Dịch giả : Nguyễn Văn Nhuận
NGỮ GIẢI cho PHẦN THỨ NHẤT

TIẾNG NÓI VÔ THINH
1) Iddhi: Tiếng Pali Iddhi đồng nghĩa với tiếng Sanscrit Siddhis, có nghĩa là những quan năng linh khí, những quyền lực phi thường của con người. Có hai loại Siddhis, một nhóm gồm có những tinh lực linh khí thấp thỏi, thô sơ; nhóm kia buộc phải có sự huấn luyện cao đẳng về quyền năng thần bí. Krishna nói trong kinh Shrimad Bhãgavad: “ Kẻ nào chuyên tâm thực hành Yoga, chế ngự được giác quan và tập trung tinh thần nơi ta, kẻ đó là một nhà Yogi mà tất cả những Sddhis đều sẵn sàng để cho người dùng.”
2) Nada: “Tiếng câm” hay là “Tiếng Vô Thinh”, theo tự nghĩa có lẽ phải hiểu là “tiếng nói theo nghĩa thần bí” bởi chữ Sanskrit Nada đồng nghĩa với chữ Senzar.
3) Dhãranã: là tập trung trọn vẹn cái trí vào một đối tượng nội tâm, đồng thời hoàn toàn không chú ý đến những gì thuộc về vũ trụ bên ngoài hay cảnh giới của giác quan.
4) Đại Sư là danh từ các đệ tử lanco hoặc chela dùng để gọi “Cái Ta Cao Siêu” của chúng ta. Danh từ này đồng nghĩa với chữ Avalokitesvara hay là chữ Adibuddha của Phật giáo bí truyền, Atma, cái Ta cao siêu của người Bà la môn và Christos của Cao đẳng Thần học hồi xưa.
5)  Chữ Hồn ở đây dùng để chỉ chân nhân của con người (Ego human) hay Manas, trong phép phân sắp theo số 7 của chúng ta gọi là “Hồn Người” để phân biệt với thần hồn và hồn thú.
6) Nohà Màyà  “Ðại ảo mộng” tức là Vũ Trụ khách quan.
7) Sakkayaditthi “lầm lạc” cho rằng phàm nhân là ta.
8) Attavada: tà thuyết tin có hồn, hay nói cho đúng là tin có sự chia rẽ giữa hồn đó là tiểu ngã với Ðại ngã Duy nhất, phổ biến vô cùng tận.
9) Cattvajnàni là kẻ biết hay là kẻ phân biệt được những nguyên lý trong thiên nhiên và trong con người, và Atmajnàni là kẻ biết được Atman hay là Ðại Ngã phổ biến duy nhất.
10) Kala Hamsa “chim” hay là hạc. Trong kinh Nàdabindu Upanishad (Rig Veda) do Hội Thông Thiên Học ở Kumbakonam phiên dịch có nói “Vần A được xem như cánh bên phải của chim, U như cánh bên trái, M như cái đuôi và Ardhamàtrà (nửa thước) như cái đầu”.
11) Người phương Ðông hiểu chữ đời đời khác hơn người phương Tây. Thường có nghĩa là 100 năm hay là tuổi của Brahma, kỳ gian của một Kalpa hay là một chu kỳ lâu 4.320.000.000 năm.
12) Theo kinh Nàdabindu đã kể trên đây: “Ðối với nhà Yogi cưỡi hạc (tham thiền về tiếng AUM) thế lực của nhân quả hay là muôn ngàn tội lỗi không động đến được”.
13) Hãy bỏ đời sống của phàm nhơn, của xác thịt, nếu con muốn sống bằng tinh thần.
14) Ba trạng thái của tâm thức là: Jàgrat, trạng thái Thức Tỉnh; Svapna, trạng thái chiêm bao và Sushupti, trạng thái ngủ mê. Ba trạng thái Yogi đó dắt đến trạng thái thứ tư hay là:
15) Turiya, bên kia trạng thái không chiêm bao, trạng thái cao hơn tất cả, trạng thái siêu việt của tâm thức thần bí.
16) Vài nhà Thần Bí phương Đông để bảy cảnh thực tại, bảy Lokas hay là cõi tinh thần trong mình của Kala Hamsa, con hạc ở ngoài vòng Thời gian và Không gian nó biến thành con hạc ở trong thời gian khi nó trở nên Brahma thay vì Brahma (trung lập).
17) Cõi trần, nơi đó những hiện tượng chỉ tiếp xúc với ngũ quan và ý thức của óc xác thịt thôi.
18) Cõi trung giới, cõi linh khí nơi có những trí giác ở ngoài tầm tri giác của ngũ quan và có những cảnh tượng lừa dối, cảnh giới của đồng cốt. Eliphias Levi gọi là “Xà Tinh”. Không có một cái hoa nào hái nơi miền đó đem xuống cõi trần mà không có một con rắn quấn chung quanh nhánh. Ðó là cõi Ðại Ảo Mộng.
19) Nơi miền này Tâm Thức thần bí mở rộng và không còn có sự nguy hiểm nào cho kẻ đã đến được nơi đây.
