Chương 7

Hiện Tượng Luân Hồi
 
Giải Thích Một Số Thắc Mắc Của Con Người Từ Cổ Đại Đến Nay.
Các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã ghi lại một số đặc điểm đáng lưu tâm về vấn đề luân hồi quả báo qua đó giải thích được một số thắc mắc của con người từ lâu.
Nghiệp quả đã tạo thành những phản nghiệp hay quả báo có thể phát sinh nhanh hay chậm.
Nếu phát sinh nhanh thì đó là quả báo nhãn tiền. Trong đời sống hàng ngày ai trong chúng ta cũng đều đã hơn một lần chứng kiến rõ ràng sự kiện nầy. Vô số thí dụ có thật đã xảy ra chứng minh điều đó. Năm 1964, báo Sài Gòn có đăng tin vặt về một em bé bị điện giật chết. Nguyên nhân xảy ra tai nạn chết người nầy như sau:
Vườn nhà của gia đình em nầy có một cây ổi xá lị rất nhiều trái nhưng thường bị trẻ em lối xóm hằng đêm đến hái ăn. Người cha trong gia đình thấy vậy đã giăng ngầm dây điện cao thế vào cây ổi quyết trừng trị các trẻ em trong xóm ban đêm đột nhập vào hái trái. Nhưng rủi thay, một hôm trong nhà quyên rút dây điện khỏi ổ cắm điện. Đứa con trai chủ nhà mới 7 tuổi đi học leo lên hái ổi bị điện giật chết thê thảm. Tại Hoa,năm 1930, báo chí đăng một tin hết sức lạ lùng sau đây: Hôm ấy là một đêm tháng 6 năm 1930, một cảnh sát tuần tiểu tên là Allan Falby thấy một chiếc xe tải lớn chạy quá tốc độ trên đường El Paso nên phóng xe đuổi theo. không may, người tài xế chiếc xe vận tải nhìn qua gương chiếu hậu biết có cảnh sát đuổi theo, sợ quá nên vội vả ngừng xe khiến chiếc xe tuần cảnh của viên cảnh sát tuy đã kịp thời lạng sang bên nhưng lại tông vào lề khiến viên cảnh sát văng ra xe gảy chân và đứt một mạch máu lớn làm máu ra quá nhiều. Người tài xế kinh hoảng nhảy xuống xe và đã dùng một sợi dây vải siết chặt chổ mạch máu bị đứt. nhờ đó mà xe cứu thương đưa nạn nhân về được trạm y tế gần đó để kịp thời cứu chữa
. Năm năm sau, Allan Falby lần nầy vẫn tiếp tục làm cảnh sát tuần tra. Vào một đêm tháng 6 năm 1935 trong lúc Allan Falby đang lái xe trên xa lộ El Paso (cũng tại con đường nầy vào tháng nay) thì bỗng thấy một chiếc xe vận tải bị lật bên lề. Allan Falby vội vã xuống xe chạy đến rọi đèn xem thì thấy một nạn nhân là một người đàn ông bị thương nặng, máu ra lênh láng. Falby liền lấy một miếng vải dài siết chặt nơi chỗ mạch máu bị đứt để chờ xe cứu thương đến. Nhìn kỹ lại thì địa điểm chiếc xe tải bị lật chính là nơi mà cách đó 5 năm xe của Falby cũng đã bị tông lề và văng ra xe. Tại trạm y tế, Falby càng kinh ngạc hơn nữa khi thấy nạn nhân không phải là ai xa lạ mà chính là người tài xế năm nào đã làm anh ta bị thương suýt chết và điều càng lạ lùng hơn nữa là cả hai đều bị gảy chân và đứt mạch máu lớn (nhưng sau đó đều được cứu chữa và phục hồi sức khỏe mau lẹ).
Ở đây, câu hỏi được đặt ra có phải đây là một sự trùng hợp hy hữu hay đây là một loại quả báo nhãn tiền? Nếu cho là quả báo nhãn tiền thì thật sự ai là kẻ gây ra tội lỗi? Nếu bảo người tài xế biết có cảnh sát rượt theo sao anh ta không chịu tấp vào lề mà lại ngừng xe để gây tai nạn? Có phải anh ta thật sự sợ quá mà trở nên không kịp suy nghĩ hay là do chủ ý? Nếu chủ ý thì tại sao khi thấy người cảnh sát bị thương lại vội vã xuống xe lo việc cứu giúp?
Sự trùng hợp lạ lùng trên cho đến nay vẫn còn gây nhiều thắc mắc ngay cả cho những nhà nghiên cứu về lãnh vực luân hồi.
Câu chuyện có thật trên nếu được liệt vào trường hợp quả báo tức thì là nhờ có hoàn cảnh, điều kiện thuận tiện để quả báo nhất sinh. Nhưng đôi khi nghiệp quả đã tạo xong mà điều kiện chưa có thì vẫn chưa xuất hiện quả báo được. Điều nầy giải thích vì sao có những người làm ác nhưng vẫn không bị quả báo nào cả. Có khi phải đợi một thời gian rất lâu đương sự mới bị hậu quả của những gì đã làm trước đó trong dân gian có câu "trời có mắt" hay "thiên bất dung gian" hoặc "ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình" hoặc "ác giả ác báo"... đều ám chỉ về quả báo nhãn tiền thấy ngay trước mắt. Còn quả báo chờ đợi mà thời gian rất lâu có khi hết một đời người, qua kiếp khác mới trả hay có khi phải qua nhiều kiếp. Trên cõi trần nầy, đôi khi chúng ta kinh ngạc và nghi ngờ nhiều về thuyết luân hồi quả báo khi thấy những bạo chúa dã man, những kẻ lộng quyền giết người vô tội một cách vô lý cũng như đầy đoạ hàng vạn người... nhưng những kẻ ấy vẫn ung dung sống cuộc đời vương giả, sung sướng hạnh phúc lâu dài cho tới chết và khi chết lại còn được đưa tiễn linh đình, long trọng tới nơi an nghỉ cuối cùng. Điều thắc mắc đó quả thật có lý, nhưng đối với thuyết luân hồi nhân quả thì lại chẳng có gì phải thắc mắc vì theo thuyết luân hồi nầy, mọi sự việc, mọi hành động của bất kỳ ai đều được ghi nhận một cách rõ ràng để rồi được thưởng phạt một cách công minh chính đại. Nếu bình tâm suy xét thì lý luận sau đây chẳng có gì là sai lệch hay gượng ép mơ hồ.
Lấy thí dụ bạo chúa nào đó. Tại sao người ấy lại được làm vua? Phải chăng nếu xét về mặt lý thuyết luân hồi tái sinh nghiệp quả là do tiền kiếp người ấy đã tạo được nghiệp lành, đã có vô số hành động tốt lành và nhờ đó mà y thừa hưởng được ân huệ tối cao làm vua?
Nhưng trong thời gian làm vua, thụ hưởng được mọi lạc thú trong cuộc sống, thay vì y tạo thêm nhân đức, tạo nghiệp lành tiếp tục thì y lại có những hành động tàn ác của kẻ có quyền uy. Tuy nhiên hoàn cảnh, điều kiện và thời gian để y bị quả báo chưa đến. Luật luân hồi nghiệp quả vô cùng công bằng và chi li, có thể thời hạn được hưởng nghiệp quả tốt lành của y chưa hết hạn kỳ nên y vẫn còn tại vị. Ở đây, có thể trong lúc tại vị, y cũng đồng thời bị nghiệp quả xấu tức thì song song. Tuy nhiên đó là trường hợp tội ác hiện tại mà y gây ra không lớn thì sự kiện có thể xảy ra. Nhưng ở đây, vì trong kiếp hiện tại, y tạo nghiệp ác quá lớn như trường hợp của bạo chúa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò, đày đọa hàng vạn người xây Vạn Lý Trường Thành, hoặc trường hợp Hitler, một quỉ vương Đức Quốc Xã đã tiêu diệt mấy triệu người vô tội... vì thế có thể chưa có những cơ hội tương xứng với những tội lỗi tày trời của chúng và hơn nữa nghiệp lành từ kiếp trước của chúng vẫn còn nhiều. Có thể sau khi những kẻ ác nầy chết đi, kiếp sau khi đầu thai trở về chúng vẫn còn hưởng tiếp tục nghiệp lành từ những kiếp trước đó nữa. Lại có những kẻ mà lúc còn sống chúng hành động rất tàn ác, dã man và khi chết hoặc do bị xử tội hay chết sớm, chúng vẫn nuôi trong tâm thức sự tiếc nuối căm hờn không nguôi về những gì chúng đã làm chưa trọn vẹn và chúng thề nguyền với lòng sẽ tiếp tục những hành động dã man tàn ác mà kiếp lai sinh. Cái nghiệp thức và nghiệp lực là động cơ khiến chúng tha hồ mà làm điều tàn nhẫn không gớm tay khi được tái sinh trở lại. Nhà triết học Schopen hauer đã có lần ghi lại một sự kiện tương tự, ở đây lá ý chí phục thù và ý chí phục thù ấy sẽ thể hiện ở kiếp sau khi khi ông kể rằng trong một bài báo Anh (báo The Times) phát hành ngày 29 tháng giêng 1841 mô tả cuộc xử bắn hai người đàn ông Úc Châu về tội giết người: "Hai kẻ sát nhân một già một trẻ mỗi người một phong cách vá ý chí biểu lộ trên nét mặt và cử chỉ. Tên sát nhân trẻ tuổi với gương mắt lầm lì, mắt trắng dã với những đường gân thớ thịt hằn lên ở ngang tai, răng nghiến lại. Cứ nhìn nét mặt hắn bộc lộ lúc đó (bài báo viết) thì "người ta sẽ thấy rõ ràng hắn sẽ tái sinh trở lại một thanh niên da trắng và điều đó làm có cương quyết. Cái cương quyết sẽ thành kẻ sát nhân man dã hơn nữa ở kiếp sắp tới..." Cách đây hơn một thế kỷ, một ác quỷ đã xuất hiện giữa thế gian ngay tại nước Pháp. Tên của hắn là Gilles de Rais với chức vụ Thống chế. Hắn giết người không gớm tay, giết người với hăng say thích thú vùng với sự thèm khát lạ lùng khi trông thấy máu và nhúng tay vào máu. Lúc bị đưa lên giàn hỏa "con quỷ dữ" đã gào lên khủng khiếp cùn với lời nguyền: "Ta sẽ trở lại thế gian nầy 500 năm sau..." và mới đây. tại Hoa Kỳ xuất hiện một kẻ sát nhân kỳ dị đã gieo bao khủng khiếp trong một ngôi nhà vắng lặng thay vì tòa lâu đài bí mất của thời xưa cổ, con quỷ dữ nầy có tên là C. Jeffrey Dahmer, hắn giết trẻ con và người lớn, cách giết người của hắn y hệt ác quỷ Gilles de Rais nhưng kinh khiếp hơn, rùng rợn hơn, ghê tởm hơn khi hắn ăn thịt luôn những nạn nhân hắn giết. Điều nầy khiến người ta nghĩ đến lời nguyền ghê gớm của tên sát nhân cách đây nửa thế kỷ, "ta sẽ trở lại... và tiếp tục công việc của ta hơn cả hôm nay..." Phải chăng Jeffrey Dahner chính là hậu thân của quỷ dữ Gilles de Rais? Ta hãy ngược dòng thời gian để biết cuộc đời ghê tởm của ác quỷ Gilles de Rais:
 
Chuyện Ngài Thống Chế Nhân Từ.
 
Đã mấy tháng liền, dân chúng quanh vùng Vendée (thuộc nước Pháp) bàn tán cùng nhau không ngớt về một con người vô cùng giàu có, nhân từ, điềm đạm, gương mẫu, mạnh khỏe và nhất là rất thương yêu con trẻ. Người ấy là thống chế Gilles de Rais, ông từ kinh đô về đây và sống trong tòa lâu đài Tiffanges. Mỗi buổi sáng cũng như buổi chiều, ông đều đi dạo một vòng quanh vùng. Dáng ông cao lớn oai vệ và luôn luôn nghiêm nghị, gặp ai ông cũng đưa tay chào với chiếc ba toong trên tay có lạm ngọc lóng lánh. Mỗi khi thấy bọn trẻ, ông thường dừng lại xoa đầu chúng, ngắm nhìn chúng và không bao giờ giờ quên cho tiền chúng ăn quà. Ông thường âu yếm hỏi chúng có muốn sống chung lâu đài với ông không? Nơi mà đầy đủ các loại đàn, các loại đồ chơi, các vườn cây lạ với đủ thứ chim muông và nhất là đủ thứ đồ ăn. Đứa nào cũng híp mắt gật đầu... Thống chế đã nghiêm túc nói rõ vấn đề nầy cho cha mẹ chúng trong vùng và ai cũng muốn gửi con mình cho ngài thống chế nuôi dạy. Thống chế Gilles de Rais đã thực hiện điều hứa đó và để có thể dạy dỗ các đứa trẻ có kết quả hơn, ông đã tìm kiếm các cô gái có học có tài để phụ giúp dạy dỗ các em về các lãnh vực ca hát, đàn, múa và học chữ.
