Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Chương 151

Ông vua Auguste hào hoa - hình như được tạo hoá sinh ra để hưởng những cuộc hội hè tráng lệ, để bảo vệ các môn nghệ thuật, hưởng những khoái lạc của ái tình những người đàn bà đẹp nhất châu Âu và phỉnh cái lòng kiêu căng của nước Ba Lan đang muốn có một ông vua không thua kém gì các vua ở Viên, Madrit hay ở Vecxay(1) lúc nầy đang ủ rũ đến cực độ. Triều đình của vua Auguste phải lánh vào cái lâu đài gần đổ nát của thị trấn Xokan tiêu điều, trong tỉnh Lvov, thiếu thốn trăm đường. Ở đó, ngày chủ nhật cũng không có chợ, vì tất cả dân chúng người Ukrain ở các làng lân cận đều trốn vào rừng sạch để chờ cho hết chiến tranh hoặc bỏ đi, chẳng ai biết đi đâu, có lẽ là đi về vùng sông Dniep, từ đó đang dội lại những tin đồn mơ hồ về những cuộc cướp phá của bọn haidamac(2)
Để khỏi phải đi ngủ bụng rỗng tuếch, vua Auguste đành phải nhận lời mời ăn bữa tối của đám quý tộc nông thôn ở vùng đó; tại nhà họ, nhà vua buộc phải chúc tụng các bà địa phương bằng tiếng Pháp và uống một thứ rượu tồi tệ. Bất cứ một chúa đất Ba Lan nào, - với bộ ria rậm vểnh lên như hai cái móc, kiêu kỳ nhìn phía cuối bàn, nơi đám quý tộc nghèo đang đánh chén trong tiếng cốc và tiếng gươm loảng xoảng, - cũng tự cảm thấy mình còn vương giả hơn cả vua Auguste.
Nghị hội ở Warsawa đã phế truất nhà vua. Thực thì ra một nửa số tỉnh không tán thành nghị quyết ấy, nhưng tại lâu đài của nhà vua ở Warsawa, ông vua thứ hai của Ba Lan là Xtanixlav Lekzinski đang sống ở đó và thảo ra những bức thông tri lăng nhục vua Auguste và đem áo gấm, bí tất Paris của vua Auguste phân phát cho lũ đày tớ của ông ta. Tất cả miền Đông, bờ bên phải sông Dniep, từ Vinnitxa đến vùng Podoli, đang bị nạn nông dân nổi loạn, đẫm máu không kém gì thời kỳ Bordan Khmenitski. Và vua Charles khép kín vòng vây lại, đóng quân kề ngay bên cạnh, ở một nơi nào đó giữa Lvov và Yaroslav, với một đạo quân tinh nhuệ gồm ba mươi lăm ngàn người, cất đứt con đường rút lui của vua Auguste về quê hương bản quán là xứ Xăc.
Auguste sợ vua Charles một cách nhục nhã, gã ranh con hung tợn ấy, quân phục bám đầy bụi, đi ủng to xém lửa đỏ bẻm, bộ mặt như người bị hoạn và mắt dữ như hổ khiến vua Auguste mất hết cả tự tin, không thể nào mua chuộc, dụ dỗ được vua Charles, hắn chẳng đòi hỏi gì ở cuộc đời hết, ngoài tiếng gầm và khói súng đại bác, tiếng gươm giáo đọ nhau loảng xoảng, tiếng kêu la của quân lính bị thương và quang cảnh một cánh đồng bị giầy xéo, khét lẹt và sực mùi máu, và con ngựa chân khuỳnh ra ngoài của hắn tiến lên giữa cánh đồng ấy, cẩn thận đặt chân giữa những xác chết, quyển sách độc nhất vua Charles cất dưới cái gối mỏng của mình là cuốn Bình luận của Cséza(3). Nhà vua say mê chiến tranh như một người Normandie(4) thời Trung cổ. Thà bị một quả trái phá nặng mười cân bắn bay đầu đi, nhà vua còn thích hơn là ký hoà ước, dù cho hoà ước đó hết sức có lợi cho vương quốc Thuỵ Điển.
Hôm đó, từ sáng, vua Auguste chờ nữ bá tước trở về. Nhà vua không hy vọng bà ta sẽ thành công mặc dù bà ta rất khôn khéo, trong việc thuyết phục vua Charles ký hoà ước. Nhưng những tin tức do một con chim câu đưa thư đem từ Lidva tới, nói về việc Sa hoàng Piotr xuất quân, có tính chất nghiêm trọng và đe doạ nặng nề đến nỗi khả dĩ gây được mối hoài nghi trong lòng vua Charles: liệu có nên trông cậy vào đạo quản duy nhất của Slipenbac và cứ điên cuồng đuổi theo vua Auguste, hay là chuyển quân của mình về các tỉnh vùng Baltic, đương đầu với Sa hoàng Piotr, là điều mà mọi người đều thúc giục nhà vua nên làm: nào là hoàng đế Áo đang sợ đến chết khiếp vua Charles liên minh với vua Pháp và tung quân đánh thủ đô Viên; nào là vua Pháp đang e ngại các nhà ngoại giao ở Viên lôi kéo được vua Charles đứng về phe hoàng đế của họ và đề nghị với vua Charles đem quân đạo chơi về phía biên thuỳ Pháp; nào là vua Phổ đang sợ tất cả mọi người và sợ nhất cái gã Charles ngông cuồng, rất có thể tràn vào đất Phổ ở Brandeburg, chiếm lấy Koenigsberg và sửa cho vua Phổ một trận đến nỗi không còn ngọ nguậy chân tay được nữa.