20) Bực Ðắc Pháp trao truyền mối Ðạo và dìu dắt đệ tử cho đến khi sanh ra trong cõi tinh thần hay là sanh lần thứ nhì được gọi là cha, Thầy hay là Guru.
21) Adjnàna là dốt nát hay là vô minh, trái với trí huệ jnàna.
22) Trong các tôn giáo công truyền thì Màra là con quỉ, nhưng trong triết học bí truyền thì đó là nhân cách hóa sự quyến rủ của tánh xấu nơi con người và dịch đúng theo tự nghĩa là “cái giết chết” Linh Hồn. Người ta tượng hình nó như một vị Vua (Ma Vương) đầu đội mũ triều thiên có một hột ngọc chiếu sáng cho đến làm mờ mắt những kẻ nhìn nó; sự chiếu sáng này cố nhiên là ám chỉ sự mê hoặc của tánh xấu.
23) Phòng trong trái tim, Bắc phạn gọi là Brahmapura “Lửa Mầu” là Kundalini.
24) “Lửa Mầu” và “Mẹ Thế Giới” là tên của Kundakini, một trong những thần lực của nhà Yogi. Ðó là Bồ Ðề về mặt tích cực thay vì tiêu cực (thường người ta chỉ biết mặt tiêu cực hay là thụ động của Bồ Ðề, khi nó là cái thể để chứa Tinh Thần Tối Cao (Atma). Ðây là một thứ điện tinh thần, một năng lực sáng tạo, một khi đánh thức rồi thì nó có sức tiêu diệt hoặc sáng tạo.
25) Kechara, kẻ du ngoạn hoặc “lên cõi trời”. Theo trong quyển Jnaneshvari, chúa tể của các kinh thần bí, Adhyaya thứ 6 thân thể của nhà Yogi giống như làm bằng gió, như “một vừng mây có mọc ra tay chân”. Sau đó “người (yogi) thấy được những vật xa tận bên kia biển và sao; người nghe và hiểu được tiếng của Chư Thiên và biết được nhữïng gì xảy ra trong trí của con kiến.
26) Giống như đờn Tì bà.
27) Sáu nguyên tố; tức là khi phàm nhân đã tiêu diệt và phần thấp của cá tính đã lẫn mất trong nguyên tố thứ bảy hay là Tinh Thần.
28) Vị đệ tử hợp làm một với Brahma hay là Atman.
29) Dục thể do nguyên lý Kamic tạo nên gọi là Kama rùpa hay là thể ham muốn.
30) Manasa rupa. Cái thứ nhất chỉ cái vía hay tư ngã, cái thứ nhì chỉ cá tính hay là Chơn Nhơn luân hồi mà tâm thức của nó ở cõi trần hay là Hạ Trí cần phải được đình chỉ lại.
31) Kundalini được gọi là “quyền lực uốn khúc như con rắn” hay là tròn như chiếc nhẫn vì nó tiến theo hình xoắn ốc trong thân thể của nhà Yogi đã phát triển được quyền lực đó nơi người. Nó là một quyền lực có tính chất như điện, như lửa huyền bí hay là Foha đại nguyên lực tiềm tàng trong mọi chất hữu cơ và vô cơ.
32) Con đường này được nói đến trong mọi tác phẩm Thần Bí. Như Krishna nói trong kinh Jnàneshvari: “Khi được nhìn thấy con Ðường này... dù người ta bắt đầu từ phương Ðông hay phương Tây, không thay đổi, hỡi người cầm cung tên là người đang đi trên đường này. Trong con đường này người ta muốn đi đến chỗ nào thì chính người ta trở thành chỗ đó”. “Ngươi là Ðường đi” là câu nói với vị Sư phụ và với vị Ðệ tử sau kỳ điểm đạo. “Ta là lối đi và Ðường Ðạo”, một Đức Thầy nói thế.
33) Adeptship: quả vị Chơn Tiên, nở bông Bồ Tát.
34) Tanhã “ý muốn sống” ham sống, sợ chết, cái mãnh lực này phát sinh luân hồi sanh, tử.
35) Những tiếng huyền bí, âm điệu du dương mà nhà tu luyện nghe được lúc ban đầu chu tuần tham thiền, nhà Yogi gọi là Anahata Shabdã (Anahata là luân xa thứ tư).
36) Ðiều này có nghĩa là thời kỳ thứ sáu trong đường phát triển, huyền bí học gọi là Dhãranã, mọi giác quan có tính cách như một quan năng riêng biệt đều phải bị giết chết (hay là bị làm cho kiệt quệ ở cảnh giới này) bằng cách nhập nó vào giác quan thứ bảy, giác quan siêu đẳng.
37) Xem giải thích số 3.
38) Mỗi thời kỳ phát triển trong Raja Yoga được tượng trưng bằng một hình kỷ hà học. Ðây là hình tam giác thiêng liêng và ở trước Dhãranã D là dấu hiệu của những bậc đệ tử cao cấp, còn hình tam giác kiểu khác nữa là dấu hiệu của những bậc đắc quả vị cao. Ðó là chữ “Ta” mà Ðức Phật đã nói và dùng để tượng trưng cho nhục thân của Ðấng Như Lai khi Ngài đã thoát ly ba phương pháp Bát Nhã. Một khi đã vượt qua thời kỳ hạ đẳng, vị đệ tử không còn nhìn thấy D nữa mà chỉ thấy – sự tóm tắt của – cái Bảy nguyên vẹn. Hình thiệt của cái này không thể cho biết ở đây vì chắc chắn là nó sẽ bị những tay láo dối vớ lấy và dùng vào những việc phạm thượng, bất lương.
