Phần V - Chương 1
Trần Khát Chân

Trại Mai nằm ở phía Nam kinh đô Thăng Long, nơi có những con đường lớn đi về các phủ, trấn, lộ phía nam như phủ Thiên Trường, lộ Thanh Hoa, lộ Diễn Châu v.v...
Trại Mai ở giữa cánh đồng rộng, có một con đường nhỏ dẫn vào. Mùa xuân, mới bắt đầu đến quãng đường rẽ, ta đã trông thấy một rừng mai trắng ngát, phớt mầu xanh, mầu của những cây mai trổ hoa và mầu của những mầm lá non.
Trại Mai là thái ấp của thượng tướng quân Trần Khát Chân (ngày nay dân Thăng Long còn nhận ra dấu vết của vùng thái ấp qua các địa danh làng Hoàng Mai, Tương Mai, Mai Động, chợ Mơ, phố Bạch Mai v.v..) Khi Trần Khát Chân giết được Chế Bồng Nga, cứu nguy cho xã tắc, Thượng hoàng Trần Nghệ Tôn liền phong cho ông tước Vũ Tiết Quan Nội Hầu. Đất phong hầu của ông chính là vùng Mơ này. Trước khi Thượng tướng đến ở, vùng nam Thăng Long đã có cây mơ đặc sản. Thiên hạ đã gọi dân vùng đó là Kẻ Mơ.
Chỗ gò đất cao mà thượng tướng định xây cất dinh thự có một lão nông đã ở từ lâu. Căn nhà chỉ là chiếc lều cỏ ông lão làm ruộng, thêm nghề chăn vịt, nhưng cũng như dân trong vùng, ông vẫn có một vườn mai nhỏ cạnh nhà. Đặc biệt, trước căn lều của ông cụ, có hai cây mai cổ thụ mà dân kẻ Mơ vẫn gọi là hai cây mai tổ. Hai cây mai già thuộc loại mai hiếm. Cây đã đẹp, quả lại ngon. Thường thường, cây mai chỉ sống vài chục năm là giỏi, nhưng nhờ chất đất đặc biệt ở ngôi gò và nhờ sự chăm sóc khéo léo của ông cụ, nên đôi lão mai đã sống trên dưới trăm tuổi mà cành lá vẫn xum xuê tươi tốt. Hôm thượng tướng đến thăm đất, ông cụ nói: Hai cây lão mai này của các cụ tôi để lại, bao nhiêu tuổi rồi chẳng rõ. Chỉ biết lúc tôi còn bé, chúng trông đã già côi như thế này rồi. Được cái già cỗi nhưng vẫn còn tráng kiện. Mỗi năm hai cây cũng cho được bốn thúng quả. Quả to bằng ngón chân cái, ăn vào ngăm ngăm vị đắng, chẳng chua lắm, cũng chẳng ngọt lắm, đặc biệt, hương của nó cứ ngát mãi trong miệng, dư vị đậm đà kéo dài. Dân làng vẫn xin giống nó về trồng, vì thế mới gọi là hai cây mai tổ.
Ông lão nói, mắt long lanh hãnh diện. Thượng tướng cười:
- Cụ mới nói. tôi đã thấy thèm.
- Bẩm đức ông, tôi lại học được ở các cụ tôi cách làm rượu mai. Nhà vẫn có hơn chục cái vò sành chuyên dùng ngâm rượu. Chọn những quả mai lành lặn nhất, đẹp mã nhất, không xanh mà cũng không chín, cho vào vò rồi đổ ngập rượu. Đậy chặt bằng nút lá chuối khô. Chôn sâu dưới đất, càng để lâu càng ngon. Ông lão vào nhà, lấy cái thuổng ra vườn đào một vò rượu mai:
- Bẩm tướng quân, đây là vò rượu đã chôn mười năm, vò rượu để chờ khách quý. Nếu chưa gặp khách quý, đến lúc sắp chết tôi mới đào lên để uống, trước khi về chầu tiên tổ cho thơm tho mát mẻ. Ông lão rót rượu ra chiếc bát, rượu sóng sánh vàng như mật ong, hương mai thơm nức khu vườn. Thượng tướng không nỡ hưởng của quý, cố chối từ. Ông lão bèn nói:
- Thượng tướng là quý nhân, người có công giúp trăm họ thoát nạn đao binh... Chính gia đình tôi cũng được nhờ. Tôi có ba người con trai. Hai người đi lính chết trận bởi tay quân Chiêm. Nay chỉ còn thằng út lấy vợ làng bên. Từ nay dân chúng không còn sợ quân Chiêm ra quấy rối Thăng Long nữa.