Rồi Johan Patkun tới, ác độc như một con quỷ; trông hắn hình như càng thêm to béo trong bộ binh phục tướng Nga, cắt vụng, màu xanh lá cây, lai tay áo màu đỏ Hơi thở khò khè, hắn nhăn cấi trán cao, quá hẹp so với bộ mặt béo núng nính và kiêu kỳ, và bằng một thứ tiếng Pháp tồi, hắn than phiền về tính nhát sợ của Sa hoàng Piotr, chỉ lo tránh một cuộc giao phong quyết định với vua Charles.
"Sa hoàng có hai đạo quân lớn. Đáng lẽ ra ông ta phải tiến vào Ba Lan và hội quân với bệ hạ để đánh bại Charles, dù có phải hy sinh đến bao nhiêu đi nữa, - Patkun nói, lúc lắc đôi má đỏ gay - Làm như vậy sẽ là một cuộc hành binh vừa táo bạo lại vừa khôn khoan. Sa hoàng vốn tham lam, như mọi người Nga. Người ta đã để cho Sa hoàng tới tận vịnh Phần Lan, ở đó ông ta đã xây dựng cái thị trấn của ông ta, vội vã như một đứa trẻ con. Ông ta đã lấy được xứ Ingri và hai thành rất tốt: Yam và Koporie; hay lấy thế làm mãn nguyện và hay làm trọn bổn phận đối với châu Âu đi chứ! Nhưng không! Lòng tham của ông ta càng tăng thêm và đẩy ông ta tiến về Narva và Yuriev, ông ta muốn nuốt chửng cả Revan. Sau đó thì rồi ông ta sẽ đòi được cả Livoni và Riga nữa kia? Cần phải hạn chế Sa hoàng lại! Nhưng có nói với đám thượng thư của ông ta cũng vô ích. Chúng là những tên nông dân thô lỗ, đội tóc giả bằng sơ gai nhuộm châu Âu đối với chúng cũng chẳng khác gì một cái giường sạch đối với một con lợn bẩn thỉu… Tâu bệ hạ, thần nói năng quá sống sượng, nhưng tất cả những điều đó làm thần rất đau lòng… Thần chỉ mong ước có một điều: làm sao cho xứ Livoni của thần được trở về dưới vương trượng của bệ hạ. Nhưng khắp nơi, ở Viên, ở Berlin, và ở đây, tại triều đình của bệ hạ, thần chỉ gặp một sự lãnh đám hoàn toàn… Thần không còn biết ra thế nào nữa, - nói tóm lại, ai là kẻ thù lớn nhất của xứ Livoni: là vua Charles, đang đe phanh thây thần, hay là Sa hoàng Piotr, đã quý trọng thần, tin tưởng ở thần, đến nỗi phong thần cấp trung tướng? Vâng, thần đã khoác bộ quân phục Nga và thần sẽ theo con đường nầy một cách trung thực đến cùng… Nhưng tình cảm cá nhân của thần vẫn tồn tại… Nỗi đau lòng của thần càng tăng thêm trước sự bất động và uể oải của bệ hạ. Bệ hạ hãy lên tiếng đi, hãy đòi Sa hoàng cho quân, hãy nài một cuộc giao phong quyết định với vua Charles".
Giá phải một lúc nào khác thì có lẽ vua Auguste đã tống cổ cái tên hỗn xược đó ra ngoài. Nhưng, giờ đây nhà vua phải nín lặng, tay mân mê hộp thuốc lá.
Cuối cùng Patkun rút lui. Nhà vua gọi viên sĩ quan thường trực, đại uý kỵ binh Tarnovski, bảo hắn rằng kẻ nào báo tin trước tiên cho nhà vua biết là nữ bá tước Koxenka đã về, nhà vua sẽ thưởng một trăm duca (mà nhà vua không có).
Người hầu đem đến một cái giá nến ba chạc, sắc xanh đồng, chắc hẳn là mượn của một giáo đường Do Thái giáo nào đó. Nhà vua đứng trước gương và tư lự ngắm nhìn nét mặt mình có phần hơi mệt mỏi.
Nhà vua tự ngắm mình không bao giờ biết chán vì nhà vua tự cho rằng chắc chắn phụ nữ phải yêu cái miệng hơi đa tình, rõ nét kia, như miệng những pho tượng cổ, những hàm răng đẹp kia, cái mũi to và thanh tú, ánh vui vẻ trong đôi mắt đẹp, tấm gương của tâm hồn
Nhà vua nhấc bộ tóc giả lên: không còn có thể nhầm lần được nữa, tóc đã bạc trắng và những nếp nhăn ở đuôi mắt… Tên Charles đáng nguyền rủa!
- Tâu bệ hạ, cho phép thần nhắc nhở rằng ngài Xobesanski lần thứ ba đã cho một gia thần đến trình với bệ hạ rằng ngài và phu nhân đang chờ bệ hạ để vào tiệc. Thức ăn để lâu trên bếp sợ hỏng hết.
Nhà vua rút trong túi áo lụa sực nức mùi xạ ra một hộp phấn và lấy búp bông thoa lên mặt, phủi phấn và thuốc lá rơi trên lá sen cổ áo bằng đăng-ten và hững hờ hỏi:
- Thế họ có món ăn gì đặc biệt vậy?
- Thần đã hỏi vị gia thần của ngài Xobesanski; ông ta nói rằng, từ hôm qua, đã mổ lợn và giết gà vịt trong sân sau của nhà chúa, làm xúc xích và thịt băm.
Phu nhân Xobesanxka được biết khẩu vị tinh vi của bệ hạ, đã tự tay làm món đỉa quay tiết ngỗng.