39) Ngôi sao chiếu sáng trên đầu là “Ngôi sao điểm đạo”. Dấu hiệu giai cấp của tín đồ phái Shiva, tổ của tất cả các nhà Yogi là một điểm đen tròn, hiện thời có lẽ là để tượng trưng mặt Trời, nhưng ngày xưa là tượng trưng của ngôi sao điểm đạo trong Huyền Bí Học.
40) Căn bản (Upãdhi) của ngọn lửa mà nếu nhà tu luyện còn tại thế thì không khi nào đạt đến.
41) Dhyàna là thời kỳ áp chót ở địa cầu này, trừ phi con người trở nên một vị Mahatma hoàn toàn. Như người ta đã có nói trong trạng thái này nhà Raja Yogi còn có ý thức tinh thần về tự tánh và về động tác của những nguyên tố cao siêu của người. Nếu tiến đến một bước nữa thì người sẽ vượt lên cõi thứ bảy (hay là thứ tư của mấy học phái khác). Mấy phái này sau giai đoạn Pratyãhãra – sự luyện tập để kiểm soát cái trí và tư tưởng – kể chung ba giai đoạn Dhãranã, Dhyãna và Samãdhi làm một gọi là Samyama.
42) Samãdhi là trạng thái trong đó nhà tu luyện không còn ý thức đến mọi cá nhân gồm cả chính nhà tu luyện nữa. Họ trở nên – Tất cả.
43) Bốn thể thức chân lý theo Phật giáo phương Bắc là Ku, “đau khổ và khốn cùng”; Tu, “mọi sự cám dỗ”; Mu, “sự tiêu diệt những cám dỗ” và Tau, “con đường”. Năm “mối chướng ngại” là nhận thức sự khốn khổ, chân lý về sự yếu tính của con người, những sự kiêng cữ khó nhọc và sự cần thiết tuyệt đối phải lìa bỏ tất cả những trói buộc của tình dục và cho đến những dục vọng nữa. Chót hết là “Con đường Giải Thoát”.
44) Tại nơi cửa “Đại Hội” Ma Vương dùng sức sáng chói của hột ngọc để mê hoặc thí sinh.
45) Ðây là con đường thứ tư trong năm con đường luân hồi dẫn dắt và xua đẩy tất cả loài người vào những trạng huống khổ và vui không dứt, những “con đường” đó chỉ là những chi phần của con đường duy nhất, con đường Nghiệp Quả.

Truyện TIẾNG NÓI VÔ THINH Lời nói đầu
223. Con phải chuẩn bị để trả lời với Dharma, luật nghiêm khắc, tiếng nó sẽ thốt lên để hỏi con ở đầu đường, ở bước thứ nhất:
224. “Người đã làm đúng các qui điều chưa? Hỡi người có những ước vọng cao siêu?”.
225. “Người có làm sao cho tâm và trí của người hòa nhịp với trí và tâm của tất cả nhân loại chăng?” Bởi vì, cũng như tiếng gầm thét của con Sông Thánh ứng đáp tất cả những âm thanh của Vạn Vật (10), tâm của “Kẻ muốn nhập lưu” phải rung động đáp lại mọi tiếng thở than, mọi tư tưởng của những gì có sống và có thở.
226. Người ta có thể ví các đệ tử như những sợi dây của cây đàn Vina, gợi những tiếng vang nơi tâm hồn; nhân loại như phím đàn và bàn tay lướt nhẹ trên đó như hơi thở điều hòa của Ðại Hồn Thế Giới. Sợi dây nào không thể đáp lại ngón tay của Sư Phụ, không thể rung động điều hòa với tất cả mấy dây khác sẽ đứt, và sẽ bị tháo bỏ. Tinh thần chung hợp của các Ðệ tử Thinh Văn cũng thế, tất cả phải hòa hợp với tinh thần của Sư Phụ, hợp làm một với Hồn Siêu Việt hay là phải tan nát.
227. Ðó là tình cảnh của những “Ðạo Hữu trong Bóng Tối”, những kẻ giết chết Linh Hồn họ, phái Dad Duapa (11) mà người ta rất sợ.
228. Con đã hòa hợp con người con với sự đau khổ lớn lao của Nhân Loại chưa? Hỡi cử tử muốn vào trong ánh sáng?
229. Con đã làm rồi? Con có thể vào. Tuy nhiên, trước khi đặt chân trên con đường đau khổ, con cũng nên biết trước những hang lỗ bùn lầy của con đường đó.
230. Có được chìa khóa bố thí, bác ái và thương yêu, dịu dàng, con có thể yên lòng trước cửa Dàna, cửa dựng lên ở đầu Ðường Ðạo.
