Dịch giả: Nguyễn Xuân Thảo, Trịnh Như Lương
Chương 152

Trên các gò có dựng một tháp canh, Piotr Alekseevich từ trên lưng ngựa nhảy xuống và leo những bậc thang dốc đứng lên đỉnh tháp. Samber, Melsikov, Anikita Ivanovich Repnin lên theo và cuối cùng là Piotr Matveevich Apraxin rất khó chịu vì thân hình to béo và chóng mặt; leo lên cao cách mặt đất mười toadơ(1) không phải là một trò đùa! Piotr Alekseevich vốn đã quen leo cột buồm, không hề thở mạnh: nhà vua rút ống nhòm trong túi ra và đứng vững trên đôi chân xoạc rộng, quan sát chân trời.
Narva trông như nằm trên một cái đĩa xanh, với những ngọn tháp lùn, cổng và cầu treo; ở các góc tường, những pháo đài bằng đá tảng nhô ra, cái khối đồ sộ của toà lâu đài cũ với tháp để thuốc súng, những ngõ ngoằn ngoèo của thành phố, mái các nhà thờ nhọn hoắc như những cái đinh vươn lên trời. Phía bên kia sông, sừng sững tám ngọn tháp âm thầm, mái lợp chì và những bức tường của thành Ivan-gorod bị đại bác bắn thủng, xây từ thời Ivan Hung đế.
- Thành nầy sẽ về ta! - Melsikov thốt lên, hắn cũng đang chiếu ống nhòm nhìn.
Piotr Alekseevich nói qua kẽ răng:
- Nầy, đừng có phồng mồm trợn mắt khoác lác trước như thế!
Phía dưới thành phố về mé hạ lưu, nơi có pháo đài bằng đất của Piotr Matveevich Apraxin dựng trên con suối Roxogne, quân lính và xe cộ đang từ từ tiến lên, lờ mờ trong đám bụi bay mù mịt. Các trung đoàn bộ binh và kỵ binh vượt qua cầu nổi và đóng vị trí trên tả ngạn, cách thành phố chừng năm dặm. Tại đó người ta đã trông thấy trắng xoá những lều, khói lửa trại bay lên trong không khí yên tĩnh, những con ngựa đã tháo yên cương đi tha thẩn trong cánh đồng cỏ… Có tiếng rìu bổ và những cây thông cổ thụ, rung rinh ngọn đổ vật xuống.
- Quân ta mới chỉ xếp xe cộ và những chướng ngại vật cự mã vây quanh; để cho thêm cẩn thận, bệ hạ sẽ ra lệnh cho đào hào và dựng rào chăng? - vương hầu Anikita Ivanovich Repnin hỏi. Ông là một người cẩn thận, biết điều và thông thạo việc quân, can đảm và không huênh hoang, nếu cần, sẵn sàng chết vì một sự nghiệp lớn, không lùi. Trông bộ dạng ông không có vẻ gì đặc sắc mặc dầu ông tự cho mình dòng dõi quý tộc còn lâu đời hơn cả Sa hoàng Piotr ông ta gầy gò ốm yếu, cận thị, nhưng cặp mắt nhỏ, với mí mắt nhăn nheo, long lanh một ánh thông minh.
- Hào và rào cũng sẽ chẳng cứu được ta. Chúng ta tới đây không phải là để ẩn nấp sau hàng rào, - Piotr Alekseevich càu nhàu và quay ống nhòm mỗi lúc một xa về phía Tây.
Samber vốn có thói quen uống một cốc vodka lớn từ sáng sớm để lấy tinh thần hăng hái, nói với một giọng khàn khàn vì rượu:
- Có thể ra lệnh cho quân lính không bỏ giầy, vũ khí sẵn sàng mà ngủ. Nhưng ích gì? Nếu quả thực tướng Slipenbac hiện ở Vedenberg thì phải, hơn một tuần lễ nữa hắn mới tới đây được
- Không phải lần đầu tiên ta đợi quân Thuỵ Điển tại đây. Xin đủ! Ta sẽ không để bị lừa một lần nữa, - Piotr Alekseevich nói với một giọng lạ lùng. Melsikov bật một tiếng cười to.
Về phía Tây, về phía mặt biển mà Piotr Alekseevich đang chăm chú nhìn, không một làn gió nào gợn mặt nước màu xám nhờ nhờ đang ngủ lặng dưới ánh sáng chan hoà. Cố gắng một chút, có thể nhận ra trên chân trời rõ nét, những cột buồm của vô số chiến thuyền đã hạ buồm. Đó là hạm đội của thuỷ sư đô đốc De Pru có cánh tay bằng bạc, buộc phải đứng im tại chỗ vì gió lặng.