- Tốt lắm… Đưa ta thanh gươm, ta đi…
Cơ ngơi của lãnh chúa Xobesanski cách thành phố không xa mấy. Một đám mây dông che mờ dải, ánh sáng đang tàn ở phía mặt trời lặn, trong không khí sặc mùi bụi đường và mùi mưa sắp đổ xuống, khi vua Auguste ngồi trên chiếc xe da đã khá hư hỏng vì những cơn đen vận bí, tới gần khu vực của lãnh chúa. Vị gia thần, phóng ngựa đi trước, đã báo tin nhà vua sắp tới.
Dưới những cành lá tối om của một lối đi cổ kính, đám gia nhân cầm đuốc chạy tới… Chiếc xe lượn quanh bức tường thành và trong tiếng chó sủa, dừng lại trước một toà nhà dài một tầng, mái lợp sậy. Ở đó cũng có đám gia nhân, đầu tóc bù xù một cách man rợ, áo sơ mi rách rưới cầm đuốc chạy đi chạy lại rối rít. Trước thềm nhà, tụ tập chừng năm chục gã quý tộc nghèo ăn bám tại lâu đài Xobesanski: những tay chiến sĩ lão thành tóc đã bạc trắng trong những cuộc xung đột giữa các lãnh chúa, mặt sứt sẹo vì những nhát kiếm khủng khiếp, những gã phàm ăn tục uống, bụng phệ, hãnh diện về bộ ria vuốt sáp của mình, dài quá khổ và cứng như một mũi đao găm; những chàng trai trẻ mặc những bộ áo đã sờn, do một vị chúa nào thải ra, nhưng cũng không vì thế mà kém phần kiêu căng ngạo nghễ. Tất cả đều đứng, một bàn tay nắm lại chống nạnh, một bàn tay để trên đốc gươm là bằng chứng tư cách quý tộc của họ. Khi vua Auguste, cúi cái thân hình cao lớn từ trên xe bước xuống, tất cả đều đồng thanh hô to lời chào mừng bằng tiếng la tinh. Lãnh chúa Xobesanski; đã đứng tuổi, từ trên bậc thềm bước xuống, hai cánh tay mở rộng. Vào lúc đó, ông ta sẵn sàng tặng khách tất cả những gì khách muốn, theo cái lối đãi khách hào phóng của người Ba Lan: đàn chó săn của ông ta, bầy ngựa trong chuồng của ông ta, toàn bộ đám gia nhân, dạ mâu lam tươi, cho đến cả cái áo chẽn của ông ta viền lông thú. Phải, ông ta sẽ cho tất, có lẽ chỉ trừ phu nhân Xobesanxka trẻ măng mà thôi… Anna phu nhân đứng sau chồng, trắng đẹp biết bao, với cái mũi nhỏ hơi hếch cặp mắt ngạc nhiên, cái mũ kiểu Tây Ban Nha có chỏm cao và cắm lông chim, khiến vua Auguste bỗng thấy nỗi buồn của lòng mình tiêu tan hết.
Nhà vua cúi rạp chào và cấm lấy đầu những ngón tay thanh thanh của Anna phu nhân, khẽ nâng bàn tay của người phụ nữ trẻ tuổi như để nhảy một điệu vũ Ba Lan và đưa bà ta vào phòng ăn. Theo sau hai người là lãnh chúa Xobesanski, mắt mờ lệ vì cảm động, rối đến ông tu sĩ rửa tội, thuộc dòng chỉ đi dép, không đi tất lưng thắt một sợi dây có nhiều nút, người hôi như mùi dê đực, cằm xanh rì; rồi đến các gia thần của ngài Xobesanski, đi theo tôn ti quý tộc.
Bàn ăn trải một lượt cỏ khô dưới khăn bàn rắc đầy hoa, mọi người phải thán phục kêu lên; thậm chí một gã quý tộc to lớn, dáng người thô kệch, chỉ có độc chiếc áo chẽn trên thân hình để trần, ôm lấy đầu, vừa lắc lư vừa rống lên, làm mọi người cười rộ. Trên những chiếc đĩa, bằng bạc, bằng thiếc hay bằng sứ có tô màu, chồng chất nào là xúc xích, gà vịt quay, đùi bê, đùi lợn quay, gà vịt để nửa con một và lưỡi bò sấy, nào là dưa muối, thịt ướp, táo ngâm rượu, mứt, bánh nhỏ, kẹo giòn, bánh nướng và bánh trứng. Những thùng nhỏ đựng rượu vang Hungary, những vò rượu bia, những chai của vùng Ukrain bằng thuỷ tinh sắc lục pha lam hình con gấu, đựng đầy vodka, để la liệt trên bàn… Nến đã thắp lên; ngoài ra, cửa sổ còn được chiếu sáng từ bên ngoài bởi những bó đuốc khói mù của đám đầy tớ đang ghé nhìn lãnh chúa yến tiệc qua những ô kính mờ.
Vua Auguste hy vọng rằng có mặt mình, chủ nhân sẽ bãi bỏ cái lệ bắt khách phải uống cho đến kỳ không ai còn đứng vững được nữa. Nhưng ngài Xobesanski cương quyết theo đúng phong tục tập quán Ba Lan.
Ông ta nâng cốc chúc mừng sức khỏe của tất cả khách khứa, dù họ đông bao nhiêu cũng mặc. - bắt đầu từ vua cho đến gã quý tộc cuối cùng, ngồi ở cuối bàn bên dưới, chính là gã có dáng người thô kệch chỉ mặc có chiếc áo chẽn và chân cũng không có ủng nữa - và uống mừng sức khỏe của họ một cốc rượu vang Hungary.
Toàn thể mọi người đứng cả dậy, hét lên: "Hoan hô!".