231. Hỡi kẻ hành hương hữu phúc! Con hãy xem cái cửa trước mặt con cao và rộng và dường như rất dễ đi vào. Con đường đi ngang qua đó thẳng ngay, trơn láng và xanh tươi giống như một khoảng rừng thưa có ánh nắng, giữa cảnh rừng già tối mịt, một điểm của cực lạc quốc của Phật A Di Ðà phản chiếu xuống trần gian. Nơi đây, những chim quyên của hy vọng, những chim cánh lông rực rỡ, hót trong những chòm cây xanh tươi, tán tụng sự thành công của những kẻ hành hương dũng cảm. Chúng tưng bừng ca hát năm hạnh của các vị Bồ Tát, năm ngọn suối Bồ Ðề mạnh mẽ và bảy bước trong đường trí thức.
232. Con hãy đi qua! Con đã có chìa khóa, con được an toàn.
233. Và từ đó đến cửa thứ nhì, con đường cũng còn xanh tươi nhưng dốc đứng và khúc khuỷu; thực thế, con đường đến ngọn núi đầy đá nhấp nhô, những đám mây xám ngắt lơ lửng trên triền gồ ghề và xa nữa, tất cả đều đen tối. Hành giả càng đi tới, tiếng hát hy vọng càng nghe yếu lần trong tâm. Bấy giờ sự hoài nghi làm cho hành giả rùng mình, chân bước không được vững vàng như trước nữa.
234. Hãy đề phòng, hỡi cử tử! Hãy đề phòng sự lo sợ nó giống như con dơi bay lúc nửa đêm, giương đôi cánh đen, im lìm chắn ngang giữa ánh trăng trong của Tâm Hồn con và mục tiêu vĩ đại lờ mờ ở tận đằng xa.
235. Hỡi đệ tử, sự lo sợ làm tiêu tan ý chí và tê liệt mọi hành động. Nếu thiếu hạnh Shila con sẽ vấp vào những đá sỏi Nhân Quả làm trầy trụa chân con trên con đường gồ ghề, khổ nhọc.
236. Hãy bước cho vững, hỡi cử tử. Hãy tắm Hồn con trong nước hương Kshanti , bởi lúc này đây con đã đến gần cửa có tên này, cửa dũng cảm và nhẫn nại.
237. Con chớ phút nào nhắm mắt, phải trông chừng cây gậy phép Dorje (12) những mũi tên của Ma Vương luôn luôn bắn ngã kẻ không đạt được Viraga (13).
238. Chớ run rẩy, dưới làn hơi của sự lo sợ chìa khóa Kshanti sẽ sét. Chìa khóa sét sẽ mở không được cửa.
239. Con càng đi tới, chân con sẽ càng gặp hang lỗ bùn lầy. Con đường của con đi, được soi sáng bởi một ngọn lửa, ngọn lửa dũng cảm đang cháy trong tim. Người càng gan dạ sẽ càng tiến, người càng sợ thì ánh sáng càng mờ và chỉ có ánh sáng mới có thể dẫn dắt con người đi tới. Cũng giống như tia sáng buổi chiều còn sót lại trên đỉnh núi cao, một khi tia sáng bặt đi là đêm tối tới nơi, cũng thế, khi ánh sáng trong tâm tắt mất thì một bóng tối đen dày đặc và đáng sợ sẽ từ trong Chính tâm con dọi trên đường đi, và sự hãi hùng sẽ gắn dính chân con tại chỗ.
240. Hỡi đệ tử, hãy đề phòng cái bóng đó. Không một tia sáng nào của Tinh Thần có thể phá tan cảnh hắc ám của Iinh Hồn ở phía dưới trừ phi mọi tư tưởng ích kỷ đều dang ra hết và kẻ hành hương nói: “Tôi đã từ bỏ cái hình bóng đang qua này, tôi đã phá tan nguyên nhân, nhân đã tiêu thì quả là những bóng tối dọi ra đó cũng không còn nữa.” Bởi vì đây đã đến trận đại chiến cuối cùng, trận tranh phong quyết liệt giữa cái Ta Cao Siêu và cái Ta Thấp Kém. Con hãy xem, chính bãi chiến trường bây giờ đã bị trận đại chiến thôn tính và không còn nữa.
241. Nhưng một khi vượt qua được cửa Kshanti, bước thứ ba của con đã xong. Xác thân của con là tôi tớ của con. Bây giờ con hãy chuẩn bị để qua cửa thứ tư, cửa có nhiều cám dỗ làm say mê con người bên trong.
242. Trước khi con có thể đến gần mục đích này, trước khi đưa tay mở khóa cửa thứ tư, con phải chế ngự mọi sự biến đổi của cái trí ở nơi con và tiêu diệt đạo quân tư tưởng cảm giác vừa tinh tế vừa giảo quyệt âm thầm len lỏi vào trong thánh đường sáng rỡ của Tâm Hồn.
243. Nếu con muốn khỏi bị hại thì con phải biết un đúc bầy con của con tạo ra sao cho được hiền lương, những đứa con đẻ của tư tưởng con, tuy không thấy được, không rõ được nhưng cả đoàn cả lũ quây quần xung quanh nhân loại, chúng là những con cái, những kẻ thừa kế của con người. Con phải nghiên cứu cho rành sự trống rỗng của cái dường như đầy đủ, sự đầy đủ của cái dường như trống rỗng. Hỡi Kẻ hữu chí can đảm! Hãy xem kỹ tận đáy lòng con sâu thẳm và trả lời. Con có biết những uy lực của Chơn Ngã chăng. Hỡi kẻ đã nhận thấy những bóng tối bên ngoài?