Apraxin, hai tay nắm lấy lan can của bệ đứng đang lung lay nói:
- Tâu Ngài pháo thủ, làm sao mà thần không sợ một lực lượng như vậy, năm chục chiến thuyền và một thuỷ sư đô dốc dũng cảm như thế… Thực ra, chính Chúa đã phù hộ thần, làm cho tên khốn kiếp kia không có gió.
- Biết bao nhiêu thứ ngon lành sẽ bị mất đi ở ngoài đó hả! - Melsikov lấy ngón tay đếm các cột buồm ở chân trời. - Hẳn là khoang thuyền của hắn đầy ắp những lươn sấy, cá dìa, cá mòi, giăm bông Revan… Mà thứ giăm bông mới ngon làm sao! Ở Revan họ ăn sành lắm? Nóng nực thế nầy, mọi thứ sẽ thiu thối hết, cái thằng quỷ cụt tay ấy sẽ phải vứt tất cả xuống biển. Apraxin, Apraxin, ông ở ngay bên bờ biển nầy mà để thế ư? Ê đồ chỉ quen sống trên đất liền! Sao không có thuyền? Trời lặng gió như thế nầy, chỉ cần chở một đại đội lính pháo thủ ra là De Pru sẽ không còn biết chui vào đâu nữa.
- Một con hải âu đỗ trên cát! - Piotr Alekseevich bỗng kêu lên. - Ta quả quyết với các ngươi rằng nó sẽ đỗ xuống? - Mặt nhà vua rất vui vẻ, hai con mắt tròn xoe. - Ta đánh cuộc mười eccus rằng thời tiết sẽ thay đổi… Ai muốn cuộc nào? Thế mà cũng tự cho mình là thuỷ thủ đấy! Đừng rên rẩm nữa, Danilys, rất có thể chúng ta sẽ được nếm giăm bông của thuỷ sư đô đốc!
Nhà vua đút ống nhòm vào trong áo và đâm bổ xuống thang. Đại tá Ron vội chạy tới đỡ nhà vua nhảy xuống đất.
- Phái ngay một đội kỵ binh đi trước, - Sa hoàng bảo đại tá, - và mang một đội kỵ binh khác theo ta!
Nhà vua lên ngựa và quay về phía Narva, cho ngựa phi nước kiệu; con ngựa thiến sắc hồng, lực lưỡng, tai to, là quà tặng của nguyên soái Seremetiev, đã bắt được của chính Slipenbac tại trận Erexfe, người ta nói thế. Piotr Alekseevich không ưa cưỡi ngựa lắm và khi ngựa chạy nước kiệu, nhà vua nhổm rất cao trên yên.
Trái lại Alekxandr Danilovich thúc con ngựa nòi của mình, trắng như bông, cũng bắt được địch; con ngựa có con mắt tươi tỉnh, có vẻ như đùa nghịch với người cưỡi nó; khi thì con ngựa phi tạt sang một bên trên cánh đồng cỏ xanh, khi thì nó chồm lên, vó đen đá vào không khí, đuôi quất mạnh, rồi lại phóng đi như điên; chiếc áo choàng ngắn bằng dạ đỏ rực mà Alekxandr Danilovich khoác trên vai, tung bay sau lưng hắn, những chiếc lông chim cắm trên mũ và đẩu chiếc khăn quàng lụa bay lượn. Tuy trời nóng nhưng ngày hôm đó rất đẹp chim chóc hót vang và ríu nt trong các lùm cây, trong các khu vườn bỏ hoang.
Anikita Ivanovich Repnin, quen đi ngựa từ thuở bé như người Tarta, bình tĩnh nhấp nhổm trên cái yên cao, trên lưng con ngựa nhỏ thuần thục, chạy ở một bên.
Apraxin nhễ nhại mồ hôi dưới bộ tóc giả to sù; đối với người Nga, bộ tóc giả thật chẳng tiện mà cũng chẳng đẹp. Xa xa phía trước, đội long kỵ binh tản ra len lỏi qua các bụi rậm. Đội thứ hai theo sau, hàng ngũ chặt chẽ, đi đầu là đại tá Ron, một gã đẹp trai, giỏi rượu, cũng phiêu bạt giang hồ như tướng Samber, đã đem lưỡi gươm và danh dự của mình phục vụ Sa hoàng Piotr.
Piotr Alekseevich trỏ cho Samber, đang cưỡi ngựa đi bên cạnh những hào hố, những luỹ cao mọc đầy bụi rậm và cỏ dại, những cọc đã gần mục nát nhô lên khắp măt đất.