Chủ nhân đưa một cốc rượu đầy cho khách và khách uống để chúc mừng lại sức khỏe của lãnh chúa và phu nhân. Sau khi đã nâng cốc chúc mừng sức khỏe của tất cả khách khứa, ngài Xobesanski lại bắt đầu lại từ đầu bàn, trước hết uống mừng nước Ba Lan, rồi đến vua Auguste chí kính, "người duy nhất mà chúng ta sẽ hiến dâng lưỡi gươm và máu của chúng ta", "Hoan hô! Đả đảo Xtanixlav Lekzinski", đám quý tộc hò reo điên cuồng… Rồi người ta nâng cốc chúc mừng những đặc quyến bất khả huỷ diệt của quý tộc Ba Lan, với những lời lẽ đại ngôn. Lần nầy thì các vị khách đầu đã bốc nóng, mất hết cả bình tĩnh, họ rút gươm ra cái bàn nghiêng ngửa, nến đổ lăn xuống đất. Một gã quý tộc to béo và chột mắt, hùng dũng chém vỡ đôi một đĩa xúc xích to tướng, hét lên: "Kẻ thù của chúng ta bọn ly phái và bọn Moskva sẽ chết như thế nầy!"
Ngồi bên trái vua Auguste, bên phía trái tim là Xobesanxka phu nhân, tươi như một đoá hoa hồng. Cứ như một phù thuỷ thực sự, bà lãnh chúa vừa hỏi nhà vua về những mỹ tục ở Vecxay, về những hạnh vận của nhà vua ở đó, cười khanh khách và sẽ chạm vào khuỷu tay, vào vai nhà vua, lại vừa theo dõi các khách khứa, nhất là đám ngồi ở cuối bàn, nơi có gã quý tộc, say mụ cả người, đút một cái lưỡi bò sấy hay cả một nửa con ngỗng vào cái túi quần rộng thùng thình bằng vải thô; bà ta khẽ đưa con mắt sắc sảo gọi đầy tớ đến ra lệnh.
Nhiều lần nhà vua đã định ôm ngang lưng tấm thân mềm mại của bà chủ nhà; nhưng mỗi lần, ngài Xobesanski lại đưa cho nhà vua một cốc rượu đầy để chúc mừng sức khỏe một lần nữa. "Chúc sức khỏe của hoàng thượng chí kính của chúng thần". Vua Auguste tìm cách không uống hết hoặc lén đồ cốc rượu xuống gầm bàn, nhưng vô ích: lập tức một tên gia nhân đứng sau ghế hoặc một tên khác, ngồi dưới gầm bàn với một chai rượu, lại rót rượu đầy ắp cốc của nhà vua. Cuối cùng, người ta mời vị khách quý món ăn trứ danh: đỉa quay; bà chủ nhà tự tay mời vua một đĩa đầy.
- Thực ra, bệ hạ đã làm cho tiện thiếp xấu hổ khi bệ hạ ca ngợi các món ăn nhà quê nầy, - bà ta nói với một giọng nhỏ nhẻ, ngây thơ, nhưng trong con mắt bà ta, nhà vua lại nhìn thấy điều khác hẳn. - Có khó gì đâu, chỉ cần là con ngỗng phải non và không béo quá… Khi đỉa đã no thì đem chúng cùng với con ngỗng bỏ vào lò, đỉa ở ức con ngỗng rơi ra, thế là đem bỏ vào chảo rán.
- Tội nghiệp con ngỗng! - vua Auguste vừa nói, vừa lấy hai ngón tay nhón một con đỉa, bỏ vào mồm nhai rau ráu. - Còn có gì mà những bà phụ nữ xinh đẹp không bày đặt ra để thoả mãn cái tính thích ăn ngon của mình!
Anna phu nhân cười, chiếc lông chim cắm hơi xiên trên, cái mũ chỏm cao rung rinh một cách ngang tàng.
Nhà vua thấy mọi việc có vẻ thuận chiếu và chỉ chờ khai mạc cuộc khiêu vũ là sẽ được thoải mái tỏ tình. Vừa lúc đó một người sợ hãi, mồ hôi nhễ nhại, bụi bặm đen sì mặc chiếc áo chẽn rách, chạy bổ vào trong phòng, xô đẩy đám quý tộc say rượu đứng ở gần cửa.
- Thưa chúa công, thưa chúa công, tai hoạ đến nơi rồi! - Hắn kêu lên và quỳ xuống trước ghế vị chủ nhà. - Chúa công sai con đến tu viện lấy một thùng rượu mật ong cũ… Con đã làm tất cả những điều chúa công dặn. Nhưng ma quỷ đã sui khiến con trở về bằng đường cái. Con đã mất hết, cả thùng rượu, cả ngựa, cả gươm, cả mũ… Phúc bảy mươi đời con mới thoát được chết. Người ta đã đánh xé con tơi bời. Một đạo quân đông vô kể đang tiến gần tới Xokan.
Vua Auguste sa sầm mặt. Anna phu nhân bấu chặt móng tay vào cánh tay nhà vua. Còn đạo quân nào có thể tiến về Xokan nữa, ngoài đạo quân của Charles, trong cuộc truy lùng ráo riết của hắn?
Đám quý tộc hét lên những tiến hét man, rợ:
- Quân Thuỵ Điển? Chạy đi thôi!
Ngài Xobesanski đấm nắm tay xuống bàn, mạnh đến nỗi làm nẩy tung các cốc:
- Im ngay, các ngài? Tất cả các ngài, những ai không tỉnh rượu ngay lập tức sẽ bị bắt nằm ra thảm, đánh năm mươi roi… Nghe ta đây, đồ chó đẻ… Vua là khách của ta và ta sẽ không để cho mái đầu bạc của ta mang nỗi nhục muôn đời… Bọn Thuỵ Điển có thể đem tất cả quân đội của chúng tới đây chúng ta cũng sẽ không đem nộp vị khách của chúng ta.