244. Nếu con chưa biết, thật nguy cho con.
245. Bởi vì trên đàng thứ tư, một ngọn gió thoáng qua cửa nhiệt vọng hoặc tham dục cũng sẽ lay chuyển ánh sáng yên tĩnh trên vách trắng tinh và trong sạch của Tâm Hồn. Một gợn sóng li ti của mong mỏi hay luyến tiếc đối với mồi danh, bả lợi của Ma Vương chạy dài theo Antahkarana, con đàng nối liền Tinh Thần của con với bản ngã của con, đại lộ của cảm giác, cái kích thích Ahamkara (14), một tư tưởng dầu lẹ như chớp cũng sẽ làm cho con mất hết ba phần thưởng trước mà con đã được.
246. Bởi vì con hãy biết Ðấng Vĩnh Cửu không biết sự thay đổi là gì?
247. “Con hãy bỏ hết tám thứ khổ nàn, bằng không con không thể nào đạt đến minh triết, cũng không thể nào đạt đến giải thoát”, đó là lời của Ðức Thế Tôn, Ðức Như Lai trọn lành, “Ðấng đã theo dấu các bậc đi trước Ngài (15).
248. Hạnh Viraga rất nghiêm khắc và đúng mực. Nếu con muốn được bảo đảm trên con đường này con phải giữ thần trí, và tri giác của con trong sạch hơn trước, sạch hết mọi hành động bại hoại.
249. Con phải thấm nhuần Alaya tinh khiết hợp làm một với Tư Tưởng Linh Hồn vạn vật, nếu con hợp một với nó, thì không gì thắng được con, phân ly với nó, con sẽ là sân chơi của Samvritti (16) là nguồn gốc của tất cả ảo mộng của đời.
250. Tất cả đều vô thường nơi con người ngoại trừ cái tinh hoa trong sạch, sáng ngời của Alaya. Con người là một tia trong suốt của nó, một làn ánh sáng tinh khiết ở bên trong, một hình tướng bằng tro bụi ở bên ngoài. Tia sáng đó là người hướng đạo cuộc đời của con và là Chân Ngã của con, là Ðấng Im Lặng Suy Nghĩ và Canh Chừng, nạn nhân của cái ta ty tiện của con. Linh Hồn con chỉ có thể bị thân hình vô minh của con làm tổn hại thôi, con hãy điều khiển và chế ngự cả hai, như thế con sẽ có thể vượt qua một cách bình an cái cửa “Thăng Bằng” sắp tới.
251. Hãy can đảm lên hỡi kẻ hành hương có đại chí muốn đến bờ bên kia, con chớ nghe những lời quyến rủ đường mật của lũ bộ hạ của Ma Vương thủ thỉ bên tai con, hãy tránh xa những tay cám dỗ đó và các hung thần, ác quỉ ganh gổ Lhamayin (17) trong không gian vô tận.
252. Hãy vững vàng, bây giờ con gần đến cửa giữa, cửa Ðau Khổ có muôn ngàn cạm bẫy.
253. Hãy làm chủ tư tưởng của con, hỡi kẻ phấn đấu để tranh sự toàn thiện, nếu con muốn vượt qua cửa đó.
254. Hãy làm chủ hồn con, hỡi kẻ đi tìm những chân lý bất tử, nếu con muốn đạt đến mục đích.
255. Hãy tập trung con mắt của Linh Hồn vào Ánh Sáng Duy Nhất Tinh Khiết, cái Ánh Sáng không thứ gì kích thích được và đem chìa khóa vàng của con ra mà dùng.
256. Công việc khó khăn đã xong, việc nhọc nhằn của con đã gần mãn, cái hố rộng há miệng để nuốt con đã vượt qua khỏi.
257. Bây giờ con đã qua khỏi hào thành bao quanh cửa Nhân dục, bây giờ con đã thắng được Ma Vương và lũ bộ hạ hung hăng của nó.
258. Con đã rửa tâm con sạch hết vết nhơ, và con đã nặn ra hết máu dục vọng ô trược. Nhưng mà hỡi kẻ chiến thắng vinh diệu, công việc con chưa hết đâu. Hãy xây cao vách tường chung quanh Thánh Ðảo , cái đập giữ cho trí con khỏi tính kiêu căng và tự mãn vì cho rằng chiến công đã đạt được rồi.
259. Một ý niệm kiêu căng sẽ làm hư hại công trình. Bởi thế hãy xây đắp cho thật chắc vì e sợ những lượn sóng dữ dội từ biển cả của Ma Vương bao trùm vũ trụ, ào đến đập vào bờ của con, cuốn mất luôn kẻ hành hương và thánh đảo dầu khi đã thắng trận rồi cũng vậy 
 260. Ðảo của con là con nai, tư tưởng của con là bầy chó, cứ rượt nó mãi trong khi nó chạy đến giòng sông của Sự Sống. Rất nguy cho nai nếu bầy chó quỉ theo kịp nó, trước khi nó đến nơi Trú ẩn gọi là “con đường hiểu biết trong sạch” Jnàna Màrga.