- Nơi đây quân của ta đã bị tiêu diệt, - nhà vua bình thản nói. - Nơi đây, vua Charles đã dành được vinh quang và chúng ta đã dành được sức mạnh. Nơi đây, chúng ta đã học được cách phải bắt đầu từ đâu nếu ta muốn thắng, nơi đây chúng ta đã mãi mãi chôn chặt cuộc đời xưa kia chúng ta đã sống, mòn mỏi mục nát, và xuýt nữa đã đưa chúng ta đến cho tiêu ma hoàn toàn
Nhà vua quay đi. Nhìn quanh, Piotr Alekseevich trông thấy gần đó có một túp nhà bỏ hoang, mái đã sụp đổ.
Nhà vua cho ngựa đi chậm lại, khuôn mặt tròn của nhà vua bỗng trở nên lầm lì. Melsikov lại gần vui vẻ nói:
- Myn Herz, đúng là cái túp nhà nầy… Bệ hạ nhớ chứ?
- Có.
Piotr Alekseevich cau mầy quất ngựa và lại bắt đầu nhấp nhổm trên yên. Làm sao nhà vua có thể quên được cái đêm không ngủ ấy trước ngày thất bại? Ngồi trong căn nhà nhỏ, nhà vua nhìn ngọn nến cháy hết một nửa đang chảy; Alexaska nằm trên tấm thảm bằng nỉ, âm thầm khóc. Thật khó khăn lắm mới khắc phục được nỗi tủi hổ, niềm thất vọng và sự giận dữ bất lực trong lòng mình, thật khó khăn lắm mới có thể nhẫn nhục chịu để vua Charles đánh bại một cách chắc chắn vào ngày hôm sau. Thật là đau khổ phải tính đến cái nước không thể tưởng tượng được, không thể nào chịu nổi là rời bỏ quân đội vào một lúc như thế, lên xe trượt tuyết phóng về Novgorod để làm lại tất cả từ đầu. Kiếm ra tiền, lúa mì, sắt… Dùng mọi cách, thậm chí bán cả chiếc áo lót cuối cùng của mình cho bọn thương nhân ngoại quốc để mua vũ khí. Đúc đại bác, đúc đạn… Và điều chủ yếu là tìm ra người, tìm nữa, tìm mãi! Kéo dân chúng ta khỏi vùng lầy ngàn đời, mở mắt họ ra, thúc giục họ… Vật lộn để cho họ tinh khôn lên, dạy dỗ họ. Đi hàng ngàn cây số trong bùn, trong tuyết… Phá huỷ, xây dựng… Gạt bỏ muôn ngàn cạm bầy của trường chính trị châu Âu. Và ngoái cổ nhìn lại đằng sau, lo lắng thốt lên: "Công việc còn lại phải làm mới lớn làm sao!
Toán long kỵ binh đi tiên phong vượt ra ngoài bóng thông ấm áp tiến vào một cánh đồng cỏ rộng, trước tường thành Narva dựng sừng sững bên kia cái hào đầy nước. Dân chúng hốt hoảng vừa chạy vừa kêu, vội vã lùa gia súc vào trong thành. Chẳng mấy chốc cánh đồng đã vắng tanh, chiếc cầu treo kêu cót két, từ từ rút lên và đóng sầm vào cửa.
Piotr Alekseevich cho ngựa đi bước một, leo lên ngọn đồi. Tất cả lại rút ống nhòm ra quan sát những bức tường thành cao và dày, cỏ mọc ở các kẽ đá.
Trên đỉnh ngọn tháp dựng liền bên cửa thành kiên cố có thể trông thấy bọn Thuỵ Điển đội mũ sắt và đeo cổ áo bằng da trâu. Một tên giơ thẳng cánh tay cầm một lá cờ vàng. Một tên khác, nổi bật lên vì tầm vóc cao lớn, lại gần lan can, tựa khuỷu tay vào chỗ lỗ châu mai và cũng cầm ống nhòm chiếu nhìn đám kỵ sĩ đứng trên đồi, rồi chĩa vào Piotr Alekseevich.
- Những thằng mới gớm làm sao! Cứ trông thấy chúng trên tháp cũng đã đủ sợ rồi, - Apraxin vừa thì thầm bảo Repnin, vừa cầm mũ quạt. - Bây giờ ông đã hiểu tất cả những nông nỗi tôi phải chịu đựng một mình với chín khẩu đại bác ở cửa sông Narova, khi hạm đội của chúng tiến đánh tôi rồi chứ… Cái thằng cha cao lớn, cầm ống nhòm kia là một thằng nguy hiểm đấy, có thể tin ở lời tôi được… Ngay trước khi các ông đến, tôi đã gặp nó ở giữa đồng bằng, tôi định bắt nó. Đừng hòng?