- Chúng ta sẽ không đem nộp vị khách của chúng ta? - đám quý tộc thét lên trong tiếng gươm rút ra loảng xoảng.
- Hãy đóng ngựa… Nạp đạn vào súng… Chúng ta sẽ chết nhưng chúng ta sẽ không làm ô danh đất nước Ba Lan!
- Chúng ta sẽ không làm ô danh đất nước Ba Lan!
- Hoan hô!
Vua Auguste hiểu rất rõ rằng giải pháp khôn ngoan duy nhất là nhảy ngay lên yên và lợi dụng đêm tối mà chạy trốn. Nhưng như ta đây, Auguste, Người hào hoa, mà lại bỏ chạy như một kẻ hèn nhát để tiện, rời bỏ một bữa tiệc vui vẻ và một người đàn bà xinh đẹp vẫn còn đang nắm lấy cánh tay ta không rời ra! Không, Charles không thể làm cho nhà vua phải chịu cái nhục ấy được! Mặc kệ mọi sự khôn ngoan!
- Thưa các ngài, - nhà vua nói, - trẫm ra lệnh cho các ngài ngồi vào bàn. Chúng ta hãy tiếp tục bữa tiệc.
Nhà vua ngồi xuống, hất những búp tóc quăn của bộ tóc giả ra khỏi đôi má nóng bừng bừng như bốc lửa.
- Nói cho cùng, nếu quân Thuỵ Điển có tới đây thì người ta sẽ đem nhà vua giấu vào một nơi nào đó, sẽ đưa nhà vua đi, bậc vua chúa không bao giờ làm sao hết…
Nhà vua tự rót một cốc rượu, nâng cốc lên, bàn tay to đẹp, vững vàng không run… Anna phu nhân liếc mắt nhìn thán phục, quả thật, để có được một cái liếcon đường Revan và đóng vị trí tại khu rừng Tarviegi, cách Narva mười dặm. Toàn thể áo quần do các thợ may sửa lại cũng được đưa đến khu rừng nầy. Quân Thuỵ Điển không hay biết gì cả.
Vào một buổi sớm sáng sủa, ngày mồng tám tháng sáu trong doanh trại quân Nga đóng dưới thành Narva bỗng nhốn nháo một cách khác thường. Trống đánh báo động, chiêng vang boong boong, sĩ quan phóng ngựa quát tháo om xòm. Quân lính từ trong các lều vải và các túp nhà làm bằng cành cây nhảy choàng ra. Cài vội khuy áo khuy ủng, vuốt ra sau vai những món tóc dài xoã ra ngoài mũ ba sừng, họ xếp thành hai hàng.
Lính pháo thủ hò hét, đặt các khẩu pháo vào vị trí, họng súng chĩa về phía con đường đi Revan. Những quân kỵ xua đàn ngựa kéo xe ra khỏi cánh đồng cỏ, lùa chúng về trại, sau các xe cộ.
Từ trên tường thành, quân Thuỵ Điển ngạc nhiên nhìn cảnh rối loạn không thể tả xiết trong doanh trại quân Nga. Tướng Horne đầu trần leo cầu thang đá phía ngoài, trèo lên tháp kề bên cạnh cửa thành và chĩa ống nhòm về phía đường đi Revan. Từ phía đó vọng lại hai phát súng đại bác, một phút sau lại có hai phát nữa và cứ như thế tiếp tục đến sáu lần. Khi ấy quân Thuỵ Điển nhận ra tín hiệu là Slipenbac đang tới gần. Ngay tức khắc pháo đài Gloria đáp lại bằng vương hiệu đã hẹn trước, nổ hai mươi mốt phát đại bác. Tất cả các chuông trong thành khua vang inh ỏi như một ngày hội.
Đã bao ngày nay, kể từ khi thành Narva bị vây hãm lần đầu tiên viên tướng Horne khắc khổ, khẽ nhếch mép mỉm cười khi trông thấy, ở bên kia hào luỹ, Melsikov, tên Nga láo xược nhất, ăn mặc lòe loẹt như một bức tranh thánh, đang nhảy chồm chồm trên lưng con ngựa trắng, trước mặt quân đội Moskva, xếp thành hai hàng. Làm như mình là một viên tướng tài ba thật sự, hắn vung gươm lên và ra lệnh cho quân lính ở hàng sau quay mặt về phía thành; bọn lính như một bầy súc vật, lốc nhốc chạy đến đứng vào các công sự, sau các hàng rào. Bây giờ thì hắn thúc cho ngựa chồm lên rồi phi dọc trước mặt hàng thứ nhất, đối diện với con đường đi Revan. Đối với tướng Horne đã già đời trong chinh chiến, sự thể thật đã rõ ràng; con gà trống mặc chiến bào đỏ và cắm lông đà điểu kia, sắp sửa phạm một sai lầm không tài nào cứu vãn nổi; hắn sẽ dẫn hàng quân bộ dàn mỏng tiến ra trước quân giáp kỵ sắt thép đầy mình của Slipenbac để hứng lấy đạn trái phá bắn như mưa, rồi bị cắt vụn ra, dẫm nát và tiêu diệt. Hai lỗ mũi lông lá của tướng Horne hít một hơi dài. Mười hai trung đội kỵ binh và bốn tiểu đoàn bộ binh đang đợi sau các cửa thành đóng kín, sẵn sàng khi Slipenbac xuất hiện, là xông vào đám quân Nga, đánh bọc hậu.