261. Trước khi con có thể ở trong Jnàna Màrga (18) và gọi nó là con đường của con, Linh Hồn con phải trở nên như trái xoài chín, phải ngọt dịu như thịt trái xoài vàng tươi đẹp đối với những đau khổ của kẻ khác, cũng phải cứng rắn như hột xoài đối với những nỗi sợ hãi, buồn khổ của chính con, hỡi kẻ chinh phục sự Sướng và sự Khổ.
262. Phải luyện cho Linh Hồn con cứng như đá để chống lại những cạm bẫy của bản ngã, phải làm cho nó xứng danh là “Linh Hồn Kim Cương”(19).
 263. Bởi vì, giống như viên kim cương chôn sâu trong lòng đất không thể nào phản chiếu được ánh sáng trần gian, Linh Hồn và trí con khi đã chìm sâu trong Jnàna Màrga cũng không thể phản chiếu được một ảo cảnh nào của Ma Vương.
264. Khi con đạt đến trạng thái đó, thì những Cửa mà con phải vượt qua sẽ mở rộng cho con qua, và những uy quyền to tát của Thiên Nhiên cũng không ngăn cản con được. Con sẽ làm chủ con Ðường bảy ngả, nhưng trước khi đạt đến địa vị đó thì không thể được, hỡi cử tử của những cuộc thi khó khăn không thể nói.
265. Từ đây đến đó, một công việc quá sức khó khăn đang chờ con, con phải cảm biết chính con là Tất Cả Tư Tưởng, và đồng thời phải đuổi tất cả tư tưởng ra ngoài Linh Hồn con.
266. Con phải đạt đến trạng thái cố định trí con vào một nơi mà không một luồng gió mạnh nào có thể đưa một tư tưởng phàm tục vào tới được. Dọn sạch như thế, thánh đường phải thật trống rỗng không còn một hành vi, một âm thanh, một ánh sáng trần gian nào, cũng như con bươm bướm gặp phải gió lạnh té chết nơi ngưỡng cửa, tất cả tư tưởng phàm tục phải té chết trước thánh đường.
267.  Kinh Bhagavad Gita có nói:
“Trước khi ngọn lửa vàng có thể cháy sáng rực rỡ, cái đèn phải để trong một chỗ kín đáo không có gió thổi đến, đèn đặt nơi có gió thổi qua, thì tia lửa rung rinh phản chiếu những hình sai lạc, đen tối, biến đổi mãi trên thánh đường trong trắng của Linh Hồn.
268. Và khi đó, hỡi kẻ theo đuổi chân lý, hồn con sẽ trở nên điên cuồng như con voi hoảng kinh làm dữ trong rừng. Lầm tưởng cây rừng là kẻ nghịch nó, phải bỏ mạng trong khi đâm đầu chém giết những bóng cây lung lay dọi lên vách đá phơi mình dưới bóng mặt trời.
269. Hãy đề phòng, e rằng vì quá lo lắng cho Chơn Ngã mà Linh Hồn con phải hụt chân trên mảnh đất tri thức của Deva.
270. Hãy đề phòng, e rằng lãng quên Chơn Ngã hồn con sẽ uy quyền kiểm soát cái trí rung rẩy và như thế mất hưởng cái quả chính đáng của công lao chiến thắng.
271. Hãy đề phòng sự thay đổi, bởi sự thay đổi là đại thù của con đó. Sự thay đổi sẽ tấn công con, sẽ đẩy con ra khỏi con Ðường mà con đang sấn bước, sẽ hất con xuống đầm lầy của tính hoài nghi 
272. Con hãy chuẩn bị và hãy nghe lời cảnh cáo, nếu con rán sức mà con thất bại thì hỡi chiến sĩ dũng cảm con chớ ngã lòng, hãy tiếp tục chiến đấu mãi và trở lại xáp trận lần nữa và lần nữa.
273. Vị chiến sĩ can đảm dầu khi đã bị thương máu chảy cũng cứ tấn công kẻ nghịch, sẽ đuổi nó ra khỏi đồn lũy của mình và thắng nó trước khi tắt hơi bỏ mạng. Hãy làm như vậy hỡi các đệ tử thất trận và đau khổ, hãy hành động giống như chiến sĩ đó, và hãy đuổi ra khỏi thành lũy của Linh Hồn mình tất cả quân thù – tham-vọng, sân hận, thù oán và cho đến một bóng phớt qua của dục vọng – dầu khi các đệ tử đã thất trận.
274. Con hãy nhớ, hỡi kẻ đang chiến đấu để giải thoát nhân loại (20), mỗi sự thất bại là một sự thành công và với thời gian mỗi sự gắng sức thành thật sẽ được thưởng công. Những mầm thiêng nảy tược, đâm chồi một cách vô hình trong hồn người đệ tử, những chồi đó mỗi lần trải qua cuộc thử thách là mỗi lần được cứng cáp thêm, chúng cong mình như cây sậy nhưng không gãy mà cũng không chết. Nhưng khi ngày giờ đến, chúng sẽ trổ bông (21).