- Cái tên cao lớn ở trên tháp kia là đứa nào thế? - Piotr Alekseevich hỏi, giọng khàn khàn.
- Tâu bệ hạ, đó chính là tướng Horne, tư lệnh Narva.
Apraxin vừa nói ra cái tên đó, Alekxandr Danilovich đã thúc ngựa, phóng nước đại qua cánh đồng cỏ về phía tháp "Đồ ngu xuẩn!". Piotr Alekseevich tức giận điên người hét theo sau lưng hắn. Nhưng gió rít bên tăi Melsikov khiến hắn không nghe thấy. Tới gần sát cửa thành Narva, hắn dừng ngựa lại, bỏ phất mũ ra vẫy, vừa vẫy vừa hét, giọng kéo dài:
- Ô hê! bớ bọn trên tháp kia? Ô hê! Bớ ngài tư lệnh? Ta sẽ để cho bay ra khỏi thành với danh dự quân nhân trọn vẹn, với quân trang quân bị, cờ dong, quân nhạc đi đầu! Hãy biết điều mà rút đi!
Tướng Horne hạ ống nhòm xuống để nghe gã người Nga kia, quần áo lòe loẹt như một con gà trống, đang lồng lộn trên con ngựa trắng. Lão quay về phía một tên Thuỵ Điển, chắc hẳn là phiên dịch. Khuôn mặt khắc khổ của lão già nhăn lại như thể vừa uống phải dấm chua, lão cúi qua bờ tường thành và nhổ về phía Melsikov.
- Câu trả lời của ta đó, đồ xuẩn! lão hét to, - Mi sẽ nhận được ngay bây giờ một cái còn thẳng cánh hơn kia.
Trên tháp, quân Thuỵ Điển phá lên một tiếng cười nhục mạ… Một ánh lửa lóe sáng, một đám mây nhỏ bốc lên, viên đạn trái phá xé không khí bay rít qua đầu Melsikov.
- Ô hê hê hê! Bớ quân Thuỵ Điển! - Anikita Ivanovich Repnin cất giọng yếu ớt hét lên. - Bay bắn tồi lắm, hãy gửi bọn pháo thủ của bay sang bên ta, ta dạy dỗ cho
Trên đồi, tiếng cười cũng vang lên. Alekxandr Danilovich biết rằng dẫu thế nào thì cũng không thoát khỏi ăn roi của vua Piotr Alekseevich, cứ tế ngựa lượn đi lượn lại, vẫy chiếc mũ nỉ và nhe răng giễu bọn Thuỵ Điển cho đến khi viên đạn trái phá thứ hai nổ cách hắn có hai bước và con ngựa nòi, chồm sang một bên, phóng đi, đưa người ngồi trên lưng nó chạy xa khỏi tháp.
Sau khi đã đi một vòng và đếm được ít ra là ba trăm khẩu đại bác trên tường thành, Piotr Alekseevich quay về và tạt vào căn nhà bỏ hoang nổi tiếng kia; nhà vua xuống ngựa, bảo mọi người đợi và ra lệnh cho Melsikov đi theo vào căn phòng mà bốn năm trước đây nhà vua đã cam lòng chịu nhận lấy nỗi tủi hổ và nhục nhã vì lợi ích của Quốc gia Nga. Trước kia, phòng nầy có một cái lò tốt; giờ đây chỉ còn trông thấy một đống gạch đen sì ngổn ngang trên mặt đất đầy rơm và phân súc vật. Có vẻ căn nhà nầy là nơi nhốt dê cừu ban đêm. Piotr Alekseevich ngồi lên bậu cửa sổ, kính đã vỡ hết; Alexaska, vẻ mặt tiu nghỉu, đứng trước mặt nhà vua.