Trần Khát Chân nghe vậy không nỡ từ chối. Ông bưng bát rượu sóng sánh mầu hổ phách lên miệng, uống một hơi. Uống xong. suốt ngày hôm ấy trong miệng còn phảng phất hương mai.
Thượng tướng bèn cho xây nhà trên quả gò cao đó. Vẫn để nguyên hai cây lão mai quý báu. Cụ lão nông được thượng tướng tuyển dụng làm người chăm sóc vườn tược trong thái ấp. Trước kia phải bận lo việc mưu sinh, còn bây giờ ông lão tha hồ thoả thích chăm lo việc làm vườn, đó là công việc lão hằng mê mẩn. Lão mê mẩn nhất hạng cây mai. Cây mai đẹp vì dáng, vì hoa, vì quả còn vì lá của nó. Có giống mai lùn, xoè ra như cái nơm, trẻ con lẫm chẫm với tay cũng bứt được quả. Có giống mai cao thanh mảnh. Mùa đông, cành khô gầy trụi lá, mà hoa lại tíu tít ken dày. Cây mai lúc đó trông như một cành khô với ngàn vạn con bướm trắng xinh xinh nối đuôi bám vào nhau. Hoa mai nói là trắng nhưng thực ra nhiều mầu. Có thứ phau như tuyết, có thứ phớt hồng, có thứ mầu hoàng yến, có thứ trắng đốm vàng hoặc điểm tia hồng, có thứ màu ngà vương gia...
Nhưng bao giờ ông lão Mai cũng có thể tự hào về hai cây lão mai truyền thế của gia đình mình. Mùa đông, khi lá mai rụng hết, những nụ mai không biết ẩn nấp từ đâu bỗng đột nhiên đồng loạt chồi lên ở khắp mọi cành, cứ như thể một phép lạ đã mời đón chúng về chen chúc gọi xuân. Khác với loại mai thường, hai cây lão mai nụ rất to, mà hoa cũng rất to. Lúc mãn khai, hoa nở gần to bằng con bướm, những con bướm nhỏ trắng tinh khiết và mong manh. Quan thượng tướng thường ngồi ngây ngất hàng giờ ở hiên nhà để ngắm đôi lão mai toả trắng làm sáng cả vùng sân. Ông hay lim dim con mắt để tận hưởng mùi thơm thoảng của mai, mùi thơm mà chỉ khi nhắm mắt. định thần. ta mới cảm nhận thấy.
Ông Lão Mai xin thượng tướng cho phép trồng hẳn một vườn mai mới ở phía hữu dinh thất. Phía bên tả sẽ trồng một vườn cây ăn quả khác. Bởi vì, mai thuộc loạt cây âm hàn ra quả vào mùa đông lạnh, cần phải hài hoà cân đối bằng một vườn cây mùa hạ, những thứ cây thuộc về dương hoả. Thượng tướng nghe vậy rất đẹp lòng, cho phép ông già được tuỳ ý trồng cây.
Lão Mai vội vã lặn lội đi tìm giống cây quý ở khắp nơi đem về ươm trồng. Có thứ gieo hạt. Có thứ đánh cả cây to về trồng ngay. Có bận, ông già đem cả một đoàn thuyền vào tận suối Đục vùng Hương Tích, đánh những cây mai lớn mọc hoang ở những thung lũng sâu trong rừng, lấy lạt chằng buộc giữ nguyên những bồng đất to đem xuống thuyền chở về trồng. Đó là những gốc mai đặc biệt có dáng đẹp, hoặc quả thơm ngon. Chỉ ba năm sau, vườn mai của thượng tướng đã nổi danh khắp kinh thành Thăng Long. Những bậc tao nhân mặc khách đều đã ít nhất một lần đến thăm vườn mai.