275. Nhưng nếu con đã chuẩn bị thì bây giờ con chớ lo ngại gì cả.
276. Từ đây con đường của con đã quang đãng đi ngay đến cửa Virya, cửa thứ năm trong bảy cửa. Bây giờ con đang ở trên con đường dắt đến bến Dhyàna, cửa thứ sáu, Cửa Bồ Ðề.
277. Cửa Dhyàna giống như một cái bình bằng bạch ngọc trắng tinh và trong suốt, trong đó một ngọn lửa vàng cháy mạnh mẽ, ngọn lửa Bát nhã dọi ánh Atman.
278. Con là cái bình đó.
279. Con đã đoạn tuyệt với những đối tượng của giác quan, đã trải qua “con Ðường Nghe” và “con Ðường Thấy” và con đứng vững trong ánh sáng Tri Thức. Bây giờ con đã đạt đến trạng thái Titiksha (22) 
280. Hỡi Noljor, con đã được bình an.
281. Con hãy biết, hỡi kẻ chinh phục tội lỗi, một khi người Sowani (23) đã đi qua con đường thứ bảy, vạn vật run sợ một cách vui sướng và phục tùng. Ngôi sao bạc lấp lánh thông báo tin lành cho những đóa hoa nở ban đêm, suối chảy thông báo cho đá sỏi, lượng sóng âm u gầm thét thông báo cho những cụm đá to đầy những đá ngầm bao bọc, ngọn gió nồng nặc mùi hương thông báo cho những thung lũng nhỏ và những cây thông oai vệ rì rào bí mật: “một Ðức Thầy đã tiến lên, một Ðức Thầy của Ngày Nay” (24).
282. Bây giờ người đứng như một cây trụ trắng ở phương tây, trên mặt trụ ánh thái dương buổi bình minh của tư tưởng trường tồn rọi lên những luồng sáng rực rỡ đầu tiên. Trí của người giống như mặt biển yên tịnh không bờ bến mênh mông trong không gian vô tận. Người nắm quyền sinh, tử trong bàn tay mạnh mẽ của người.
283. Thật thế, người mạnh mẽ lắm, quyền lực sống động đã được biểu lộ nơi người, quyền lực ấy chính là người, có thể xây đài mộng huyễn cao vượt lên hơn cõi chư thiên, cõi Ðại Phạm Thiên và Ðế Thích. Bây giờ người sẽ chắc chắn chiếm được phần thưởng to tát.
284. Phải chăng người sẽ không dùng những phần thưởng đó cho sự yên nghỉ và hạnh phúc của người, cho sự sung sướng và vinh diệu của người, hỡi người chiến thắng đại Ảo Mộng?
285.  Không, hỡi cử tử muốn tìm tri thức bí ẩn của Thiên Nhiên! Nếu con người muốn nối gót Như Lai thì những phần thưởng và quyền lực đó không phải để cho mình hưởng.
286. Con muốn đắp đập để ngăn dòng nước dưới núi Sumeru (25) lại chăng? Con sẽ xoay chiều đổi hướng dòng nước chảy về con chăng? Hay là con sẽ cho dòng nước chảy trở về nguồn của nó thuở ban đầu?
287. Nếu con muốn cho con sông tri thức đã chiếm được một cách khó nhọc đó, con sông minh triết có nguồn nơi thượng giới còn là một giòng nước mát ngọt lưu thông thì chớ để cho nó thành ra ao tù nước đọng.
288. Con nên biết nếu con muốn cộng tác với Phật A Di Đà vô luợng thọ thì con phải rót ánh sáng đã thu thập được giống như hai vị Bồ Tát (26) cho khắp cả ba cõi (27).
289. Con nên biết rằng giòng tri thức phi phàm và Thiên triết mà con đã chiếm được phải tự nơi con chảy vào một lòng sông khác, con chỉ làm con kinh của Alaya thôi.
290. Con hãy biết hỡi Noljor của con đường Bí Mật, dòng nước tinh khiết và mát mẽ phải làm cho dịu bớt những lượn sóng đắng cay của Biển cả – biển khổ do nước mắt của loài người tạo ra.
291. Hỡi ôi! Một khi con đã trở nên như một ngôi sao ở tận trời xanh, thì ngọn đèn trời đó phải chiếu sáng cho tất cả trừ ra cho mình con: ban ánh sáng cho tất cả mà đừng lấy của một ai.
292. Hỡi ôi! Một khi con đã trở nên như tuyết sạch giá trong nơi các thung lũng của núi non, rờ thì lạnh lẽo, vô tình nhưng ấm áp và che chở cho hột giống yên giấc trong lòng của nó, chính bây giờ tuyết phải lãnh lấy nước đông cắt thịt, gió bấc thấu xương để che chở cho đất khỏi nanh vuốt bạo tàn, đất đó có chứa mùa màng đầy hứa hẹn, mùa màng đó sẽ nuôi kẻ đói.
293. Tự buộc mình sống qua những Kalpas sắp tới, mà không được người biết ơn và nhận thấy, đứng trơ như một hòn đá giữa vô số hòn đá khác, hợp thành “Bức Tường Bảo Vệ” (28) đó là tương lai của con nếu con qua khỏi cửa thứ bảy. Tường đó tạo dựng do những bàn tay của rất nhiều Ðức Thầy Từ Bi, xây đắp bởi những thống khổ, củng cố bởi xương máu của mấy Ngài, bức tường bao bọc nhân loại từ thuở con người thoát kiếp thú và che chở cho con người khỏi bị khốn khổ nhiều hơn nữa, và khỏi nhữïng đau đớn thống thiết hơn nữa.