Kể từ khi đó, thỉnh thoảng người ta nghe tiếng ca hát, đọc bài của các đứa trẻ phát ra từ các cửa nhỏ của lâu đài. Các bậc cha mẹ có con gửi vào đây đều sung sướng, yên tâm, hãnh diện. Chỉ tội cho những người không có con để gửi đều cảm thấy đau buồn và thua thiệt...
Ai cũng biết thống chế Gilles de Rais là một con người mực thước, nghiêm khắc về việc dạy dỗ dĩ nhiên là ép vào khuôn khổ. Vì thế mặc dầu đã lâu không ai được dịp gặp lại con vào cả những ngày lễ, Tết nhưng ai cũng đều tự an ủi và hy vọng mai sau con cái họ sẽ nên người. Họ chỉ biết tìm con mỗi khi thống chế đi dạo ngang qua. Ông giơ tay lên và nói: "Ồ! con bác ngoan lắm!" thế là họ yên tâm.
Thống chế có ba tòa lâu đài đồ sộ, trang trí cực kỳ xa hoa nhưng không kém phần quái dị. Nhiều cây cối có thân uốn khúc như đang múa bay trên các pho tượng của các vị thánh thần dữ tợn cạnh các hồ nước rêu phong sâu thẳm.
Thế rồi, một đêm trăng sáng, khoảng 11 giờ khuya, một người thợ rừng có việc phải đi qua tòa lâu đài bỗng nghe một tiếng thét vang lên... người thợ rừng kinh hãi chạy lại phía người đàn ông đang gù lưng vừa bò vừa thở, đến bên một mô đất rồi gục xuống. Dưới ánh trăng, người thợ rừng cúi sát xuống cạnh người gù thì thấy người ấy đã chết. Trên lưng ông ta máu chảy đầm đìa, hình như bị đâm nhiều nhát... Người gù chính là gia nhân độc nhất chuyên săn sóc cây cảnh trong tòa lâu đài của thống chế Gilles de Rais.
Ngày hôm sau xác chết biến mất. Một nỗi kinh sợ bao trùm vùng Vendée. Dân chúng sống gần tòa lâu đài bắt đầu lo lắng và bàn tán. Có những điều mà bấy lâu nhiều người nghi ngờ nhưng không dám hé răng... Có người nhất quyết rằng tai mình đã nghe rõ những tiếng rú thất thanh phát ra từ trong tòa lâu đài bí mật vào những đêm khuya thanh vắng và họ còn khẳng định đó là những tiếng thét đầy khủng khiếp chớ không phải tiếng cười hay tiếng hát...
Hãy trở lại từ đầu, nghĩa là từ năm 1427, lúc bấy giờ Gilles de Rais là vị tướng được vua Charles đệ thất vô cùng quý trọng và được phong làm Thống tướng. Năm 1435 ông cáo bệnh xin trở về vùng Vendée và sống ẩn dật trong tòa lâu đài nổi tiếng Tiffanges. Tại đây ông tiêu phí của cải như đổ tiền qua cửa sổ. Ông còn hai toà lâu đài khác nữa là Machecoul và Chambtobe, vợ ông là Catherine de Thouars và con gái là Marie. Thống chế là một người nghiêm nghị và đôi khi dữ tợn. Vợ con ông ít quan tâm đến, về việc gối chăn đối với bà vợ ông lại thường lạnh nhạt. Ông rất thích những gì có tính cách kỳ bí, ma thuật và ghê rợn, sống cạnh ông luôn luôn có hai phụ tá đắc lực đó là Henriet và Poitou, những người nầy cũng như ông đều có cuộc sống vô cùng bí hiểm khó có ai biết được...
Từ khi xảy ra hiện tượng kỳ lạ về xác chết của người gù biến mất như đã nói trên, dân chúng trong vùng đã bắt đầu nghi ngờ và lo sợ. Cuối thu năm 1440, 12 phụ huynh mà con em họ đều gởi vào tòa lâu đài đệ trình lên nhà vua một đơn thỉnh nguyện yêu cầu điều tra về đời sống các trẻ em trong đó. Nhưng không hiểu vì sao bức thư bị ém nhẹm. Trong khi đó tại lâu đài Machecoul một em bé đi ăn xin tình cờ thấy một cảnh tượng hãi hùng ngay giữa phòng đại sảnh đầy các thây ma của các con trai con gái, tuổi từ 10 đến 12. Em bé nầy vừa khóc vừa chạy thục mạng ra khỏi lâu đài...
Tên Sát Nhân Bị Bắt
Khắp nơi dân chúng xôn xao bàn tán, phần lớn họ đều cho con vào tòa lâu đài nhờ Thống chế nuôi nấng và dạy dỗ nhưng chẳng có ai thấy con trở về đã mấy năm rồi...
Quận công Jean V ở Bretagner đã nghe báo cáo nầy từ lâu nhưng còn chần chờ, mãi tới khi nhà vua hạ lệnh phải đem nộp ngay Thống chế Gilles de Rais thì ông nầy mới chịu ra tay. Trong khi đó các nhân chứng đều tụ tập cả trong văn phòng của Jean de Malstroit, giám mục ở Nantes và là quan tư pháp thượng thư tại tòa án Bretagner. Tất cả đều buộc tội Gilles de Rais là tên sát nhân ghê tởm nhất trên thế gian và yêu cầu thẳng tay trị tội hắn với bản án khủng khiếp nhất. Thế rồi quân đội và nhân viên điều tra đến các toà lâu đài, lục soát khắp nơi, và tội ác ghê rợn nhất do tên sát nhân quái dị nầy đã được hoàn toàn đưa ra ánh sáng. Ngoài Gilles de Rais người ta còn bắt được đồng bọn trong đó nổi tiếng nhất là Henriet và Poitou.
Trước tòa, bọn sát nhân gục đầu nhận tội và chúng lần lượt khai hết tội ác của mình.
Lời Khai Của Bọn Tội Phạm
Theo lời khai của Gilles de Rais thì hắn bị chứng bệnh loạn dâm và thích mùi máu. Mỗi đêm, trong tòa lâu đài hắn và đồng bọn quây quần lại để cùng nhau làm lễ tôn vinh sự tốt lành ở địa ngục. Hắn thường quỳ xuống nhận rượu thánh và nhìn say xưa các cái đầu trẻ em sắp đều giữa nền phòng, những cái đầu xanh lét và bất động. Trước khi giết các đứa bé hắn thường vuốt ve các em thật lâu và hôn da thịt các em. Hắn khai giết hơn 400 trẻ em phần lớn từ 8 đến 12 tuổi. Số trẻ em bị chết hắn bổ sung bằng cách dụ dỗ con cái của các nhà dân mà hắn ghé thăm. Về sau trẻ em hiếm dần hắn nghĩ đến việc lôi kéo các em đi ăn xin hay các em lang thang ngoài đường. Các cô gái mà hắn đưa vào lâu đài để làm cô giáo cũng bị hắn giết không thương tiếc.
Theo lời khai của hai tòng phạm là Henriet và Poitou thì hai tên nầy thường sốt sắng theo lệnh của Gilles de Rais. Sau khi tập trung các trẻ em lại cho Gilles de Rais tuyển chọn lấy một (thường là trẻ em 12 tuổi) thì hắn lùa số còn lại vào một trong phòng khác và đóng kín cửa lại. Trong khi đó Gilles de Rais và bọn hắn làm lễ cầu đạo, gọi hồn thánh thần còn em bé thì bị cởi hết áo quần trói giăng tay trên một cái giường rộng để cho Gilles de Rais ngắm nghía, nói những câu đầy ma quái, vuốt tay chân mặt mũi em ra chiều thích thú, rồi hắn ra lệnh cho hai tên nầy giết em bé. Đôi khi tự tay hắn giết. Sau đó hắn nằm co quắp, trần truồng xuống sàn nhà và ngủ cho tới sáng. Đứa bé bị cắt cổ, cái đầu giữ lại đến sáng hôm sau, còn thân mình thì đem thiêu ngay lò sưởi của căn phòng ngầm trong tòa lâu đài.
Sáng hôm sau cả bọn lại vuốt ve cái đầu lạnh ngắt rồi lại làm lễ cầu hồn.
Người gù lo việc săn sóc cây cối trong lâu đài vì tò mò nên đã bị giết chết. Sau đó bọn chúng thủ tiêu xác. Ngoài ra một phù thủy đã giới thiệu cho Gilles de Rais một cô gái tên là Francois Prelati để phụ lực vào việc gọi hồn và thực hiện phép luyện đan nhưng công việc tiếp diễn mãi, công quỹ khô cạn mà chẳng có kết quả gì khả quan cả. Mỗi lần làm phép bọn họ thường kẻ những đường ngang dọc, những vòng tròn trên nền nhà. Trong mỗi vòng tròn có kẻ thập tự giá và những ký hiệu kỳ lạ của người Do Thái xưa cổ. Về sau sự việc bị bại lộ dần lên Gilles de Rais lo sợ cho đem hết xương cốt các em và thiếu nữ đốt ngay tại căn hầm của lâu đài Machecoul. Năm 1440, nhân lễ thánh trong năm. Gilles de Rais lại ra lệnh giết một số lượng rất lớn các trai gái từ 16 đến 18. Đây là những em bé đã đem về nuôi từ năm năm nay. Sai đó lại còn giết thêm nữa. Các xác bị chặt ra làm đôi và bày la liệt trên sàn của căn phòng lớn trong tòa lâu đài để làm lễ tôn vinh các thánh thần.
Giờ Đền Tội
Phiên toà kéo dài mấy ngày liên tục trước sự tham dự của hàng vạn dân chúng. Với các tội trạng rành rành đầy ghê tởm của bọn sát nhân. Tòa tuyên án xử tử hình tên Gilles de Rais bằng hình thức treo lên giảo đài và thiêu sống, còn hai tên ác ôn Henriet và Poitou cũng bị hình phạt tương tự. Những người sống trong lâu đài không nhúng tay vào vụ sát nhân thì bị mấy năm tù và hoặc tha bỗng tuỳ theo tội trạng liên quan.
Đúng 11 giờ ngày 26 tháng 10 năm 1440, dân chúng lũ lượt kéo nhau đến một khu đất rộng để xem tận mắt cuộc xử tội ba tên sát nhân mà đứng đầu là tên Gilles de Rais; tên sát nhân quái dị. Sau các lời cầu nguyện Gilles de Rais bước lên giảo đài. Người ta cột dây ở lưng để treo hắn lên giá cao và thòng lọng nơi tròng vào cổ hắn. Dưới chân là đống củi lớn sẳn sàng được bén lửa. Hồi chuông báo tử và gọi hồn vang lên giục giã. Ngọn lửa được châm vào đống củi và bùng cháy hừng hực bốc lên bao lấy tên tử tội. Người ta nghe tiếng hét hắn thất thanh trong lửa và khói "ta sẽ trở lại thế gian nầy năm trăm năm sau... ta sẽ trở lại" Sau đó hai phụ tá ác ôn là Henriet và Poitou cũng lần lượt đưa lên giàn hỏa và bị đốt cháy thành than,kết thúc cuộc đời của những tên độc ác và tàn bạo... Đó là chuyện có thật xảy ra cách đây năm thế kỷ.
Rồi vào năm 1950 báo Paris Match của Pháp lại đăng tin về việc xử tử một tên tội phạm nổi danh giết người không gớm tay. Khi ra pháp trường hắn đã thét lên câu "tao sẽ trở lại, rồi tao sẽ trở lại tàn sát hết!" trước khi gục ngã trước đội hành quyết.
Nghiên cứu về lịch sử các tội phạm đông tây kim cổ, không hiếm những trường hợp tương tự. Những kẻ giết người trước khi đền tội không phải luôn luôn đều ăn năn sám hối, hoặc ghê tởm trước những hành động dã man của mình mà trái lạ, đôi khi còn căm thù, khinh ngạo, tức tối như tuồng những gì chúng đã gây ra và vẫn chưa làm chúng hài lòng và trước khi chết chúng vẫn còn ân hận chưa thực hiện hoài bão tàn khốc của mình và nuôi dưỡng trong tâm lòng khát khao được tiếp tục gây tội ác. Chắc chắn những "ác quỉ" nầy khi tái sinh sẽ làm khổ vô số người. Nhiều người đã tin rằng, những kẻ cuồng sát dã man, kỳ dị ấy khi đầu thai lại, chúng đã làm đúng ước nguyện của chúng. Những kẻ giết người không gớm tay hay cả những đồ tể, những đao phủ say sưa với công việc "xử tử" những tù nhân, những tội phạm, phải chăng đó là những kẻ sát nhân được tái sinh trở lại từ kiếp trước?
