ nói chuyện. Ðưa bớt đồ qua xách giùm cho." Ðạt giựt quày dừa xiêm của Trâm mà xách Trâm không lẽ đi tay không nên rước rổ đồ ăn của Dần mà bưng, để cho Ðạt xách dừa đi giữa. Hai vợ xách mỗi người một buồng chuối đi kềm hai bên làm cho người đi đường cũng ngó mà cười chúm chím.
Bây giờ Trâm yên chí lại nhẹ tay mới nhìn cảnh vật dọc đường cho nhớ đặng sau đi nữa.
Lính Tây đi tốp 3 người đi tốp 5 người, qua lại dập dều, không ai nói động tới mình hết vậy mà họ đi vô trong xóm trong làng thiên hạ sợ trốn hết. Lời Tư Ðịnh nói không sai, thiệt đi một khúc xa xa thì tới trại lính. Bên tay trái thì thành của Tây có lính bồng súng đứng gác râu ria xồm xàm. Còn bên tay mặt là lính Mã tà. Dựa lộ có mấy nhà lá nhỏ để cho đội Cai ở, lính ở hai dãy trại cất ở phía sau.
Tới cái nhà đầu, Dần chỉ mà nói: "Nhà nầy ông Ðội là anh tôi ở. Anh Hai làm Cai nên ở nhà kế bên đây, từ rày sắp lên chị Hai với cô ba ra thăm thì cứ đi thẳng vào đây, đừng sợ chi hết".
Vô tới nhà, Ðậu với Trâm đi từ trước ra sau mà coi. Nhà nhỏ lợp lá vách lán, mà gọn ghẽ sạch sẽ lắm.
Ðạt đi theo mà nói: "Ðể nấu cơm ăn hai em ở chiều mát sẽ về." Ðậu nói: "Ðâu mà được. Ở lâu cha mẹ trông". Dần nói: „Cha mẹ có hỏi tại sao về trễ, thì chị nói phải chờ bán cho hết dừa chuối rồi mới về được, mà thiệt hồi nảy chị Thiện nói đến xế mới lấy tiền, thế thì làm sao lấy tiền được mà về sớm".
Trâm nói: "Lấy tiền trễ rồi thì làm sao mua thịt cá được mà đem về cho mẹ."
Dần nói: "Hồi nãy tôi có mua vài cân thịt với ít con cá lóc để gởi về cho mẹ sẵn rồi. Cô khỏi lo, chừng về tôi đi theo ra chợ mua khô mắm gởi thêm nữa"
Ðạt dặn Dần: "Chiều em chia bớt dừa chuối mà cho anh Ðội, chớ mình anh ăn gì hết. Chia cho ảnh một buồng chuối với nửa chục dừa nghe hôn. Thôi, mấy chị em áp nấu cơm ăn".
Ba nàng, người làm cá, người nhúm lửa, người xắt thịt phụ nhau đặng dọn bữa cơm sớm mơi. Ðạt nhắc một cái ghế đem vô đó mà ngồi đặng nói chuyện với vợ và em.
Ðạt hỏi Trâm:
- Bữa hổm chú Tư Ðịnh về, chắc chú có nói Qua đi lính làm Cai phải hôn em?
- Bữa đó tôi với chị Hai mắc đi cấy không có ở nhà. Chú qua nói với cha mẹ. Cha giận quá. Cha dặn chú có gặp anh nữa thì nói cha không nhìn anh là con của cha nữa. Anh đã phản bội mà đầu giặc, anh bán nước hại dân, anh không được về nhà cha nữa. Từ bữa cha đi Sài Gòn về, cha hay anh đi thì cha đã giận lắm rồi, không nói tới tên anh nữa. Chừng hay anh đi lính cho Tây cha càng giận thêm.
- Mẹ có giận anh hay không?
- Mẹ không nói gì hết. Tôi coi ý mẹ không giận. Nhưng cha nói thế nào cha nói, mẹ không dám cãi với cha
- Hai em nghĩ coi, người ta biết qua trong nghĩa binh nên hăm bắt qua. Qua phải lập thế đặng yên thân chớ. Qua thưa với cha thì cha không cho. Ông biểu phải tiếp tục kháng chiến. Thà chết cho thơm danh, chớ đầu giặc xấu hổ lắm. Cụ Thủ Khoa bị đày rồi. Anh em trong đoàn nghĩa binh ra đầu thú cũng nhiều. Còn gì đâu mà kháng chiến. Huống chi tầm vông với mác thong mà cự với súng đạn, cự làm sao nổi. Cha biểu phải chết để trả nợ non nước. Chết mà không lấy nước lại được thì chết có ích gì? Chết đặng cho thiên hạ vinh thân phì gia, ăn trên ngồi trước. Cha không thương qua cha từ qua thì qua chịu chớ thiệt chết như vậy qua không chịu chết. Mẹ có phiền qua thì hai em cắt nghĩa cho mẹ nghe. Qua phải đi lính đây là bất đắc dĩ, qua phải ẩn núp cho khỏi ở tù, khỏi bị đày, chớ qua không có bán nước hại dân gì hết.
Thị Ðậu nói:
- Có một mình cha giận anh cha nói anh bán nước, chớ mẹ có nói đâu. Mẹ cũng muốn cho anh sống, chớ đâu có muốn cho anh chết.