- Danilys, ngươi hãy nhớ kỹ điều nầy: ta mà còn thấy ngươi huyênh hoang một cách ngu dại nữa thì thề có Chúa, ta sẽ lấy roi tuốt xác ngươi ra. - Piotr Alekseevich nói. - Ngươi im đi, đừng có cãi… Hôm nay, tự ngươi đã chọn lấy số phận mình… Ta vẫn tự hỏi: không biết nên trao quyền chỉ huy đội quân vây thành cho ai: cho ngươi hay đại nguyên soái Oginvy? Trong việc nầy ta muốn dùng một người Nga hơn… Nhưng anh bạn ơi, ngươi đã làm hỏng hết mọi việc. Ngươi đã nhảy nhót trên lưng ngựa như một thằng leo dây múa rối trước mặt tướng Horne! Thật xấu hổ! Cho đến nay, ngươi vẫn chưa quên được các bãi chợ và các buổi chợ phiên của Moskva. Lúc nào ngươi cũng muốn làm hề, như ở bàn ăn của ta vậy! Vậy mà toàn thể châu Âu nhìn vào ngươi đấy, đồ ngu! Im đi, đừng có cãi. - Nhà vua khịt khịt mũi, nhồi thuốc lá vào tẩu - Và còn điều nầy nữa, Danilys: ta đã nhìn lại những bức tường kia, ta rất phân vân. Chúng ta không thể bỏ Narva một lần thứ hai được. Narva là cái chìa khoá của toàn bộ cuộc chiến tranh. Nếu Charles chưa hiểu điều đó thì ta, ta đã hiểu… Ngày mai, toàn thể quân đội của ta sẽ bao vây thành, không một người nào, ngay cả một con chim, có thể lọt ra được. Đại bác công thành của ta hai tuần lễ nữa mới tới nơi… Và rồi sau đó thì ta sẽ làm gì? Tường thành rất kiên cố, tướng Horne lại bướng bỉnh, Slipenbac đang đuổi theo chúng ta bén gót… Nếu chúng ta cứ ở đây mà dậm chân tại chỗ thì rồi chúng ta lại còn phải chống chọi cả với vua Charles sẽ kéo quân từ Ba Lan tới Cần phải đánh chiếm thành nầy cho nhanh và ta không muốn đổ máu quân lính của ta vô ích… Danilys, ngươi thấy thế nào?
- Chắc có thể nghĩ ra một kế gì đó… Cũng chẳng khó khăn gì… Nhưng đã có đại nguyên soái Oginvy chỉ huy ở đây, ông ta cứ việc đọc trong sách của ông ta xem nên làm gì. Còn thần thì biết nói gì được? Có nói thì lại chỉ là một điều ngu ngốc nữa, một điều thô lỗ của một gã nhà quê.
Melsikov dậm chân tại chỗ, ngập ngừng không muốn nói, bỗng hắn ngẩng đầu lên: gương mặt Piotr Alekseevich buồn rầu và bĩnh tĩnh, ít khi hắn thấy nhà vua như vậy… Alexaska thương hại thấy nhói ở tim như bị dao đâm.
- Myn Herz, - hắn khẽ nói, lông mày cau lại, - Myn Herz, sao, bệ hạ làm sao vậy? Bệ hạ hãy chờ cho đến tối nay, thần sẽ tới lều của bệ hạ, nhất định thần sẽ tìm ra được một kế gì… Bệ hạ không biết người của ta sao? Bây giờ không phải là năm 1700 nữa… Lạy Chúa, xin bệ hạ đừng phiền muộn!
 
Chú thích:
(1) Đơn vị đo lường thời xưa, một toadơ bằng 1,949 mét.
 

Truyện PIE ĐỆ NHẤT Tiểu sử & chú thích Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 Chương 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 Chương 68 Chương 69 Chương 70 Chương 71 Chương 72 Chương 73 Chương 74 Chương 75 Chương 76 Chương 77 Chương 78 Chương 79 Chương 80 Chương 81 Chương 82 Chương 83 Chương 84 Chương 85 Chương 86 Chương 87 Chương 88 Chương 89 Chương 90 Chương 91 Chương 92 Chương 93 Chương 94 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Chương 98 Chương 99 Chương 100 Chương 101 Chương 102 Chương 103 Chương 104 Chương 105 Chương 106 Chương 107 Chương 108 Chương 109 Chương 110 Chương 111 Chương 112 Chương 113 Chương 114 Chương 115 Chương 116 Chương 117 Chương 118 Chương 119 Chương 120 Chương 121 Chương 122 Chương 123 Chương 124 Chương 125 Chương 126 Chương 127 Chương 128 Chương 129 Chương 130 Chương 131 Chương 132 Chương 133 Chương 134 Chương 135 Chương 136 Chương 137 Chương 138 Chương 139 Chương 140 Chương 141 Chương 142 Chương 143 Chương 144 Chương 145 Chương 146 Chương 147 Chương 148 Chương 149 Chương 150 Chương 151 Chương 152 Chương 153 Chương 154 Chương 155 Chương 156 Chương 157 Chương 158 Chương 159 Chương 160 Chương 161 Chương 162 Chương 163 Chương 164 Chương 165 Chương 166 Chương 167 Chương 168 Chương 169 Chương 170 (chương kết)