Các nhà nghiên cứu về tội ác đã nhận xét rằng những đao phủ từ cổ đại đến nay phần lớn có truyền thống gia đình. André Obrecht là đao phủ nổi tiếng lầm lì nhất thế gian, chỉ riêng trong giai đoạn hành nghề chặt đầu người tại Pháp, ông ta cũng đã chém đầu 322 tử tội. Người cha của Obrecht cũng đã hành nghề đao phủ từ năm 1694. Khi người cha qua đời, Obrecht nối nghiệp cha và đã làm rơi đầu không biết bao nhiêu người từ năm 1922 đến năm 1976. Trong suốt 54 năm trời, Obrecht đã xử tử đủ hạng người; nào là kẻ sát nhân ghê tởm, kẻ phạm tội chính trị, nam có, nữ có, già có, trẻ có và cũng có vô số người vô tội. Mặc dầu không tin thuyết luân hồi tái sanh nhưng qua 54 năm hành nghề đao phủ, Obrecht đã đệ đơn từ chức sau khi chém đứt đầu một nữ tù nhân tên là Louise Giraud mà tiếng kêu gào khủng khiếp của bà nầy hình như không tắt bên tai hắn. Hắn rên rỉ: "tôi chán, tôi sợ và tôi ăn năn!..."
 
Các Chu Kỳ Lịch Sử Và Thời Đại Có Liên Hệ Đến Sự Chuyển Sinh.
 
Nghiên cứu lịch sử văn minh thế giới, các nhà sử học, địa lý học, xã hội học, phong tục học... nhận thấy có những giai đoạn thời gian liên quan đến sự phát triển hay suy thoái về nhiều mặt. Dân số, phong tục, nền văn minh... cũng như cả về mặt khí hậu, thiên tai (động đất, núi lửa, sóng thần, lũ lụt, đất chuồi, hạn hán).
Đối với các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, qua các tài liệu thu thập được từ cổ đại đến nay, họ đã tìm hiểu phân tích một số trường hợp đặc biệt có liên quan giữa những sự chuyển sinh của hàng loạt linh hồn với những thời gian và thời đại tương ứng. Từ lâu nhiều người đã thắc mắc rằng nếu quả thật có số mệnh, có luân hồi thì tại sao lại có trường hợp hai trái bom nguyên tử của Mỹ đã tiêu diệt hai thành phố Hiroshima và Nagazakji của Nhật Bản và giết chết một lúc hàng chục vạn người? Tại sao hàng triệu người dân Do Thái bị đưa vào phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã để chết một cách tức tưởi? Chỉ riêng ở trại giam Auschwitz cũng đã có trên một triệu người bị giết. Những trường hợp ấy thuyết luân hồi quả báo giải thích ra sao?
Trở lại trường hợp của người Hoa Kỳ có khả năng biết được tiền kiếp của người khác khi ông đưa họ vào giấc ngủ thôi miên ông Edgar Cayce đã thu thập được vô số trường hợp khác nhau về những gì liên hệ tới hiện tượng đầu thai và quả báo mà tài liệu có khoảng 30.000 hồ sơ còn lưu trữ tại viện nghiên cứu các hiện tượng siêu hình ở Virginia Beach thuộc tiểu bang Florida. Chính nhờ các tài liệu nầy mà nhà biên soạn Gina Cerminara đã có thể viết lời giải thích tuy không phải là tất cả và hữu lý tuyệt đối cho những câu hỏi trên. Câu trả lời sẽ là có những nhóm linh hồn đầu thai hàng loạt trở lại để sống trên quả đất và theo thời gian đã định, theo hoàn cảnh thời đại, môi trường, những con người ấy sẽ gặp nhau cùng một nơi chốn nào đó để một lần hay lần lượt chịu quả báo. Điều nầy giải thích được nguyên nhân nào có sự chết đồng loạt: Như trận động đất ở Nhật Bản năm 1923 đã giết hại hơn 140.000 người (đó là chỉ riêng ở thành phố Tokyo thôi). Hay trận động đất ở Lisbon, Portugal năm 1755 đã khiến 60.000 người chết... Riêng ở Ý, trận phun lửa của hỏa diệm sơn Venus chôn vùi toàn bộ thành phố Pompeii với hàng vạn dân cư. Tro nóng của núi lửa đã khiến cho nhiều người chết nhanh đến độ có người vẫn giữ nguyên dáng đứng, ngồi hay biểu lộ các cử chỉ hốt hoảng, kinh hoàng... sau nầy khi khai quật thành phố trở lại mới thấy rõ điều đó.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong trường hợp gọi là chết đồng loạt ấy thật sự đôi khi vẫn còn một số người hoặc duy nhất còn một người sống sót. Trường hợp nầy được giải thích qua nhiều lập luận.
Thứ nhất có thể những người còn sống sót chưa đến hạn kỳ phải chịu đại nạn. Có người còn sống sót nhưng đôi khi họ lại còn bị đau khổ đày đọa hơn những người đã chết trước đó. Trong một trại giam người Do Thái của Đức Quốc Xã, có lần hai tù nhân vượt trại trốn vào rừng. Sau bao gian nan nguy hiểm, một người bị quân Đức bắt lại, người thứ hai thoát được. Khi trở về trại thì những người bị giam trong các căn trại ấy đã bị bỏ vào lò hơi ngạt hết. Bọn Đức liền đẩy người nầy vào nhóm người Do Thái thứ 2 ở những trại kế tiếp để chờ đợi ngày vào phòng hơi ngạt.
Khi ngày ấy đến, trong lúc đoàn người bị đưa lên xe cây chuẩn bị di chuyển thì một người Do Thái nổi điên xông vào đám lính Đức cấu xé. Nhân cuộc lộn xộn xảy ra. người nầy trốn khỏi đám đông chạy vào ẩn trong một nhà kho. Tuy nhiên lính canh bắt được và người nầy bị lính Đức đánh đập vô cùng tàn nhẫn và cuối cùng anh ta cũng bị đưa vào phòng hơi ngạt. Hồ sơ người nầy đã được quân Đức lưu trữ và thường dùng để làm gương cho những người trốn trại. Qua hồ sơ ấy ta thấy rõ rằng người nầy tưởng là may mắn nhưng quả thật anh ta không may mắn chút nào nếu so với những người Do Thái trước đó đã vào lò hơi ngạt. Những người ấy chỉ chết một lần, còn anh ta, trước khi chết lại phải vào sinh ra tử bị đày đọa khổ đau cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy nhiên có khi người sống sót lại được an toàn cho đến mãn đời, ấy là do nghiệp quả báo của họ phải chịu sự lo sợ kinh khiếp nhưng phải chết ngay được. Như trường hợp cô Helen Hix kinh sợ đến độ chết đi sống lại nhiều lần trước khi đưa lên ngồi ghế điện. Khi dòng điện 10.000 volt truyền vào ghế điện thì cô thét lên nhưng kỳ lạ thay điện cao thế ấy lại không giết được cô mà chỉ làm cháy xém một vài nơi ở tay và chân thôi. Điều kỳ lạ nầy cho ta một giải thích mới theo nghĩa quả báo luân hồi là tội nhân phải chịu hình phạt rợn làm khổ đau khiên đảm từ cả tinh thần đến thể xác nhiều lần. Về chu kỳ lịch sử, thời đại và sự xuất hiện vủa những nhân vật lịch sử vào những thời kỳ tương ứng chính là hạn kỳ, giai đoạn mà những linh hồn nào đó đã được luân hồi tái sinh trở lại. Có những linh hồn chờ đợi hoàn cảnh sự kiện thích ứng cho mình để nhắm đúng thời gian để đầu thai. Những nhà thông thái, những người làm nên lịch sử, sáng chế, phát minh, phát triển văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, tạo cuộc sống cách mạng, làm thay đổi thể chế chính trị nào đó. v..v... đều là những người mà trước đây họ cũng đã có những tài năng tương ứng và sự luân hồi là cả một sự tiến hóa, hơn nữa có thể họ chưa đạt ý nguyện về những công việc, những hoài bão từ tiền kiếp nên họ sẽ mong chờ được chuyển sinh trở lại để hoàn tất những gì mà mình đang bỏ dở chưa hoàn thành. Xét về mặt khoa học kỹ thuật, câu hỏi được đặt ra là những nhà khoa học, phát minh tài ba xuất hiện ở những thế kỷ trước và những thế kỷ hiện nay như Galilée, Einstein... có phải là cùng phát xuất chỉ từ một vài người thông minh nào ở thời đại xa xưa và qua sự tiến hoá của hiện tượng luân hồi mà giờ đây họ lại tái sinh và có lẽ trong những thế kỷ kế tiếp họ lại tái sinh?
Theo sự tìm hiểu của ông Edge Cayce khi ông khám bệnh theo phương thức thôi miên để đưa người bệnh nhân về quá khứ xa xăm hay tiền kiếp của bệnh nhân, ông được biết ngày xưa trên quả đất chúng ta đang sống có những đất nước, những dân cư, những nền văn minh phát triển. Nhưng qua những đột biến bất ngờ của quả địa cầu như núi lửa, động đất, đại hồng thủy v.. v. mà nhiều quốc gia, nhiều nền văn minh đã bị xóa tên và biến mất trên bản đồ thế giới. Chẳng hạn Châu Atlantic là một vùng đất rộng lớn có nền văn minh và lịch sử vô cùng phát triển. Khoảng 10.000 năm trước công nguyên, do một cuộc đại biến về địa chất mà lục địa nầy bị chìm xuống đáy đại dương. Hiện nay các nhà hải dương học thỉnh thoảng vẫn còn tìm thấy những vật dụng lạ lùng về châu nầy, những dấu tích kỳ bí cao siêu chứng tỏ xưa kia dân của Châu nầy có nền văn minh phát triển còn hơn cả nền văn minh của con người ngày nay. Cuộc đại biến lớn lao ấy đã khiến cho gần như hầu hết dân cư của Châu Atlantic bị tiêu diệt. Đây cũng có thể xem như sự hủy diệt đồng loạt những nhóm, loài nào đó ở một giai đoạn thời gian và hoàn cảnh nào đó. Rồi qua sự tái sinh những người ở Châu nầy sẽ lại đầu thai vào những thời đại tiếp theo cho đến ngày nay. Dĩ nhiên những linh hồn thông minh, tài năng của Châu Atlantic xưa cổ nầy sẽ trở lại thành những người tài giỏi của các quốc gia sau đó và hiện nay cũng như tương lai qua sự tái sinh luân hồi. Khi trình bày về vấn đề nầy, ông Edgar Cayce gặp sự nghi ngờ của nhiều người vì thắc mắc của họ lại gia tăng về một nền văn minh vượt bậc lại xuất hiện trước nền văn minh bây giờ. Làm sao lại có được điều kỳ lạ đó khi các nhà địa chất, sinh vật học, xã hội học, sử học lại xác định sự xuất hiện của nền văn minh loài người chỉ xuất hiện ở một giai đoạn thời gian nào đó không xa lắm nghĩa là mới đây thôi, trong khi nền văn minh của Châu Atlantic lại ở vào koảng thời gian cổ xưa hơn nữa. Thật ra, những khám phá và xác định của con người từ trước đến nay về quả đất, về sinh vật, về con người về nền văn minh không hẳn là hoàn toàn chính xác. Nhà bác học nổi tiếng Pierre Lecomte du Nouy đã ghi nhận về những nền văn minh xuất hiện vào thời xưa cổ như sau:
"Lịch sử đã cho chúng ta biết về nhiều nền văn minh đã có một trình độ vượt trội nền văn minh của chúng ta hiện nay. Nhưng tất cả chúng đã sụp đổ vào giai đoạn sắp đạt tới mục đích mà đời sống đã quá thuận lợi và tuyệt hảo đến độ những người cầm đầu lại đi vào cuộc sông ham mê nhu nhược và sa đọa khiến họ mất đi những gì về độ phẩm hạnh và làm họ biến thành những kẻ hèn yếu, dã man, tàn bạo, vô lương chỉ biết có xa hoa trụy lạc. Quần chúng khi ấy nhận thức được nguy cơ của sự suy vong nên với những phương tiện sẵn có, dọn đường cho những con người mới xuất hiện, những con người có đủ đức tính mà những người trước đã đánh mất.
Như vậy, chính đời sống tiện nghi cực độ sẽ dẫn đến sự suy tàn..."
Nếu xét về những thời đại lịch sử không xa lắm chúng ta cũng thấy được một vài sự kiện chứng về nhận định trên như sự hủy diệt của toàn bộ thành phố Pompei có nền văn minh phát triển.
Một số nhà khoa học cho rằng sở dĩ từ lâu thế giớ ca ngợi văn minh Ai Cập cổ đại là vì họ đã tìm thấy ở đó những dấu vết, hình ảnh từ kim tự tháp và trong kim tự tháp có những thứ còn may mắn tồn tại qua thời gian, những vật dụng nói lên sự tiến bộ của người Ai Cập có được sự văn minh tiến bộ, chắc hẳn họ phải được kế thừa bởi những nền văn minh nào đã có trước đó. Nhưng không may là những nền văn minh trước đó đã bị hủy diệt bởi nhiều lý do. Ta không thể loại trừ lý do về những đại thiên tai ghê gớm mà ngày xưa Kinh thánh có nhắc lại hay những hiện tượng đại biến của quả địa cầu như Cuvier nêu ra.