294. Tuy nhiên, con người không thấy sự đó, con người sẽ không nhận thức sự đó và cũng không để ý đến lời sáng suốt, bởi vì con người không biết điều đó.
295. Nhưng con đã nghe và biết tất cả, hỡi kẻ có tâm hồn nồng nhiệt và không quỉ quyệt, con phải chọn lấy. Ðây con hãy nghe thêm:
296. Trên con đường Sowan, hỡi Srotàpatti , con đã được ổn định, thật thế trên Marga này kẻ hành hương mệt mỏi chỉ gặp cảnh tối tăm, tay bị gai cào chảy máu, chân bị đá nhọn cắt đứt. Ma Vương tấn công với những khí giới quá lợi hại – bên kia con đường một phần thưởng lớn lao đang chờ sẵn.
297. Bình tĩnh và không đổi chí, kẻ hành hương cố lướt tới, theo giòng sông đưa đến Niết Bàn. Người biết rằng chân càng chảy máu bao nhiêu thì người sẽ càng gội sạch bấy nhiêu. Người biết rằng sau bảy kiếp luân hồi ngắn ngủi và mau lẹ, Niết Bàn sẽ ở trong tay ngươi.
298. Đó là con đường Dhyana, bờ bến của nhà Yogi, mục đích mà vị Srotàpatti mong mỏi. 
299. Nhưng khi con đã đi qua con đường ấy và đến con đường của vị La Hán thì mục đích không phải như thế đâu.
300. Nơi đó Klesha (29) đã hoàn toàn tiêu diệt gốc rễ của Tanhà (30) đã nhổ sạch, nhưng đệ tử, con hãy nghe thêm một lời nữa, con có thể nào diệt lòng từ bi thiêng liêng không? Từ bi không phải là một tánh phụ thuộc. Ðó là Pháp của các Pháp luật điều hòa vĩnh viễn của Alaya; một tính chất đại đồng không bờ bến, ánh sáng của Công lý trường tồn, thích đáng với mọi sự, mọi vật, luật bác ái vô thỉ vô chung.
301. Con càng hợp làm một với lòng từ bi, con người của con càng tan trong Bản Thể của nó, Linh Hồn con càng hợp nhất với cái Hằng có thì con sẽ càng trở nên Từ Bi Tuyệt Ðối (31).
302. Đó là con đường Arya, con đường của Chư Phật trọn lành.
303. Tuy nhiên, ý nghĩa của lời lẽ trong kinh thánh như thế nào, khi trong đó bảo con nói?
304. “Om! Tôi tin rằng không phải tất cả các vị La Hán đều hưởng quả ngọt của Niết Bàn.”
305. Om! “Tôi tin rằng không phải tất cả Chư Phật (32) đều nhập Niết Bàn Dharma”.
306. Thật thế, trên con đường Arya con không còn là Srotàpatti nữa, con là một vị Bồ Tát, con đã qua sông. Quả nhiên là con có quyền lãnh áo Dharmakàya; nhưng kẻ lãnh áo Sambhogakàya cao hơn vị sống trong Niết Bàn; và vị lãnh áo Nirmanakàya, vị Phật Từ Bi lại còn cao thượng hơn nữa (34).
307. Bây giờ con hãy cúi đầu và nghe cho rõ hỡi vị Bồ Tát, lòng Từ Bi thốt lên và nói: “Ðâu có thể nào hưởng hạnh phúc được khi mà chúng sanh đương chịu đau khổ? Người có đành giải thoát và nghe cả thế giới rên siết sao?”
308. Bây giờ con đã nghe được điều đã nói.
309. Con sẽ tiến đến bước thứ bảy và con vượt qua cửa tri thức cuối cùng, nhưng chỉ là để lãnh lấy sự đau khổ mà thôi, nếu con muốn thành Tathàgata thì con hãy nối bước các đấng đã đi trước con, hãy giữ tấm lòng không ích kỷ cho đến cùng. 
310. Con đã giác ngộ, hãy chọn lấy con đường của con.
311.  Con hãy nhìn xem, ánh sáng dịu hiền tràn ngập trời Ðông. Ðể tỏ dấu ca ngợi trời, đất cùng hòa hợp với nhau. Và từ bốn Uy Quyền biểu hiện trổi lên một bài ca yêu thương của Lửa sáng, Nước trong, Đất thơm và Gió mạnh.
312. Con hãy nghe! Từ trong chốn sâu thẳm vô tận của ánh kim quang bao bọc vị Chiến Thắng, tiếng không lời của Vạn Vật trổi lên trăm ngàn điệu để tung hô.
313. Hãy vui mừng lên, hỡi người trong cõi Myalba (35).
314. Một vị hành hương đã từ bỉ ngạn trở về.
315. Một vị La Hán (36) mới sanh.
316. Vạn Vật thái bình (37).
 
 
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Thongthienhoc
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 7 tháng 3 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--