Melsikov, như thể bay đi đón tử thần, không cần thiết cũng bỏ mũ ra vẫy vẫy trước các tiểu đoàn đang chạy theo ngựa hắn, khiến quân lính hô lên "hura". Tiếng hô vang tới tường thành Narva và tướng Horne già mỉm một nụ cười giễu cợt. Các tiểu đoàn của Melsikov tiến về phía một khu rừng thông; từ trong khu rừng bỗng thấy kỵ binh Nga lao ra, có tiếng súng bắn đuổi theo. Và cuối cùng, khắp mọi chỗ, từ sau các cây thông, các đại đội cận vệ oai hùng của Slipenbac xuất hiện, sát cánh nhau tiến lên, mặc binh phục đại lễ như để diễu binh, súng cầm tay, lưỡi lê cắm ở đầu súng. Vừa đi hàng thứ hai vừa bắn từng loạt một, qua đầu hàng thứ nhất, trong khi hàng thứ ba nạp đạn vào súng và chuyển lên. Cờ xí của nhà vua, màu vàng, phất phới bay cao trước gió. Lão Horne rời chiếc ống nhòm trong chốc lát, rút khăn tay bằng vải trong túi đạn, mở ra và lau mặt. Lão lẩm bẩm: "Thật là những vị thần chiến tranh!".
Melsikov đã đội mũ vào, lấy tay giữ mũ, phóng ngựa qua trước mặt các tiểu đoàn của mình ra lệnh dừng lại.
Những khẩu đại bác do sáu ngựa kéo, cùng các xe chở đạn do hai ngựa kéo phóng như bay tới hai bên cánh.
Lính pháo thủ Nga rất nhanh nhẹn, họ đã học hỏi được nhiều trong những năm gần đây. Vận động khéo léo, các khẩu đại bác sạch bóng - mỗi bên cánh tám khẩu - quay ngoắt lại, họng súng chĩa về phía quân Thuỵ Điển (ngựa kéo pháo, vừa được tháo ra, đã phóng đi luôn lập tức) và đồng thời cũng khạc ra những làn khói trắng dày đặc, điều đó chứng tỏ là thuốc súng tốt. Quân Thuỵ Điển chưa đi được hai mươi bước, các khẩu pháo đã lại bắn một loạt nữa. Lão Horne vò nhàu chiếc khăn trong tay: bắn nhanh như thế thật là kỳ lạ. Quân Thuỵ Điển dừng lại. Quái! Thế là thế nào? Slipenbac đâu có thế: sợ đại bác ư? Hoặc giả ông ta định cho quân giáp kỵ tiến lên trước để xung phong… Hoặc giả có lẽ ông ta chờ pháo binh chăng? Horne chiếu ống nhòm khắp các phía để tìm Slipenbac nhưng bị vướng khói mỗi lúc một dày đặc thêm, phủ kín bãi chiến trường. Thậm chí lão còn thấy quân Thuỵ Điển hình như núng thế dưới làn mưa đạn… Tuy nhiên lão vẫn đợi… Cuối cùng, may quá! đại bác Thuỵ Điển với giá súng sơn vàng từ trong rừng lao ra và lên tiếng dữ dội… Khi đó, - lão trông thấy rất rõ - hàng ngũ quân lính của Melsikov bắt đầu rối loạn… Đã đến lúc rồi! Bộ mặt nhăn nheo của tướng Horne rời khỏi ống nhòm và nhe hàm răng vàng khè trông thấy cả lợi, lão bảo viên phó tướng, đại tá Marka:
- Tôi ra lệnh mở cửa thành và tấn công cánh phải của quân Nga.
Các cầu rút rít ầm ầm, các trung đội quân giáp kỵ từ bốn cửa thành cùng xông ra một lúc, bộ binh chạy theo sau. Đại tá Marka dẫn đầu cuộc tấn công của quân thành Narva, xếp thành hình tam giác và định một mạch vượt qua các hàng rào, các chướng ngại vật cự mã của quân Nga để đánh bọc hậu Melsikov ở cánh phải, dồn quân Melsikov về phía quân Slipenbac và đè bẹp chúng trong cái gọng kìm sắt ấy.
Lúc đầu, tình hình tướng Horne trông thấy trong ống nhòm khiến lão rất hể hả nhưng rồi lại làm cho lão bối rối. Đội quân của đại tá Marka, sau khi đã nhanh chóng vượt qua các chướng ngại vật cự mã, không bị tổn thất mấy, leo qua các hàng rào và lọt vào phía bên trong các công sự. Theo sau đội quân, dân chúng trong thành đi bộ và ngồi xe, cũng kéo ra để cướp phá doanh trại quân Nga, các tiểu đoàn của Melsikov bắn loạn xạ bỗng chuyển động một cách quái lạ: cánh bên phải bị Marka tấn công, vội vã rút về chỗ các hàng rào và chướng ngại vật cự mã của họ, trong khi đó thì quân bên cánh trái cũng vội vã chạy bổ về phía quân Thuỵ Điền của Slipenbac, như để đầu hàng. Đại bác của cả hai bên bỗng im bặt, Marka đang tiến công hùng dũng, bỗng trơ ra ở giữa một khoảng đất trống, giữa quân của Melsikov và của Slipenbac. Quân giáp kỵ của hắn, áo giáp sáng choang, kìm ngựa, tản ra thành hình cánh cung và hoang mang, dừng lại. Bộ binh đuổi theo kịp, cũng dừng lại:
- Sao thể nầy? Ta thật không hiểu! Gã Marka quỷ bắt kia? - Horne kêu lên.
Bixtrom, sĩ quan phụ tá của lão đứng bên cạnh dáp:
- Thưa tướng quân, tôi cũng không hiểu ra thế nào cả.