Baron Cuvier là một nhà sinh vật học nổi tiếng của Pháp, ông sinh năm 1769 và mất năm 1832. Thuyết nổi tiếng của ông là thuyết biến địa chất (geological catastrophe). Theo ông thì quả đất từ khi được thành lập đến nay đã trải qua nhiều cuộc đại biến vì thế làm thay đổi diện mạo mặt đất và nhất là khiến cho nhiều loài sinh vật bị diệt vong và nhiều loài sinh vật khác xuất hiện. Điều nầy giải thích nguyên nhân vì sao các sinh vật xửa nay không còn tiếp tục phát triển. Những tác nhân gây nên tại biến là những trận động đất khủng khiếp, những sóng thần, những trận phun lửa của hỏa sơn xảy ra rộng khắp quả địa cầu. Cũng theo Cuvier thì những cuộc đại biến nầy thường xảy ra theo từng chu kỳ. Mọi sinh vật sẽ chịu sự biến đổi theo từng chu kỳ ấy. Sinh vật phát sinh, phát triển rồi đồng loạt bị tiêu diệt vì một thảm họa lớn lao nào đó.
Như vậy thì thuyết cho rằng có những thời đại văn minh xuất hiện trước đây trên quả đất và nay đã bị tận diệt cũng không có gì là vô lý hay quá đáng. Trở lại châu Atlantic mà nhiều tài liệu đã xác nhận và mới đây sau khi nhiều nhà hải dương học nghiên cứu những vết tích dung nham do núi lửa phun ra bám trên sợi dây cáp đặt ngầm ở đáy biển, các nhà nghiên cứu đã dùng cầu lặn để thám hiểm và chụp hình đáy Đại Tây Dương nhiều lần, họ thấy nơi đó có đường nứt toạc rất lớn. Ngoài ra những mẫu dung nham được xác nhận là lúc đầu ở đất liền sau mới chìm xuống đáy đại dương, điều nầy chứng tỏ trước đây Đại Tây Dương là một lục địa lớn. Mới đây, một số báo chí, nhất là tại Hoa Kỳ cho rằng nhờ máy quang tuyến cực mạnh trang bị từ những vệ tinh, đã phát giác ra được những đường ngầm rộng từ 400 đến 500 yards cao độ 50 feet nằm ngay trên vùng được mô tả là châu Atlan tiic. Phải chăng đây là những đường nứt toạc ở đáy Đại Tây Dương hay là những con đường đi đến Châu Atlantic. Theo các nhà khoa học đường ngầm nầy đủ sức để một phi thuyến không gian đi qua. Điều nầy cũng giải thích thêm nguyên nhân nào từ lâu các tàu bè hay máy bay khi qua vùng Berrmuda (tam giác quy phần lớn đều bị "hút" mất xuống tận Atlantic. Vấn đề dù sao vẫn còn trong vòng bàn cãi. Tuy nhiên đối với thuyết luân hồi tái sinh thì vẫn khẳng định rằng có những nhóm linh hồn đồng loạt chuyển sinh vào những thời đại, hoàn cảnh, môi trường nào đó thích hợp cho nghiệp quả của họ. Vì thế mà đôi khi có những trường hợp là lùng hàng loạt người chết một lần vì những tai nạn nào đó như thiên tai, bão lụt, rớt máy bay, tàu chìm, bị pháo kích, oanh tạc. Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều ngôi làng mà dân chúng bị tàn sát từ người già đến con trẻ không còn một ai. Sự chuyển sin hàng loạt để được thưởng, phạt, trả quả một lần đổi khi thể hiện rất rõ ràng.
Ngay cả trường hợp bệnh lý cũng vậy như trường hợp dưới thời đại vua Charles I ở nước Anh bị ống dẫn tiểu hoặc bị sạn thận. Trong lịch sử nhân loại có nhiều giai đoạn phát sinh chứng bệnh lạ lùng, riêng biệt, chứng ôn dịch v.v... nhân loại trong thế kỷ 20 bị bệnh AID phát triển sẽ đồng loạt tấn công loài người ở một tương lai không x nếu không có phương thuốc nào có khả năng chận đứng. Trong thời kỳ ở Việt Nam có phong trào vượt biển, nhiều ghe tàu đi song suốt nhưng cũng có nhiều chiếc bị chìm kéo theo vô số người trên tàu xuống biển. Trong một chuyến vượt biển như vậy thường quy tụ rất nhiều người có lứa tuổi khác nhau, phái tính, trình độ trí thức, người khác nhau và đặc biệt họ ở những nơi khác nhau, người ở Huế người ở Quy Nhơn, người ở Sóc Trăng người ở Quảng Trị. Họ cùng bỏ hết mọi việc để tập hợp tại một nơi nào đó rồi cùng xuống tàu và cuối cùng đi tất cả cùng chết theo tàu.
Phải chăng những linh hồn nầy cùng trả quả đồng loạt? Tuy nhiên ở kiếp chuyển sinh tiếp theo không phải họ đều đồng loạt đầu thai vì kiếp hiện tại mỗi người đã tạo những nghiệp quả khác nhau nên sẽ đầu thai tiếp theo những hoàn cảnh, thời gian khác nhau để trả quả báo tương ứng. Sự chết đồng loạt của những người nầy chỉ có thể nói lên rằng ở kiếp trước họ đã có những hành động tàn ác tương tự nhau như tàn hại ai khiến họ phải chết vì những nguyên nhân thuộc về sông biển, về nước và khi hoàn cảnh, thời gian, môi trường, sự kiện đang xảy ra, thuận họp cho việc thực hiện sự trả quả thì những người nầy tự nhiên có ý hường đi tìm điều kiện thuận lợi cho quả báo tiến hành. Cũng tho lý luân của triết gia Schopenhauer thì với cái sâu xa vi diệu của thuyết luân hồi, con người có thể thấy lại được mình ngay mặc dù như ẩn trong cái vòng sinh tử và nhờ sự chuyển sinh mà những người sống đồng thời với ta có thể lại tái sinh cùng ta với những thái độ, tình cảm cũng như trước đó.
Khi tim hiểu về vấn đề tái sinh đồng loạt tưởng cũng nên xét về mặt dân số thế giới vầ vấn đề sinh sản.
Xét về mặt dân số thế gới và vấn đề sinh sản:
Theo Casper (năm 1835) khi viết về vấn đề: Luận theo kỳ hạn của kiếp nhân sinh cũng đã cho rằng mỗi quốc gia, số sinh và số tử của dân số liên hệ với nhau và sự thu thai của một số dân tộc nào đó có một ảnh hưởng lớn đối với số sinh và số tử của tộc đó. Theo Schopenhauer thì có một sự liên qua giữa sự sinh ra của những sinh vật mới cùng với cái chết của những sinh vật không còn sống nữavà cũng theo triết học nầy thì sự liên hệ nầy có thể thấy rõ qua những hiện tượng xảy ra trên quả đất như các trận ôn dịch, các trận thế chiến... thì nhân loại lại sinh sản nhiều hơn để bù trừ cho số lượng người đã bị mất đi. Điểm qua lịch sử thời Trung cổ thấy những nạn ôn dịch hoành hành làm mất đi một số lớn dân số, nạn dịch hạch lúc đó được xem như thảm trạng khủng khiếp đối với nhân loại, hàng ngàn người chết mỗi ngày và bệnh dịch lan tràn nhanh như cơn lốc qua nhiều tỉnh, qua nhiều quốc gia... Sau nạn dịch ấy, tự nhiên sinh suất của nhân loại tăng lên một cách mau chóng và đặc biệt, số trẻ con sinh đôi cũng rất nhiều. Điều đặc kỳ lạ là đồng thời với sự gia tăng số lượng trẻ con ra đời, các cháu bé về sau đều thiếu răng nếu so với các trẻ ở thời đại khác cùng lứa tuổi. F. Schnurrer đã trình bày rất rõ vấn đề nầy trong cuốn Chronik der Seuchen (năm 1825) và đã nêu câu hỏi: Phải chăng thiên nhiên, qua sự cố gắng để cố bù trừ số lượng người trên quả đất nầy bị mất đi, đã sử dụng quá nhiều sinh chất cấu tạo nên cơ thể gây sự thiếu hụt một vài phân tử nào đó? Qua thuyết luân hồi, giữa những người mới sinh ra và những người mới chết đi có liên hệ ràng buộc nào đó. Điều nầy, theo Schopenhauer thì rõ ràng thấy rõ khi suy nghĩ, phân tích những thiên tai, ôn dịch số người chết quá nhiều thì tự nhiên số sinh sản lại gia tăng nhất là số trẻ con sinh đôi tự nhiên nhiều lên một cách lạ lùng (điều nầy đã nói đến trong những phần khác của cuốn sách nầy). Triết gia Arthur Schopenhauer đã từng phát biểu như sau: "sự luân hồi tái sanh là hình thức phổ biến thể hiện sự luân chuyển theo vòng tròn của vòng sinh tử và tử sinh, nhờ đó mà có được đời sống trường tồn, một bản chất bất chấp sự tuần hoàn không ngừng nghỉ của thời gian cũng như nội dung của nó. Mỗi khi cá nhân bị tiêu diệt bởi cái chết thì cá nhân mới lại sinh ra do sự sinh dục, và những người chết đi có thể lãi xuất hiện ngay trong số những người mới sinh ra." Đặc tính của cha và mẹ sẽ thấy được nơi con cái của họ "Mỗi khi cái chết làm tiêu diệt sinh vật thì tự nhiên sinh dục lại tái táo những sinh vật mới. Schopenhauer đã trình bày trong cuốn siêu hình sự chết về vấn đề sau đây: "nếu quan sát tìm hiểu khái quát hệ thống sinh vật từ loài thủy sinh vật cho đến loài người theo thứ tự cấp bậc ý thức, ta sẽ thấy nhờ có sợi dây sinh dục phát sinh trong chủng loại mà các sinh vật từ cấp thấp đến cấp cao vẫn duy trì được qua thời gian dù cái chết vẫn không ngừng làm mất đi các cá thể sinh vật..."
Tuy nhiên đôi khi có thể thấy được sự tái sinh luân hồi thể hiện qua những hiện tượng hay hình ảnh trung gian khi xét đến trường hợp trẻ con sống với thú rừng.
 
Trường Hợp Trẻ Con Sống Với Thú Rừng:
 
 Khi xét về những trường hợp kỳ lạ đặc biệt về những em bé sống với thú trong rừng sâu núi thẳm thì câu hỏi được đặt ra là tại sao trong hàng triệu con trẻ sinh ra lại có những đứa bé chịu cuộc sống man dã với loài thú có khi đến cả mười mấy năm trời. Trên thế giới không hiếm trường hợp trẻ con bị thú rừng bắt đi, đôi khi may mắn hay một lý do nào đó mà cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích được là có những cháu bé bị heo, gấu bắt mang vào rừng nhưng không bị ăn thịt mà để cho sống theo đàn.
Năm 1973 báo Sunday Time ở Hoa Kỳ (ngày 26 tháng 8) có đăng tải một tin liên quan đến một em bé 12 tuổi sống chung với một đàn khỉ trong rừng tại miền nam Sri Lanca. Dân làng sống ở gần đó đã trông thấy cháu bé nầy và mang về làng. Đây là một đứa bé trai, khi di chuyển chỉ bò và nhẩy xổm như khỉ chứ không đi được. Vì khi sinh ra được sáu tháng thì em bé nầy đã bị đàn khỉ bắt theo chúng. Từ đó, trong suốt 11 năm, em bé nầy hoàn toàn sống chung với khỉ nên cách phát âm giống khỉ chớ không nói được tiếng người.
Mới đây, tại một vùng hẻo lánh ở Ấn, một nhân viên kiểm lâm đã gặp một em bé sống lẫn lộn trong đàn sói rừng. May mắn là em bé nầy chỉ mới bị sói rừng bắt đi vài tháng nên khi cha mẹ em đem em về nhà săn sóc chu đáo, em đã trở lại đời sống bình thường của một con người.
Cách đây 9 năm (1980) tại Úc một em bé đã bị chó sói bắt vào rừng. Em bé nầy mới sinh được 3 tuần lễ nhưng thay vì nuôi em bé, chó sói nầy đã giết em. Lúc đầu dân làng không biết rõ chuyện nầy nên khi thấy xác em tưởng là người mẹ đã giết em rồi đem bỏ vào rừng. Nhưng sau đó, qua sự điều tra cẩn thận của cảnh sát, người ta mới biết rằng em bé đã bị chó sói loại Dingo, một loại sói rừng dữ tợn ở Úc Châu giết chết. Thế là người mẹ của em bé được minh oan.