- Còn việc nầy xin em đừng phiền qua. Ra ngoài nầy có một mình, không ai lo cơm nước cho qua, nên qua phải gá nghĩa với cô Hai Dần đây đặng trước qua nhờ thân thế ông Ðội che chở. Sau qua có người lo cơm nước. Vì thời cuộc ép buộc nên mới sanh chuyện vợ lớn vợ nhỏ như vầy, xin em đừng buồn. Cha mẹ cầm trầu cau cưới em, lại vợ chồng ăn ở với nhau có con. Bề nào em cũng làm lớn, không mất phần đâu mà sợ.
- Em mắc nuôi cha mẹ, không theo mà giúp đỡ anh được. May có cô Hai lãnh lo cơm cháo áo quần cho anh thì em cám ơn cô chớ đâu có buồn.
- Kêu nó bằng em chớ đừng có kêu bằng cô.
Thị Dần tiếp:
- Chị Hai nói mấy câu đó đủ cho em thấy chị biết thương em. Em mừng và cám ơn chị lắm. Em hứa, em sẽ kính phục chị hoài hoài và em sẽ thay mặt cho chị mà lo cho anh Hai, để chị rảnh mà lo cho cha mẹ. Chị em mình đồng tâm hiêp lực chung nhau mà thờ chồng và thờ cha mẹ chồng. Phận em mồ côi lại không có chị em ruột. Làm bạn với anh Hai em có được một người chị với một người em gái, em nhận thấy người chị cũng như người em đó, cả hai đều không ghen ghét em, thiệt em mừng lắm vậy. Em nguyện em sẽ tận tâm mà đáp thạnh tình ấy.
Ðạt nói:
- Qua đã biết ba người biết bụng nhau rồi, thì nên thương yêu hoà thuận lẫn nhau cho vui, đừng có đố kỵ giận hờn với nhau chi hết. Má thằng Tâm có ra thăm qua nữa thì cho thằng Tâm theo đặng qua gặp nó một lát. Vắng mặt lâu qua nhớ nó quá.
Thị Ðậu nói:
- Cha không cho đâu anh. Hôm trước tôi muốn chở nó đi. Cha nói đi nắng gió cha không cho. Mà từ bữa đi Sài Gòn tới nay, cha bắt nó học tối ngày có rời nó đâu.
Thị Trâm hỏi anh:
- Bây giờ anh không đi câu đi lưới nữa, anh để chiếc ghe lườn ngoài nầy làm chi?
- Hôm dọn về ở bên nầy, Qua không biết gởi cho ai, nên Qua cho người dưới Kỳ Hôn mướn. Họ mướn luôn câu và lưới nữa.
- Tôi muốn đem về trỏng đặng chị em tôi câu lưới kiếm cá ăn, hoặc chở dừa chuối đi bán, chiếc xuồng lóc chóc quá, chở nhiều sợ chìm dữ.
- Ðược để Qua đòi lại, rồi sau hai chị em có ra nữa rồi chèo về trỏng mà dùng.
Cơm chín rồi dọn ra mà ăn với nhau, chồng vợ anh em thuận hoà vui vẻ hết sức. Cuộc vui ấy kéo dài đến xế rồi Thị Ðậu sợ ở nhà cha mẹ trông nên nàng đòi về.
Ðạt với Dần thay áo rồi đưa Ðậu với Trâm ra chợ. Dần bắt hai con cá lóc bỏ vô rổ với xâu thịt heo mua hồi sớm mơi, giao cho Trâm đem về. Ra tới chợ dần lại chỗ chị Thiện bán trái cây mà tính tiền dừa chuối. Chị Thiện nói đồ bán chưa hết nhưng chị lấy 7 quan tiền mà trả cho Dần đặng Trâm với Ðậu mua đồ đi về.
Ðậu lấy tiền ấy mua một gói trà, một cân mắm, hai ốp khô hô(#2) và một con khô lóc đem xuống xuồng. Dần mua kẹo cốm gởi về cho Tâm, rồi Ðạt xách trà với bánh in, thèo lèo gởi về cho cha mẹ nữa. Dần căn dặn Ðậu với Trâm sau có ra thì đi ngay vô nhà, đừng sợ chi hết.
Ðạt kính gởi lời về thăm cha mẹ, dặn Trâm khuyên với mẹ thủng thẳng khuyên giải cho cha bớt bực tức giận hờn, Ðạt nói mà nước mắt rưng rưng làm cho vợ với em cảm động cực điểm.
Kẻ ở người về cùng nhau bịn rịn một hồi lâu, dặn dò đủ chuyện rồi Thị Ðậu với Thị Trâm mới xuống xuồng bơi đi về Tịnh Giang.
Ðạt đứng ngó theo chàng ưa nước mắt, lòng thắt thẻo mặt buồn so. Chừng xuồng khuất rồi, Dần mới kéo cánh tay Ðạt biểu đi về kiếm chuyện mà nói cho chồng khuây lãng.
Chú thích:
(1-) chất nhựa lấy từ cây dầu. Dầu chai trộn với sớ gai để trét những chỗ hở của ghe xuồng
(2-) cá hô (một loại cá biển to lớn dài hơn 1 mét) được xẻ đôi phơi khô và cột lại thành từng ốp
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: HoBieuChanhcom
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 1 tháng 3 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--