Rồi mỗi lúc càng thêm bồn chồn lia ống nhòm quan sát Horne trông thấy Melsikov: con gà trống ấy đang phóng như bay về phía quân Thuỵ Điển. Để làm gì? Để xin hàng ư? Nhận ra Melsikov, Marka theo sau là hai tên lính giáp kỵ, phóng ngựa ra chặn đường.
Nhưng Melsikov đã vượt lên trước và nhảy xuống ngựa trên một ngọn đồi đầy cỏ mọc, có một nhóm sĩ quan đang đứng đó: cứ trông chiến bào và lá cờ màu vàng có thêu con sư tử bò thì đúng là bộ tham mưu của Slipenbac. Nhưng còn chính Slipenbac thì ông ta đâu?
Tướng Horne lại chĩa ống nhòm và trông thấy Marka đang đuổi theo Melsikov đã tới gần nhóm sĩ quan; đột nhiên hắn vung tay lên một cách quái lạ, như xua tà và định quay ngựa bỏ chạy; nhưng quân lính đã ập tới, lôi hắn từ trên yên ngựa xuống… Một kỵ sĩ cưỡi một con ngựa cao lớn, tai dài, leo lên ngọn đồi và lá cờ hạ xuống trước mặt người đó. Chỉ có thể là Slipenbac chứ không còn ai khác… Một giọt nước mắt làm mờ mắt lão Horne; lão mạnh tay chùi ngay đi và ấn mạnh ống kính bằng đồng của chiếc ống nhòm vào mắt. Người kỵ sĩ cưỡi con ngựa tai dài nom không giống Slipenbac. Trông có vẻ như giống….
- Thưa tướng quân, đây là một gian kế, - viên sĩ quan phụ tá Bixtrom thì thào.
- Không cần ngươi ta cũng đã thấy đó là Sa hoàng Piotr mặc binh phục Thuỵ Điển… Chúng đã đánh lừa ta một cách đê tiện, không cần có ngươi ta cũng đã hiểu. Hãy bảo mang đến cho ta một bộ áo giáp và thanh gươm của ta… - Và bỏ cái ống nhòm lúc nầy đã trở thành vô ích, tướng Horne lao xuống cầu thang dốc đứng của ngọn tháp, nhảy bốn bậc một, như một chàng trai trẻ.
Ngoài kia, trên bãi chiến trường của trận đánh vờ vẫn, bắt đầu diễn ra cái phải xảy ra khi một người cầm quân bị mắc lừa. Một bên là quân lính của các trung đoàn Xemionovski và Inghecmanlan mặc giả làm quân Thuỵ Điển, cùng với quân long kỵ binh của Axafiev và Gorbov, nấp ở trong rừng đợi thời cơ, và một bên là các tiểu đoàn của Melsikov, tất cả đều hung dữ xông vào đám quân của viên đại tá Marka xấu số. Marka, sau khi đã nộp gươm cho Sa hoàng Piotr và ném cái mũ của mình xuống cỏ, đứng trên đồi, giữa các sĩ quan Nga, đầu cúi gằm vì hổ thẹn và tuyệt vọng, để khỏi nhìn thấy đội quân oai hùng của mình bị tiêu diệt - một phần ba số quân đồn trú trong thành Narva.
Quân giáp kỵ của Marka bảo vệ cho bộ binh, giữ vững hàng ngũ, vừa lùi vừa lẻ tẻ bắn trả lại được một lát Nhưng khi đại tá Ron dẫn đầu các trung đội long kỵ binh nấp trong rừng phong xông ra đánh tập hậu, thì trận đánh trở thành một cuộc hỗn chiến khủng khiếp. Tiếng súng đã dứt. Chỉ còn nghe thấy tiếng quân Nga hò reo điên cuồng, vung gươm chém lia lịa, tiếng rên rỉ của những tên lính Thuỵ Điển hấp hối và tiếng gươm chém vào áo giáp, vào mũ loảng xoảng. Ngựa chồm lên, cắn lẫn nhau. lá cờ của nhà vua rơi xuống.
Những kỵ binh lẻ loi, thoát ra khỏi vòng chiến, phi ngựa như mù, thục mạng băng qua cánh đồng, húc phải nhau, ngã lăn ra đất hai tay dang thẳng… Toàn thể quân đội vây thành từ các chiến hào xông ra, như đám đông chạy đi xem săn một con gấu, trong tuần mặn. Quân lính hò reo, vui thích nhảy cẫng lên, tung mũ lên trời.
Chỉ có môt bộ phận nhỏ của đội quân Thuỵ Điển mở được một đường máu rút về thành Narva. Tướng Horne không còn biết làm thế nào khác là giữ chặt cửa thành để ngăn không cho quân Nga thừa thắng theo đà xông vào trong thành. Dân chúng Narva chạy ra để ăn cướp, cuống cuồng lên xe, trước hào. Lính Nga vượt qua rào và trong lúc hăng hái, bết chấp đạn từ trên tường thành bắn xuống, bắt được rất nhiều dân cùng với xe, ngựa, giải về trại bán lại cho các ngài sĩ quan.
Tối hôm đó, trong cái lều rộng rãi của Melsikov có một bữa tiệc linh đình. Mọi người uống rượu "rhoom" cháy bỏng của đô dốc De Pru, ăn giăm bông Revan và cá dìa sấy, mà các vị khách trước đây ít người đã được trông thấy. Cá hơi nặng mùi nhưng vẫn ngon.
Alekxandr Danilovich đau ê ẩm cả lưng vì bị những người cầm cốc đến chúc mừng mưu kế của hắn thành công, đấm thùm thụp. "Ngươi đã chơi cho viên tướng rất khôn ngoan là tướng Horne một vố giỏi lắm? Quả thật, hôm nay, ngươi là nhân vật chính của ngày hội!"