Ngày 11 tháng 12 năm 1954 tại Tân Đề Li cảnh sát Ấn đã bắt được một em bé sống lẫn lút trong rừng. Họ gọi em là "em bé sói" vì em sống với một đàn sói rừng. Tên em là Ramy (khoảng độ 16 tuổi). Em bé được đưa về bệnh viện săn sóc nuôi nấng đàng hoàng nhưng đã qua nhiều năm vẫn không bỏ được tính sói và thích chạy 4 chân hơn là đi bằng 2 chân. Tháng 2 năm 1977, tại Indonêxia, một em bé đi lạc trong rừng khi theo mẹ đi hái nấm. Em bé nầy đã sống chung với một đàn sói và mãi đến 6, 7 năm sau người ta mới phát hiện ra em và đem về nhà. Em đã quên hết cả tiếng người, quên cả cách ăn uống và cách đi đứng. Tại Ấn Độ, trong một cuộc hành quân, một bin sĩ Ấn đã bắt gặp một em bé lẫn trong đàn sói. Khi sói phóng mình vào rừng sâu thì em bị bỏ lại bên bờ suối. Bé sói nầy được đem về nuôi cẩn thận nhưng em chết một năm sau đó (1944). Người mẹ ruột của em đã nhận ra con mình nhờ trên mình em bé có một vết sẹo.
Tuy nhiên, đặc biệt nhất là về chuyện em bé sói là 2 chị em cô gái sống chung với đàn sói đã nhiều năm trong rừng ở Ấn Độ, vào năm 1920. Lúc bấy giớ tại Calcuttua có một vị mục sư tên là Singh, ông nầy thuờng đi giảng đạo nhiều nơi và một hôm đi qua khu rừng để đến một làng hẻo lánh ông bỗng trông thấy trên cành 2 con vật kỳ lạ giống như khỉ giã nhân. Khi nhìn kỹ, mục sư thấy rõ ràng đây là 2 người con gái mái tóc xõa dài, móng tay dài, thường nhe răng ra để hăm dọa. Khi mục sư lại gần, 2 cô chạy theo 5 con chó sói đang ở gần đó. Mục sư thấy làm lạ, liền yêu cầu cảnh sát Ấn tìm cách vây bắt 2 cô gái. Khi vòng vây siết chặt, 2 cô gái và cả bầy sói chống lại rất hăng. Cảnh sát phải nổ súng khiến cả 2 cô gái và 5 con sói bỏ chạy những 2 cô gái tuy đã sống quen với đàn sói những vẫn không chạy theo kịp đồng bạn và cuối cùng bị bắt. Mục sư đưa 2 cô gái về nuôi ở một trại cô nhi và đặt tên cho cô gái lớn độ 7, 8 tuổi là Kamala còn cô gái 6 tuổi là Amala. Mặc dầu được nuôi nấyg và chăm sóc tận tình, 2 cô gái sói vẫn không bỏ được tính sói, thường tru lên vào mỗi đêm khuya khiến mọi người ở trại cô nhi rất sợ. Chỉ một năm sau Kamala chết vì cuộc sống không thích hợp, còn Amala thì chết 10 năm sau đó. Suốt trong 10 năm chăm sóc nuôi dạy, Amala đã tập được nhiều tính người như tự mặc áo mặc quần, ăn uống và tập đọc tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có ý muốn như trốn chạy vào rừng...
Khoảng năm 1985, ở Kenya, một nhóm người Anh đi săn bắn gặp một đứa bé khoảng 9 tuổi đang di chuyển bằng 4 chân theo một đàn voi rừng. Một người trong nhóm đi săn tìm cách rình bắt đứa bé khi nó tách ra khỏi đàn voi đến bên suối nước gần đó. Đứa bé có lớp da sần sùi, nâu đen và có nhiều vết sẹo lớn. Các bác sĩ ở Nakuru hết lòng săn sóc và nuôi nấng. Bác sĩ Batshavre Devoie ghi nhận những cử chỉ lạ lùng của đứa bé vì hầu hết các hành động của nó đều rập khuôn đúc với loài voi. Bác sĩ Devoie cho rằng: có lẽ đứa bé nầy đã bị voi bắt theo sống với chúng ít nhất là 2, 3 năm, và báx sĩ cũng đã kết hợp với sự kiện xảy ra trước đó khoảng 3 năm khi có một báo cáo cho biết một đứa bé tên là Miru Gabon con của hai vợ chồng người Kenya bị Hổ tha mất trong khi cha mẹ nó đang đi đàng các loại củ trong rừng. Các dấu vết trên người đứa bé chứng tỏ nó đã bị thương vì móng vuốt của hổ. Nhưng có lẽ một đàn voi rừng đã tấn công khiến cọp phải thả đứa bé và sau đó đứa bé được voi đem về chăm sóc và dẫn dắt theo đàn.
Đối với các nhà khoa học, thì những trường hợp có thật vừa kể trên chỉ là trường hợp tình cờ, ngẫu nhiên nhưng đối với các nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, tái sinh, thì đây không phải là vấn đề ngẫu nhiên. Không phải vì tự nhiên mà trong số hàng triệu trẻ con mới có một trường hợp có trẻ bị thú rừng bắt theo chúng và sống theo đàn với chúng. Phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó mà thuyết luân hồi quả báo gọi là nghiệp. Những trẻ con ấy đã có một liên hệ ràng buộc nào đó trong quá khứ (mà quá khử ở đây phải được hỉeu là tiền kiếp) với loài thú nào đó nên ở kiếp hiện tại còn phải tiếp tục liên lạc qua hình thức sống chung theo đàn... một thời gian nào đó và thời gian ấy chính là giai đoạn mà đứa bé phải trả nghiệp. Thường thì những đứa bé nầy không sống được lâu. Một số sau khi đã sống một thời gian với thú, được đem về sống lại với người chúng cũng khó gột rửa được tính thú và chỉ sống được vài năm rồi cũng qua đời. Như thế những trẻ nầy tuy được sinh ra nhưng rồi cũng không được sống kiếp người như mọi trẻ khác. Có lẽ chúng phải hoàn tất cho xong một kiếpmà kiếp đó chưa thể là kiếp người?
Một câu hỏi khác lại được đặt ra: do đâu mà dân số thế giới ngày nay lại đông lên trong khi thời cổ đại lại không nhiều?
Câu giải đáp của những nhà nghiên cứu về thuyết luân hồi lại nêu thắc mắc ngược lại: "biết đâu ngày xưa, vào thời cổ đại xa xăm, có những vùng đất rộng lớn đông dân cư và những đại tai biến nào đó như trận Đại Hồng thủy chẳng hạn làm tất cả bị tiêu diệt?" Câu trả lời cũng có thể dựa vào thuyết đột biến của Cuvier như đã trình bày từ trước. Rằng qua những cuộc đột biến ấy mà một số rất đông các loài sinh vật, những cổ sinh vật đều bị tiêu diệt. Một số lượng lớn lao các sinh vật xưa cổ ấy chết đi, chúng mất hẳn hay đã đi đâu? khi đứng về mặt luân hồi tái sinh thì phải chăng nhờ sự tiến hóa trong giống sinh tử, tử sinh hay nói cách khác là sự luân hồi chuyển sinh mà chúng có thể tái sinh tiếp tục nhưng xuất hiện ở dạng khác và qua dòng thời gian dài đằng đẵng của nhiều đời sinh vật, sự tiến hóa đã giúp một số lớn thành người?
 
Vấn Đề Chuyển Sinh Giữa Người Và Thú:
 
 Ở đây đây cần lưu ý đến một vấn đề thường gây tranh luận lớn lao đó là vấn đề cho rằng sinh vật nầy có thể chuyển sinh thành sinh vật khác sau khi chết do nghiệp quả. Con người có thể tái sinh thành loài sinh vật thấp kém hay loài thú có thể chuyển sinh thành người.
Theo thuyết luân hồi của Phật giáo thì chính nghiệp lực đã làm phát sinh chuyển hóa biến đổi, như đã nói trên. Đại Đức K. Sri Dhammananda cho rằng: Kiếp sống của mọi sinh vật diễn tiến qua nhiều hình thức một cách liên tục không ngừng nghỉ. Tuy nhiên tất cả chỉ là sự biểu lộ thoe từng giai đoạn tạm thời của nghiệp lực mà thôi. Hiện tại, xác thân không phải phát sinh một cách trực tiếp từ hình thể vật chất có từ quá khứ mà là sự thừa kế của sinh mạng trong quá khứ và nối tiếp cùng nó theo cùng một dòng nghiệp lực.
Về nghiệp lực thì có nghiệp lực được thể hiện dưới hình thức con người hay có khi biểu lộ dưới hình thức con vật. Do đó nếu sinh vật sống mang dạng thể con người nhưng có hành động và ý nghĩ thấp hèn, man dã, ngu si như loài thú, và biểu lộ theo bản năng giống loài thú thì cái nghiệp xấu xa hạ đẳng ấy sẽ dẫn họ thọ sanh chuyển sinh dưới hình thức của loài thú là lẽ tự nhiên. Nhưng sua khi họ chuyển sinh làm kiếp thú thì những gì tốt lành, phước thiên mà họ đã có từ quá khứ hay tồn trữ từ nhiều kiếp trong quá khứ tuy đang tiềm tàng, ẩn náu trong trạng thái bất động nhưng rồi khi gặp điều kiện thuận lợi lại phát lộ ra và theo sự tiến hóa ấy họ lại dần dần thoát khỏi khuôn khổ, kiếp sống của loài vật để rồi ở kiếp kếp tiếp có thể lại chuyển sinh thành người. Trong xã hội, cuộc đời mỗi chúng ta thường gặp khá nhiều con người dáng dấp, cử chỉ, cá tánh... tầm thường xấu xa đê hèn đôi khi còn thua cả loài vật nhưng đôi khi chúng ta cũng gặp một số con vật như chó, mèo, ngựa, khỉ có phong cách chững chạc, thông minh, hiện thực, hiền dịu, trung thành còn hơn cả người...
Nhiều người đã thắc mắc khi bắt gặp lý luận vừa qua vì họ cho rằng loài vật không thể có tư tưởng và lý trí như người được vì thế chúng không thể so sánh với con người, hơn nữa loài vật làm sao có khả năng và ý tưởng làm việc thiện, việc tốt lành. Ở đây vấn đề được đặt ra không nhằm vào kiếp hiện tại của loài vật đó ma chỉ nói đến những gì ở quá khứ, ở nhiều kiếp trước đó của nó nghĩa là những hành động từ kiếp trước nó đã gây ra trong vòng luân hồi nghiệp báo sanh tử mà thời gian ấy có khi rất lâu nhưng chưa có cơ hội phát sinh ra kết quả. Theo đại Đức K. Sri Dhammamda thì "khi con vật sắp lìa đời, điều thiện ở quá khứ xa xăm bất chợt theo "chập tư tưởng" đi vào nó và đó đã tạo duyên khởi thọ sanh tốt lành và hy vọng chuyển sinh làm người".
Xét về mặt sinh vật học thì từ lâu, các nhà khoa học đã quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu về khả năn trí tuệ của loài vật. Trong thập niên 1970 nhiều cuộc tranh cãi xoay quanh vấn đề trí thông minh của thú vật nhất là loài khỉ đã xảy ra vô cùng sôi nổi. Điều nầy đã khiến một số lớn nhà khoa học đi sâu hơn nữa vào lãnh vực tìm hiểu trí thông minh của loài vật và mong có lời giải đáp thỏa đáng sau những quyết định chính xác. Mới đây nhiều nhóm khoa học gia ở Anh, Pháp, Nhật, Đức và Hoa Kỳ đã vô tình đưa ra một nhận xét rằng: có nhiều bằng chứng cho thấy các loài động ật cũng có khả năng trí tuệ cao.
Viện Đại Học Georgia ở Hoa Kỳ đã có một số báo cáo đầy khích lệ về trí thông minh của loài vật. Tại đây, một số nhà khoa học đã nuôi nấy tìm hiểu, qua sát và nghiên cứu về loài vật. Đặc biệt, loài khỉ được lưu ý nhiều. Hai nhà nghiên cứu nổi tiếng thuộc lãnh vực nầy là bà Savage và nhà tâm lý học Rose Sevcik đã theo dõi chú khỉ Kanzi. Đây là chú khỉ được xem là có khả năng trí tuệ cao vì đã học được rất nhan các hình ảnh và các chữ, sau đó thường biểu lộ ý muốn hay "nói chuyện" với người thì chú khỉ Kanzi nầy chỉ việc chỉ tay vào dấu hiệu, hình ảnh hay chữ trên bảng. Điều kỳ lạ là Kanzi cón biết quy luật văn phạm mà nó đã được chỉ dạy nên khi sắp xếp câu nói ít khi bị nhầm lẫn về thứ tự các chữ. Từ kết quả thành công vượt ngoài sự tưởng tượng nầy đã giúp đánh tan mối nghi ngờ từ lâu về khả năng hiểu biết của loài vật. Thật vậy, từ lâu không những các nhà khoa học mà ngay cả những người bình thường cũng đều nghĩ rằng loài vật không có sự thông minh và nếu chúng làm những điều gì theo ý người chỉ là do chúng đã phản ứng trước những mệnh lệnh phát sinh bởi những tín hiểu của người dạy chúng mà thôi.
Mặc dầu vậy, vẫn không thiếu người cho rằng chỉ có loài khỉ, vì sống gần gũi với người nên chúng dễ bắt chước những hành động, cử chỉ, việc làm của người. Các nhà khoa học đã chứng minh ý nghĩ trên không đúng hoàn toàn bằng cách nghiên cứu những loài sinh vật khác không phải là khỉ. Nhà huấn luyện loài động vật nổi tiếng không phải là khỉ. Nhà huấn luyện loài vật nổi tiếng đều có khả Herman đã cho biết rằng phần lớn các loài động vật đều có khả năng tri thức. Ông Herman nghĩ rằng nếu nghiên cứu, huấn luyện loài khỉ thì dễ bị phê bình là cho loài sinh vật có sự tiến hóa cao và gần gũi với người. Vì thế ông chọn một loài sinh vật mà sự tiến hóa của tổ tiên chúng phát sinh từ những động vật có vú trong khoảng thời gian gần 46 triệu năm đó là loài cá heo. Các nhà huấn luyện cá heo thuộc nhóm Herman cho biết cá heo rất thông minh, chúng có thể hoạt động theo các dấu hiệu của các nhà huấn luyện, sự nhận thức của chúng rất nhanh và chúng còn có khả năng giữ lại trong bộ óc những hình ảnh mà chúng đã học được vì thế chúng có thể canh giữ, chờ đợi hay làm một việc gì đúng theo sự "dặn dò" của con người. Điều đáng nói là mỗi khi hoàn thành một việc, cá heo thường tỏ ý vui mừng hớn hở giống như một con người cảm thấy thỏa thích khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Trái lại mỗi khi làm sai, chúng tỏ vẻ âu sầu buồn bã và lắc cái đầu như con người lắc đầu vì chán nản thất vọng vậy. Cho đến nay các nhà sinh vật học và các nhà khoa học phần lớn đều thừa nhận rằng loài vật có khả năng hiểu biết và sự hiểu biết ấy cũng tùy theo cấp độ tiến hóa của các loài vật. Từ lâu con người biết những con vật có khả năng trí óc, người ta không cần căn cứ vào bộ óc to hay nhỏ của chúng mà tùy vào khả năng "nhận thức" với các sự việc. Con chuột tuy nhỏ những không ranh, con voi to lớn và khôn theo kiểu khôn của người nhiều kinh nghiệm chững chạc. Con chó vừa nhớ lâu vừa có khả năng trí óc cao. Con mèo cũng vậy...
Tất cả những điều vừa trình bày ở trên mà chính các nhà khoa học đã thừa nhận, đã giúp cho luận cứ rằng có nghiệp lực được thể hiện dưới hình thức con người hay có khi biểu lộ dưới hình thức con vật và tùy theo sự tiến hóa của hành động và tư tưởng mà sự chuyển sinh sẽ được tốt lành ở kiếp kế tiếp.
 
Vấn Đề Linh Hồn Chuyển Vào Bào Thai
 
Đây là vấn đề mà quả thật cho đến nay các nhà khoa học nhất là giới y khoa chưa có được những chứng cớ rõ ràng trong thực tế. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi, tái sinh có những nhận định theo luận cứ của họ:
Linh hồn đã nhập vào thể xác mới, theo nhiều trường hợp. Có khi bào thai vừa thành hình trong bụng linh hồn đã nhập vào đầu thai. Đôi khi đứa bé vừa lọt lòng mẹ linh hồn mới nhập vào.
Khi vừa thụ thai nghĩa là lúc tinh trùng của người cha kết hợp với noãn châu của người mẹ để thành trứng thụ tinh thì lúc ấy linh hồn chưa có thể xâm nhập vào để đầu thai. Nguyên nhân đầu tiên là lúc bấy giờ bộ não và hệ thần kinh chưa được tạo lập, nếu vào giai đoạn trứng thụ tinh thì trừng ấy chỉ tuân theo hiện tượng sinh lý học để tiếp tục đi vào giai đoạn chuyển hóa của phôi (Embryon) để rồi thành bào thai có dạng ban đầu của thai nhi chưa rõ rệt.
Ở đây cầu lưu ý rằng, không hiểu người xưa đã quan tâm ra sao về luận cứ nầy, hay chỉ là một sự trùng hợp khi họ cho rằng lúc người mẹ có thai, nên có những tư tưởng những hình ảnh đẹp đẽ tốt lành trong tâm trí để có được đứa bé xinh đẹp thông minh nhân hậu khi sanh ra. Phải chăng đây là chủ ý muốn dùng tư tưởng, cảm nghĩ tốt lành để lôi cuốn linh hồn tươi sáng nhập vào bào thai? Trường hợp khi hai nhi vừa lọt lòng mẹ thì linh hồn mới nhập vào thường rất hiếm và lý do có thể là đứa bé sinh thiếu tháng, sinh non. Nếu đúng thật với thời gian ấy trùng lắp với sự hội nhập của linh hồn vào để đầu thai, nhưng vì vào giai đoạn ấy thai nhi đã chào đời nên xem như linh hồn nhập vào lúc đứa bé sinh ra. Bác sĩ Bandyo là nhà giải phẫu nổi danh ở Ấn Độ đã có lần đưa ra nhận xét như sau về vấn đề linh hồn đầu thai: "Khi đứa bé qua đời vì một lẽ gì đó, linh hồn chúng không chịu đi xa mà thường lẩn quẩn bên cạnh người mẹ để chờ điều kiện thuận tiện đầu thai lai khi người mẹ có thai lần nữa."
Vấn đề tái sinh luân hồi làm phát sinh nhiều thắc mắc và nghi vấn. Sau đây là một số giải thích đại cương từ các nhà nghiên cứu về hiện tượng chuyển sinh:
Một số giải thích về hiện tượng chuyển sinh:
- Trường hợp có những sự tái sinh kiếp người xa cách nhau đến cả trăm năm là do sự chuyển sinh qua nhiều kiếp thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như có thể chuyển sinh làm loài sinh vật thấp kém hoặc có khi chuyển vao cõi giới phi nhân loại. Các nhà thôi miên khi tìm hiểu về tiền kiếp của những người nào đó, đôi khi họ bắt gặp một giai đoạn rất xa mới thấy người nầy chuyển sinh trở lại. Ngoài ra từ lâu, các nhà nghiên cứu về luân hồi nhận thấy rằng có những trường hợp các tử tội đôi khi trước khi chết còn ước nguyện sẽ trở lại phục thù hay mong gặp lại người thân. Cũng có khi những người nầy còn quy định cả thời gian như trường hợp tện sát nhân Giles Derais trước khi bị lửu ở giàn hỏa thiêu đốt cháy cơ thể hắn bỗng nói lên lời nguyền là sẽ trở lại 500 năm sau. Vậy phải chăng hắn phải bị một thời gian 500 năm không được đầu thai thành người?
Những đứa trẻ nhớ được quá khứ xa xăm của mình thường cho biết "thuở xa xưa ấy" chúng đã qua đời trong khoảng tuổi 30 và 40.
Khi chết thường "ấm ức" bất ngờ (do tai nạn) hay bị sát hại (chết oan) thì sự nhớ lại tiền kiếp dễ phát sinh một cách bất ngờ.
Sau khi qua đời, các nhân vật nầy lại chuyển qua giai đoạn sống tiếp theo từ một cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác nhưng đôi khi nhớ lại quá khứ mình. Ở đây, dù muốn dù không, các nhà nghiên cứu cũng buộc lòng phải "lật lại hồ sơ tôn giáo" theo đó họ phải nghiền ngẫm nghiên cứu kỹ dưới mắt của nhà khoa học và các thuyết của Ấn Độ giáo hay đạo Bà la môn (Brahmminism) và nhất là Phật giáo. Sự tương ứng được đưa ra theo cách gọi như sau: sau khi qua đời, người chết lại trải qua giai đoạn sống tiếp theo từ một cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác. Ở đây theo lý thuyết về vấn đề luân hồi nhân quả thì sau khi qua đời, người chết để lại "đằng sau" mình cái được gọi là "tiền kiếp" và chuyển qua cơ thể khác để bắt đầu một cuộc đời khác tức là đi vào "hậu kiếp". Hậu kiếp nầy không phải là chấm dứt mà sẽ còn tiếp diễn mãi, (chữ hậu chỉ là làm rõ nghĩa cho chữ tiền kiếp mà thôi).
Thường thì sự chuyển đổi "cuộc đời" từ kiếp nầy đến kiếp khác bắt đầu sau vài năm.
Nguyên nhân làm nhớ lại "quá khứ xa xăm" hay "tiền kếp" là do nỗi lo sợ qua hình ảnh một lời nói nào đó bất chợt khơi dậy từ ký ức. Trong một hồ sơ lưu trữ ở viện nghiên cứu về tiền kiếp ở Virginia (Hoa Kỳ) có ghi lại trường hợp một em bé gái sống ở Mã Lai, mỗi lần thấy cái thau nước đầy là tái xanh mặt và khóc thé lên. Nhiều lần như thế khiến cha mẹ bé phải dùng roi để trừng phạt em và hỏi nguyên nhân. Năm em 6 tuổi, em mới cho biết: "ngày trước (tiền kếp) con là một người đàn bà làm việc ở một cửu hàng ăn và bị vợ ông chủ ghen giết bằng cách dìm đầu con vào một thùng nước đầy cho ngạt thở."
Về giới tính thì cho đến nay có thuyết cho rằng giới tính ít thay đổi khi chuyển sinh từ kiếp nầy sang kiếp khác. Tuy nhiên qua các sưu tầm nghiên cứu tìm hiểu của tiến sĩ Ian Stevenson thì đôi khi có sự thay đổi phái tính khi tái sinh.
Về vấn đề liên hệ họ hàng thân thuộc dòng giống sắc tộc tôn giáo, chính kiến v..v... không ảnh hưởng. Có người kiếp trước là dân Á Châu, kiếp sau lại là người Âu Châu, hay Phi Châu. Có người kiếp trước theo Ky Tô giáo kiếp sau lại theo Phật giáo. (Điều nầy thấy rõ ràng khi xét đến trường hợp những vị có chức sắc lớn trong tôn giáo nào đó, đôi khi lại chuyển đổi niềm tin để theo một tôn giáo khác ngay trong cuộc đời của họ. Để giải thích sự kiện nầy, các nhà nghiên cứu luân hồi, tái sinh cho rằng nguyên nhân là những niềm tin hình ảnh và lý thuyết tôn giáo mà người ấy đã theo từ tiền kiếp đã được khơi dậy ở kiếp hiện tại qua lời rao giảng hay nghiên cứu các kinh sách liên quan.
Khi ngành sinh vật học ngày càng tiến bộ, các nhà khoa đã cho rằng cha mẹ con cái có những di truyền về huyết thống, về tái sinh về bệnh lý, cá tính, dạng thể... do các gen là chính. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn thấy không phải hoàn toàn đúng theo chiều hướng của lời giải thích thuần về di truyền học như vậy. Trái lại, vẫn có những gia đình mà sự khác biệt giữa cha mẹ, con cái, anh em rất xa nhau. Đôi khi cha mẹ rất thông minh tài giỏi nhưng con cái lại rất đần độn. Đôi khi cha mẹ rất độc ác nhưng con cái lại hiền đức... đối với các anh chị em trong gia đình cũng vậy, nhiều khi khác biệt nhau về đủ mọi lãnh vực, ngay cả trong trường hợp cặp sinh đôi Chang Buhner và Eng dính liền nhau ở hông khi sinh ra nhưng khi lớn lên lại rất xung khắc về tính tình tài năng và thể chất. Điều đặc biệt kỳ lạ hơn nữa là có những cặp sinh đôi lại không giống nhau về gương mặt và nhất là màu da như một số lớn trường hợp đã xảy ra tại Đan Mạch (Denmark), Đức, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại (Canada)... Năm 1978 ở Tây Đức (West Germany) và năm 1939 ở North Carolina có những cặp sinh đôi một da đen một da trắng. Đặc biệt những cháu nầy lại rất thương yêu nhau. Cũng về di truyền, huyết thống, đôi khi có trường hợp một người con không giống cha hay mẹ lại rất ông nội. Đại Đức K. Sri Dhammanada đã cho rằng có những nghiệp phát sinh trong quá khứ tưởng đã mất hẳn dù ở trạng thấi bất động nhưng chờ cơ hội để bộc lộ rõ nét ra. Do đó ngay cả bệnh lý, cũng theo Đại Đức thì chính nhà văn Pháp Poussin cũng đã giải thích sự kiện tương tự theo định luật di truyền khi nhiều căn bệnh ấp ủ qua nhiều thế hệ bỗng nhiên bộc phát một cách bất ngờ.
Về vấn đề thiện ác, nhiều kẻ chọc trời khuấy nước, giết người không gớm tay nhưng sau đó lại đi tu. Có kẻ sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, đạo đức hay đã trải qua một quãng đời trong tu viện nhưng sau đó lại trở thành kẻ sát nhân tàn bạo. Như thế trong mỗi người có tàng trữ cái tốt và cái xấu và những cái tốt xấu ấy chắc chắn phải có từ trược. Nhìn một đứa bé mới chập chững biết đi nhưng nó lại có cử chỉ sành sỏi trong hành động dùng chân dẫm nát con ruồi, con gián bị gẫy cánh khập khễnh bò dưới đất thì người ta mới tự hỏi rằng do đâu mà ác tính đã len vào trong đứa trẻ thơ ngây ấy? Có phải cái tàn ác ấy đã phát khởi từ tiền kiếp của nó rồi và giờ đây được thể hiện khi có điều kiện. Ở đứa trẻ chúng ta còn thấy sự phát khởi tự nhiên về tánh tham lam vị kỷ, sâm si ganh tỵ... không ai dạy mà đứa trẻ nhỏ đã nuốt vú mẹ sau khi sanh ra và nếu không cho bú nó sẽ khóc thét lên.