Piotr Alekseevich nói, giọng trầm trầm; nhà vua đã say mềm, cười oang oang, rung cả hai vai và nện một quả đấm vào giữa hai bả vai Melsikov như búa bổ.
- Ta đánh cuộc là ngươi có thể lừa được ngay cả vua Oduxeut(1)!
Samber kêu lên và cũng đấm vào lưng vị toàn quyền.
- Không ai ranh mãnh hơn người Nga!
Ngắt lời lẫn nhau, các vị khách cùng nhau thảo một bức thư, viết đi viết lại nhiều lần, báo cho tướng Horne biết rằng lão được phong tặng huân chương "Mũi to". Đoạn đầu bức thư viết khá đạt: "Gửi nhà ngươi, kẻ bị vây hãm trong thành Narva, thằng già ngu độn đã dái dầm ra quần, con mèo thiến mà lại muốn gầm như sư tử".
Rồi trong tiếng ồn ào hỗn độn của cả bàn tiệc đã say khướt, vang lên những lời lẽ tục tĩu đến nỗi viên thư ký Makarov cũng ngập ngừng không dám viết lên giấy.
Anikita Ivanovich Repnin, sau khi đã cười một trận hả hê với cái giọng run rẩy của ông ta, cuối cùng nói:
- Tâu hoàng thượng, có thực là nên làm nhục lão già đó không? Mà công việc cũng chưa phải là xong.
Mọi người la ó ông, đấm tay xuống bàn. Piotr Alekseevich cầm lấy bstyle='height:10px;'>
- Sofia, ái khanh đã về! - nhà vua nói, vồn vã quá mức cần thiết. - Thế nào? Ái khanh đã gặp vua Charles rồi chứ?
- Vâng, thiếp đã gặp vua Charles, cám ơn bệ hạ, - Bộ mặt nữ bá tước, như rắc bột mì, có vẻ nhẽo và xấu.
- Vua Charles chẳng mong gì hơn là treo cổ bệ hạ lên một cây phong. Nếu bệ hạ muốn biết chi tiết cuộc nói chuyện của thiếp với vua Charles, thiếp sẽ xin nói. Nhưng bây giờ thiếp muốn biết chính bệ hạ đánh giá hành động của bệ hạ như thế nào? Bệ hạ phái thiếp đi, như một con sen con đỏ mạt hạng, để bệ hạ ngấm ngầm mưu toan những chuyện riêng tư bẩn thỉu… Thiếp phải chịu đựng những sự nhục mạ trong cuộc hành trình, trải qua muôn ngàn nguy hiểm, có thể bị hiếp dâm, cắt cổ, ăn cướp… Còn bệ hạ thì đi vui thú trong tay mụ Xobesanxka… mụ chủ lâu đài hèn mọn ấy mà thiếp có dùng làm hầu phòng thiếp cũng thấy xấu hổ.
- Ồ, Sofia, chuyện vặt ấy mà! - Vua Auguste thốt lên lời nói đó thật là khinh xuất.
Nữ bá tước tiến lại gần và bàn tay bà ta, lanh lẹn như chân một con mèo, tát bốp vào mặt nhà vua.
 
Chú thích:
(1) Thủ đô Áo, Tây Ban Nha và thành phố ở Pháp
(2) Nông dân Cô-dắc vùng Ukraina nổi dậy chống bọn phong kiến quý tộc Ba Lan ở thế kỷ 17 và 18.
(3) Hoàng đế La Mã cổ, nổi tiếng về tài quân sự.
(4) Người vùng Bắc Âu xưa kia nổi tiếng hung dữ và hiểu chiến.
(5) Một điệu nhảy Ba Lan.
 

Truyện PIE ĐỆ NHẤT Tiểu sử & chú thích Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 Chương 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 Chương 68 Chương 69 Chương 70 Chương 71 Chương 72 Chương 73 Chương 74 Chương 75 Chương 76 Chương 77 Chương 78 Chương 79 Chương 80 Chương 81 Chương 82 Chương 83 Chương 84 Chương 85 Chương 86 Chương 87 Chương 88 Chương 89 Chương 90 Chương 91 Chương 92 Chương 93 Chương 94 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Chương 98 Chương 99 Chương 100 Chương 101 Chương 102 Chương 103 Chương 104 Chương 105 Chương 106 Chương 107 Chương 108 Chương 109 Chương 110 Chương 111 Chương 112 Chương 113 Chương 114 Chương 115 Chương 116 Chương 117 Chương 118 Chương 119 Chương 120 ="#phandau">Chương 93 Chương 94 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Chương 98 Chương 99 Chương 100 Chương 101 Chương 102 Chương 103 Chương 104 Chương 105 Chương 106 Chương 107 Chương 108 Chương 109 Chương 110 Chương 111 Chương 112 Chương 113 Chương 114 Chương 115 Chương 116 Chương 117 Chương 118 Chương 119 Chương 120 Chương 121 Chương 122 Chương 123 Chương 124 Chương 125 Chương 126 Chương 127 Chương 128 Chương 129 Chương 130 Chương 131 Chương 132 Chương 133 Chương 134 Chương 135 Chương 136 Chương 137 Chương 138 Chương 139 Chương 140 Chương 141 Chương 142 Chương 143 Chương 144 Chương 145 Chươ Chương 148 Chương 149 Chương 150 Chương 151 Chương 152 Chương 153 Chương 154 Chương 155 Chương 156 Chương 157 Chương 158 Chương 159 Chương 160 Chương 161 Chương 162 Chương 163 Chương 164 Chương 165 Chương 166 Chương 167 Chương 168 Chương 169 Chương 170 (chương kết)