Một vấn đề có liên quan đến thiện ác làm thắc mắc nhiều người là tại sao mọi người đều giống nhau nhưng lại có kẻ hiền lương người gian ác. Điều trái ngược hơn nữa là kẻ ác đôi khi lại được ưu đãi và sống thọ còn kẻ hiền lương lại bị đọa đày có khi chết sớm?
Về lãnh vực giàu nghèo sang hèn cũng vậy, đôi khi kẻ ác lại được giàu sang còn người hiền lương thì mãi chịu cảnh bần hàn. Tại sao có sự bất công vô lý ấy? Các thắc mắc thật sự còn nhiều nhưng tất cả các thắc mắc ấy, ngay cả những bất công vô lý mà loài người đều đã thấy rõ và xuất hiện trên cõi đời, tất cả đều có nguyên nhân và nếu biết rằng sự sung sướng hay đau khổ, sự giàu sang hay nghèo khó, sự thông minh hay ngu muội, sự tàn ác hay hiền lương... thể hiện trong đời mỗi người đều do nghiệp báo thì con người chẳng còn gì phải thắc mắc lo âu. Nếu biết vấn đề đau khổ hay hạnh phúc đều do ta tạo lấy từ kiếp trước thì vấn đề vẫn chưa quá muộn khi ta còn sống, hay tự mình tự mình tạo lấy nhân lành thì có thể ta sẽ nhận được quả tốt tức thì trong đời nầy hay chậm hơn là ở đời sau. Đó là luật tự nhiên của nhân quả vậy.
Điều đáng quan tâm hơn nữa về vấn đề của những cặp sinh đôi là từ lâu các nhà y học đã lưu ý về các trường hợp nầy vì họ càng ngày càng thấy các điều thật lạ lùng khó giải thích.
Các nhà tâm sinh lý học đã nghiên cứu hàng ngàn vụ sinh đôi và rút ra những trường hợp rất đặc biệt.
Vấn đề những cặp sinh đôi sống cách ly nhau:
Thoe tài liệu của Times Life Book (1991), thì có đến 62 trường hợp sinh đôi trên thế giới. Nhưng có những hoàn cảnh khác nhau. Có khi mỗi người sống một nơi. Đôi khi hai anh em hay hai chị em sinh đôi ở cách xa đến nửa vòng quả đất. Báo Der Spiegel của Đức đã cho biết hiện nay, giáo sư bác sĩ Thomas Bouchard là người nghiên cứu kỹ nhất về những trường hợp cặp sinh đôi sống ly thân và theo dõi quá trình phát triển về công danh địa vị, tài năng nghề nghiệp cùng tương lai của họ. Vấn đề gây kinh ngạc mọi người khi bác sĩ Thomas đưa ra trong một họi nghị về những cặp sinh đôi cho biết là tuy những cặp sinh đôi nầy sống xa cách nhau có khi từ nhỏ họ đã bị tách rời mỗi người một phương trời nên không nhớ mặt nhau hay không liên lạc với nhau. Ấy vậy mà thường thì những người nầy lại thường gặp nhau ở một nơi nào đó một cách tình cờ không hẹn mà đến. Ngoài ra nhưng cặp sinh đôi tuy sống cách biệt nhau nhưng lại có cử chỉ, sở thích, tài năng và bệnh lý giống nhau. Bác sĩ Thomas Bouchard nêu trường hợp của cặp sinh đôi Gim Levis và Gim Spring. Cặp sinh đôi nầy xa lìa nhau từ lúc mới chào đời. Thời gian xa cách nhau gần 40 năm trời. Trong suốt thời gian đó, họ không biết nhau vì không liện lạc nhưng cả hai người đều có những điểm rất giống nhau như người nào cũng có hai vợ mà điểm kỳ lạ nổi bật là hai người vợ trước của họ đều có cùng tên là Linda và hai người vợ sau của họ của họ cùng có tên là Bety. Hai người cùng sinh hạ con trai đầu lòng. Tên đứa con trai của Gim Levis là Alan còn của Gim Spring là Ailen (có sự tương tự) và điều lạ sau cùng hai gia đình đều nuôi chó mà tên con chó cũng giống nhau (cùng tên Toy). Về nghề nghiệp, cả hai rất khéo tay và làm thợ thủ công, rồi năm 30 tuổi, cả hai đều là công nhân tại một cơ sở bán xăng và sau cùng làm phụ tá cho cảnh sát trưởng ở quận hạt mình ở. Về sở thích: thích tắm biển, bơi lội và đặc biệt cả hai đều có tật gặm móng tay.
Mỗi năm cả hai đều đến vùng biển Saint, Petersburg để tắm vào mùa hè, trong mấy năm như thế nhưng không ai biết ai. Bốn năm sau, trong một cuộc hội ngộ bất ngờ, họ gặp nhau và cảm thấy tâm đầu ý hiệp về mọi mặt. Họ trở thành bạn thân và sau cùng mới phát giác ra rằng họ là hai anh em sinh đôi đã xa cách nhau trong gần nữa đời người. Về sau, Gim Levis phát biểu như sau: "Ngày đầu tiên gặp gỡ Spring tôi có cảm giác ngờ ngợ một cách lạ lùng và tôi có cảm tưởng như đã gặp nhau từ thuở nào đó rồi..."
Bác sĩ Thomas Bouchard còn nêu lên trường hợp một cặp sinh đôi khác ở Trinida. Cặp sinh đôi Oskar Stoehr và Jack Yute sinh năm 1933. Từ lúc mới chào đời, cặp sinh đôi nầy đã xa cách nhau rồi. Oskar Stoehr theo mẹ còn Jak Yute thì theo cha. Họ ở xa nhau, người ở Do Thái, người ở Đức. Sau 46 năm cách biệt, tình cờ họ gặp lại nhau tại Mineapoli. Khi biết được nhau, cả hai không khỏi kinh ngạc khi thấy họ cùng mặc một bộ đồ giống nhau: áo sơ mi trắng sọc xanh, đeo kính mát, để râu giống nhau và thường hắt xì là tật cố hữu của cả hai vì cả hai đều bị dị ứng. Tại hội nghi khoa học tổ chức tại Tân Orléan, bác sĩ Thomas Bouchard đã cho biết là ông đã tìm thấy những nét đặc trưng như vậy ở 105 cặp sinh đôi đượv theo dõi cẩn thận từ lúc họ ra đời cho đến khi họ khôn lớn. Theo bác sĩ Thomas thì ngoài đặc điểm về cấu tạo gen còn có những nguyên nhân sâu xa nào đó ảnh hưởng lên các hiện tượng kỳ lạ đó.
 
Vấn Đề Sự Trùng Hợp Lạ Lùng Giữa Những Người Không Cùng Huyết Thống.
 
Theo các nhà nghiên cứu về hiện tượng tái sinh thì vấn đề vừa nêu trên trở nên phức tạp khi lý theo lãnh vực luân hồi vì không riêng gì trường hợp những anh chị em sinh đôi mà trên thế giới, những con người hoàn toàn xa lạ, đôi khi vẫn có một số điểm trùng hợp lạ lùng kỳ dị mà cho đến nay chưa có ai có thể giải thích được. Sau đây là một số trường hợp có thật đã xảy ra trên thế giới, những trường hợp mà cho đến nay các nhà phân tập học, xã hội học, di truyền học, nhân chủng học, đều chưa có một giải thích thỏa đáng cho vấn đề.
Như trường hợp hai con người xa lạ John Adams sinh năm 1743 và mất năm 1826 là vị tổng thống thứ hai của vị chủng quốc Hoa Kỳ. Còn Thomas Jefferson sinh năm 1743 và mất năm 1826 là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ. Hai người nầy không phải là anh em nhưng lại coi nhau còn hơn là ruột thịt. Hai người qua đời cùng một ngày và cùng một năm, đó là ngày mùng 4 tháng 7 năm 1826.
Chuyện hoàng đế Umberto đệ nhất và người chủ quán.
Câu chuyện kỳ dị đầy vẻ huyền bí khác cũng đã một thời làm xôn xao dân chúng Ý Đại Lợi. Nguyên tại thành phố Monza ở Ý có một người chủ quán tên là Umberto người nầy có gương mặt giống hoàng đế nước Ý lúc bấy giờ và đặc biệt vị hoàng đế nầy cũng có tên là Umberto (Umberto đệ nhất). Một hôm, phái đoàn hoàng đế đến vùng nầy thì trời tối, nhà vua tình cờ chọn quán của Umberto để dùng bữa. Những người trong phái đoàn khi thấy chủ quán đều vô cùng ngạc nhiên vì gương mặt nhà vua và chủ quán giống nhau như tạc. Hoàng đế Umberto khi nghe chủ quán xưng tên thì lại càng kinh ngạc nên cho hỏi về gia thế, cuộc đời thì được biết người chủ quán nầy có ngày sinh tháng đẻ và cả năm sinh đều cùng giống hoàng đế, đó là ngày 14 tháng 3 năm 1844. Mọi người còn bàng hoàng hơn nữa khi người chủ quán cho biết là anh ta có vợ có tên là Margherita, một cái tên hoàn toàn giống hệt tên của hoàng hậu Margherita và lại cùng tổ chức lễ cưới vào cùng một ngày giống nhau là ngày 22 tháng 4 năm 1966. Từ ngạc nhiên nầy lại kéo theo ngạc nhiên khác khi người chủ quán cho biết là ông ta có người con trai đầu lòng tên là Vittoria hoàn toàn phù hợp với con trai của nhà vua cũng tên là Vittoria. Hoàng đế Umberto thấy chuyện quá lạ lùng bèn hỏi thêm các chi tiết khác nữa thì được biết những sự trùng hợp lạ lùng chưa từng thấy nữa, đó là:
Khi người chủ quán Umberto tổ chức lễ khánh thành quán mình thì lúc đó Umberto lên ngôi vua và tổ chức lễ đăng quang. Hai buổi lễ tuy khác nhau nhưng cùng tổ chức vào đúng ngày giờ tháng năm.
Năm 1866, cả hai đều được gắn huy chương. Thời gian nầy chủ quán Umberto phục vụ trong quân đội còn vua Umberto cũng phục vụ trong quân đội với cấp bậc đại tá.
Năm 1870 cả hai người đêu được thăng chức. Chủ quán Umberto lên chức trung sĩ còn vua Umberto lúc đó lên chức tổng tư lệnh quân đội.
Sau khi biết rõ được những sự trùng hợp lạ lùng giữa người chủ quán và mình, đêm đó nhà vua suy nghĩ rất nhiều và tự hỏi lòng rằng là tại sao mình và người chủ quán đều có chung những điểm tương đồng như mỗi người lại quá cách biệt nhau về địa vị? Phải chăng mình là kẻ may mắn nhất trần gian còn người chủ quán kia là người bị thua thiệt? Phải chăng mỗi người có một định mệnh khác nhau, ai đã cân nhắc lẽ thưởng phạt? và phải chăng đã có sự bất công hay nhầm lẫn nào đó? Sáng hôm sau, hoàng đế Umberto ra quyết định để triều đình lo thủ tục đặc trách phong chức hiệp sĩ hoàng gia nước Ý cho người chủ quán Umberto.
Thế rồi ngày hôm sau, khi chủ quán Umberto lên đường đến hoàng cung yết kiến hoàng đế thì vừa đặt chân xuống xe ngựa, ông ta bị một kẻ sát nhân nhảy đến bắn ba phát đạn vào ngực khiến ông chết tức khắc. Hung tin được trình lên nhà vua, hoàng đế Umberto kinh hãi vội vã lên đường đến nơi đặt thi thể người chủ quán để thăm viếng con người kỳ lạ. Nhưng khi nhà vua vừa bước xuống xe song mã thì lại một tên sát nhân điên loạn không biết từ đâu xuất hiện bắn vào ngực nhà vua ba phát đạn. Sự việc diễn tiến nhanh không thể tưởng tượng đến nỗi không ai phản ứng kịp thời nên nhà vua đã ngã nhào xuống đất chết ngay. Câu chuyện có thật về hoàng đến Umberto và chủ quán lạ lùng đã làm cả nước Ý xôn một dạo.
Các nhà sưu tập chuyện lạ có thật trên thế giới còn cho biết thêm về những hiện tượng lạ lùng mà cho đến nay những nhà nghiên cứu về hiện tượng tâm linh siêu hình vẫn chưa tìm được lời giải thích.
B. Những chuyện trùng hợp lạ lùng
Chuyện thứ nhất xảy ra ngay tại tiểu bang California (Hoa Kỳ) Donald Chapman ra đời ngày 5 tháng 9 năm 1976 thì cũng vào ngày tháng và năm đó một người tên là Donald Brazil cũng ra đời.
Vào ngày 5 tháng 9 năm 1976 hai người nầy tuy ở hai nơi khác nhau nhưng lại tổ chức lễ sinh nhật cùng vào buổi tối và sau đó 5 hôm họ lái xe chơi xa, Donald Brazil dùng xe hơi khởi hành từ Femdale còn Donald Chapman cũng dùng xe hơi và khởi hành từ Eurecka. Hai xe đi ngược chiều nhau và đã đụng vào nhau. Cả hai đều tử nạn cùng ngày, cùng tháng và cùng năm.
Chuyện thứ hai cũng xảy ra tại tiểu bang California (Hoa Kỳ). Hai người có tên khác nhau là Fred Schokley và Baraette Woodruff sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm và cùng giờ (6 giờ sáng ngày 19 tháng 7 năm 1944). Cả hai lại là cùng bạn học sau đó và họ rất thân nhau. Lạ nhất là trong đời họ cùng vinh cùng nhục, cùng thành, cùng bại giống nhau. Còn sức khỏe, bệnh tật tuy hai mà lại giống nhau như một, người nầy đau thì người kia cũng đau (bệnh). Thế rồi, ngày 23 tháng 3 năm 1964 cả hai đều vào đại học Oakland, điều kỳ lạ là cả hai đi trễ giờ và mặc dầu hai người đi hai chiếc xe hơi khác nhau nhưng bỗng nhiên họ cùng tông vào một chiếc xe vận tải lớn và đều qua đời đúng ngày giờ, tháng, năm đó.
Ngoài ra, lịch sử Hoa Kỳ còn ghi lại vô cùng chi tiết trường hợp đặc biệt về tiểu sử của hai vị tổng thống Abraham Linciln và John Kennedy về những sự trùng hợp kỳ dị giữa hai nhân vật nổi danh sống cách nhau một trăm năm tại Hoa Kỳ và qua sự trùng hợp đó, những nhà nghiên cứu, về hiện tượng huyền bí đã cho rằng: Phải chăng tổng thống Kennedy là hậu thân của chính tổng thống Abraham Lincoln?
Qua các tài liệu xác thực thu thập được về hai vị tổng thống, người ta đã liệt kê ra các điểm trùng hợp nhau một cách chính xác về hai con người ấy như sau:
1) Về mặt hôn nhân, con cái:
Tổng thống Lincoln và Kennedy đều cưới vợ vào năm 30 tuổi và hai bà vợ ấy đều nói tiếng Pháp. Điều kỳ lạ là hai bà lúc đó vừa đúng 24 tuổi và cả hai đều có màu tóc nâu. Trong đời, ông bà Lincoln và ông bà Kennedy đều có một đứa con chết lúc họ sống ở tòa Bạch Ốc.
2) Về mặt người thân thuộc:
Tổng thống Lincoln có một người anh em làm thị trưởng (thành phố Boston), một người khác làm thượng nghị sĩ, một người nữa là tổng trưởng tư pháp (Levi Lincoln tốt nghiệp đại học Harvard), và một người nữa là (Robert Lincoln) làm đại sứ Mỹ tại Anh.
Tổng thống Kennedy có một người thân làm thượng nghị sĩ (Teddy Kennedy), một người làm tổng trưởng tư pháp (Robert Kennedy, cũng tốt nghiệp đại học Harvard). Phụ thân của T.T. Kennedy đã từng làm đại sứ tại Anh. Riêng chức vụ thị trưởng thì trong dòng họ Kennedy cũng đã có người làm thị trưởng tại thành phố Boston, đó là ông nội của T.T Kennedy.
Tổng thống Lincoln có một người thư ký riêng tên là Kennedy còn T.T Kennedy lại có một người thư ký tên là Lincoln.
3) Về mặt công danh sự nghiệp:
Tổng thống Lincoln được đắc cử vào quốc hội năm 1847 và tổng thống Kennedy đắc cử vào quốc hội năm 1947. Như vậy có sự trùng hợp về con số 47, khi xét về khoảng cách thời gian mà hai tổng thống đã sống là đúng 100 năm. Và sau đó cả hai cùng tranh chức phó tổng thống.
Tổng thống Lincoln lên làm tổng thống Hoa Kỳ năm 1860. Tổng thống Kennedy làm tổng thống năm 1960. Sự trùng hợp thấy rõ ở con số 60. (Cả hai T.T sống cách đúng 100 năm).
4) Về mặt chánh sách:
Cả hai vị tổng thống Lincoln và Kennedy đều chú trọng đến vấn đề quyền công dân và vấn đề chủng tộc nhất là vấn đề người da đen.
5) Về tuổi thọ và sự kiện xảy ra qua hai cuộc ám sát:
Cả hai vị tổng thống đều bị ám sát và chết vào cùng ngày thứ sáu.
Cả hai vị T.T. đều bị bắn vào phía sau đầu.
Lúc bị bắn, cả hai vị tổng thống đều có vợ bên cạnh.
Hung thủ ám sát tổng thống Lincoln sinh năm 1839 còn hung thủ ám sát tổng thống Kennedy sinh năm 1939 (trùng hợp năm 39).
Cả hai hung thủ đứng bắn và chạy đến trú ẩn là nhà kho và rạp hát. Có điều lạ là hung thủ bắn tổng thống Lincoln thì núp sau cánh gà rạp hát và khi bắn xong thì lại bỏ chạy vào nhà kho để trốn, còn hung thủ bắn tổng thống Kennedy thì núp trong nhà kho để bắn rồi sau đó chạy vào nhà hát để trốn.
6) Về lãnh vực người kế vị.
Phó tổng thống lên kế vị T.T Lincoln là Andrew Johnson, còn phó T.T kế vị T.T Kennedy là Lyndon Johnson. Cả hai vị phó tổng thống nầy tuy sống cách nhau đến 100 năm nhưng đều cùng tên là Johnson và cả hai trước đó giữ chức thượng nghị sĩ và cùng quê hương miền nam nước Mỹ.
Hai phó tổng thống có sự trùng hợp 1808 của năm sinh cách nhau 100 năm chẵn. Andrew Johnson sinh năm 1808 còn Lyndon Johnson sinh năm 1908. Nếu đếm họ tên của hai người nầy sẽ có một sự trùng hợp khác nữa: đều gồm 13 chữ cái.
Những nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi đã cố gắng đưa ra một số giải thích nào đó về những hiện tượng lạ kỳ nầy như sau: Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đôi khi thấy có những người tuy không phải là bà con họ hàng hoặc anh chị em ruột thịt nhưng họ thương yêu nhau rất mực. Họ sống với nhau như bóng với hình. Người nầy gặp bệnh tật hoạn nạn thì người kia lo lắng không yên., Luôn luôn như có một sợi dây vô hình nào đó ràng buộc họ lại với nhau. Có người giữ mãi tình khắng khít ấy cho đến mãn đời. Những con người ấy khi chết đi, linh hồn họ vẫn nhớ mãi những tình cảm cũ của người xưa và khi đầu thai lại, tùy theo nghiệp quả thuận lợi hay không cho ý muốn được thể hiện của họ mà họ sẽ gặp được hình ảnh của thân xác mới dưới hình thức hai người xa lạ gặp nhau và giống nhau về cá tính, sở thích. Đôi khi còn giống nhau về gương mặt và cử chỉ hoặc do sự "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" mà họ cùng được tái sanh một lần được thuận tiện gặp gỡ nhau. Do đó có trường hợp có những người cùng ra đời vào những năm, tháng, ngày, giờ giống nhau và đôi khi đã hoàn tất được ý nguyện hay đã xong nghiệp quả họ lại phải xa nhau cùng đúng vào ngày giờ tháng năm nào đó.
Có những người ở kiếp trước thương yêu nhau nhưng đôi khi lại xung khắc về cá tính. Xa thì nhớ, gần thì lại hay cãi nhau. Có khi vì quá thương nhau mà trở nên quá ghen. Đôi khi họ là hai anh em hay hai chị em hoặc là cặp bạn trai hay cặp bạn gái. Đôi khi họ là cặp tình nhân nhưng vì quá ghen hờn, nghi kỵ nhau mà sinh ra xung khắc. Cũng có khi họ là hai người thân thiết, nửa bước khó rời nhưng họ đã hợp đồng với nhau để làm khổ người khác... Đến kiếp sau, cái nhân duyên và nghiệp quả về những gì xảy ra giữa hai con người ấy với nhau và với kẻ khác lại được thể hiện qua sự kiện họ là hai kẻ sinh đôi trong cùng một gia đình để có thể cùng nhận một nghiệp quả lớn lao nào đó. Tuy nhiên, tùy theo ước nguyện của linh hồn khi đầu thai được cơ hội thuận tiện hay không mà sẽ có những trường hợp khác xảy ra:
Hoặc hai trẻ sinh đôi mới lọt lòng mẹ thì đã bị chia lìa vì lý do nào đó. Họ phải chịu một thời gian xa cách nhau đã rồi sau mới hội ngộ. Có thể đó là một hình thức trừng phạt phát sinh do nghiệp quả nào đó ở tiền kiếp họ đã gây ra. Nhưng cuối cùng họ lại gặp gỡ nhau nhờ lý do nào đó, mà từ đó họ gần gũi và yêu mến nhau hơn hay đôi khi (thường hiếm) lại xung khắc, bất hợp nhau...
Hoặc hai trẻ sinh đôi sống với nhau hòa thuận, vui vẻ là do nghiệp lực từ tiền kiếp của họ không có gì sai trái xấu xa nên ước nguyện đầu thai lại đó được thể hiện thuận lợi.
Hoặc cặp sinh đôi sống mãi mãi bên nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về sở thích, tánh tình, cử chỉ. Đôi khi họ ghét nhau và thường gây gổ nhau. Trường hợp hai anh em sinh đôi người Thái Lan thường gọi là cặp anh em Xiêm (Siam) dính nhau suốt đời (dính ở hông). Hai người nầy sinh năm 1811. Một người tên là Chang và một người tên là Eng.
Mặc dầu dạng thể và khuôn mặt giống nhau như khuôn đúc và sống mãi bên nhau, nhưng hai người rất xung khắc nhau. Một người ít nói, thâm trầm, còn người kia lại nóng tính và nghiêm khắc, khó khăn. Đối với người mẹ đã sinh ra cặp sinh đôi thì rõ ràng đã có sự liên quan nhân quả nào đó giữa người mẹ và hai đứa con ấy. Sự liên quan không những đối với người mẹ mà còn đối với người con nữa. Bác sĩ R. Halley có lần kể chuyện một bé trai sinh đôi ở nước Anh tên là Cook, một hôm tự nhiên nói với mẹ một câu thật lạ lùng "mẹ biết không, trước đây mẹ sống cô đơn thui thủi một mình, không chồng con, bè bạn suốt cả đời. Bây giờ mẹ sinh đôi là để bù trừ cho những thời gian đau buồn ấy..." Chữ trước đây có nghĩa là tiền kiếp vì nếu dùng cho đời hiện tại của mẹ bé trai ấy thì bà ta hoàn toàn không có gì đáng gọi là cô độc cả. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự sinh đôi và sự liên hệ giữa cha mẹ con cái cặp sinh đôi còn rất nhiều, nếu xét về mặt luân hồi nghiệp quả.
Riêng sự trường hợp đặc biệt về hai vị tổng thống Hoa Kỳ A.Lincoln và Kennedy thì câu trả lời vẫn còn ở sự suy đoán rằng đó là một trong những hình ảnh của sự đầu thai hay là một sự hóa thân của chính tổng thống Lincoln. Điều mà cách đây mấy ngàn năm, trong bộ sách tử thư của Tây Tạng và Ai Cập thường nhắc đến: "Có những người, khi chết họ cảm thấy chưa làm đủ bổn phận nơi cõi chết mà họ quyết tâm đầu thai lại, thường những vị đó thường được gọi là Bồ tát. Phải chăng tổng thống Abraham Lincoln đã cả đời mình đấu tranh cho công bằng bác ái vị tha, chống kỳ thị da màu, chủng tộc, cảm thấy mình chưa hoàn tất ý nguyện nên quyết tâm trở lại cõi trần lần nữa qua hậu thân của tổng thống Kennedy và chu kỳ kiếp sống đã được diễn lại như đang chiếu một cuốn phim của tiền thân T.T Lincoln vậy...
Qua những lý luận và giải thích trên, chưa hẳn đã là những giải thích hợp lý và rõ ràng. Tuy nhiên, dù sao, một số giải thích ấy cũng nói lên được một phần nào những mối tương quan nhân quả giữa các hiện tượng với nhau. Nếu ngày nay ta thấy xuất hiện trên quả đất nầy những hình ảnh, sự kiện, thì chắc chắn những gì mà ta thấy đó đều phải có nguyên nhân. Nhưng trở ngại ở điểm là đôi khi nguyên nhân ấy không thể nhận rõ bằng các giác quan bình thường của loài người và cũng không thể chứng minh bằng khoa học nên sự giải thích cũng từ đó mà bị hạn chế, trở ngại.