Hồ Nguyên Trừng là người đầu tiên phát hiện ra vườn mai. Lạc vào đó, ông như mê mẩn tâm thần. Trần Khát Chân sai gia nhân bày tiệc giữa vườn, đãi khách. Rượu đã dành là rượu mai. Còn thức nhắm Nguyên Trừng đề nghị cất hết mọi sơn hào hải vị; ông chỉ xin đem ra toàn những quả mai: quả mai vàng Hương Tích thoáng ngọt, thoáng chua. quả mai xanh xứ Lạng nhần nhận đáng nhưng hương lại nồng nàn; có thứ quả nửa mai nửa đào, lấy giống từ núi cao giáp giới vùng Vân Quý phương Bắc, cắn vào miệng, nước ứa ra thơm lừng, cuối cùng là thứ tiểu mai, chín rồi mà quả vẫn xanh rờn nhỏ xíu, ăn vào lúc đầu thấy đắng, nhìn kỹ sau thành vị ngọt... Đó là bữa tiệc nhớ đời Nguyên Trừng đi đâu cũng nói với mọi người như vậy.
Thượng tướng nhân lúc tửu hứng, đọc bài thơ Giang Mai (cây mai trên sông) của Đỗ Phủ:
Tháng chạp nhuỵ mai vừa hé
Sang năm mai nở đầy cành
Vẫn biết ý xuân xinh đẹp
Riêng lòng lữ khách buồn tênh
Cây và tuyết cùng một sắc
Gió trên sông, sóng bồng bềnh
Vườn cũ nào đâu còn thấy
Núi Vu Cao một màu xanh.
Nguyên Trừng khen thú vị, bèn sai gia nhân lấy bút, giấy ra vẽ một cây mai trên một mỏm núi. Dưới núi, một dòng sông, một lá thuyền. Trừng ngẫu hứng vẽ, phóng bút rất nhanh, chỉ một loáng đã xong. Cạnh bức tranh đề hai câu thơ:
Lạc tới chiêm bao mai một nhánh
Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần
Khát Chân cười ha hả, ông thích cái ý tặng bạn một nhành mai, cả trong cơn mơ, một ý thơ phóng khoáng, kỳ thú, như ông nói.
Trừng hỏi:
- Huynh có biết hai câu thơ này của ai không?
- Xin chịu.
- Đó là hai câu cuối trong bài thơ Tảo Mai (hoa mai sớm) của ông thiền sư Trần Nhân Tông, lúc ngài tu hành trên núi Yên Tử.
Từ bữa tiệc vườn mai nhớ đời ấy, Nguyên Trừng và Khát Chân luôn luôn đi lại với nhau.
Và cũng từ đó, mỗi độ xuân về, quan thượng tướng lại mở tiệc trong Vườn Mai, và đặt tên là tiệc “Đại Mai”.
Mùa Xuân năm Giáp Tuất (1394), thời tiết ấm áp, báo hiệu năm ấy sẽ phong quang hoà cốc, nên thượng tướng Khát Chân mở tiệc Đại Mai to hơn mọi năm. Năm ấy, sức khỏe thượng hoàng Nghệ Tôn đã yếu lắm. Thượng tướng mời thượng hoàng đến dự tiệc xuân. Nghệ Tôn đã bảy mươi tư tuổi. gần đến ngày hội thế. chợt thấy trong người dễ chịu, ông nhận lời đến dự. Dĩ nhiên, quan bình chương, tức thái sư Quý Ly, phải là khách danh dự số hai.
Trại Mai treo đèn kết hoa, nhộn nhịp đón khách quý Những chiếc đèn lồng bàng gấm đủ mầu lộng lẫy được đem treo ở trước sân, trên hai cây lão mai, Nghệ hoàng phấn chấn, tinh thần hơn hẳn mọi ngày. Ngài bảo:
- Ta đã ban cho quan bình chương tranh “tứ phụ” nay cũng ban cho quan thượng tướng tranh “nhị hùng” để tỏ lòng ưu ái hiền tài của ta. Thái sư là tể phụ của con trai ta, sau này sẽ thay ta bảo ban cho quan gia mọi việc chính sự. Còn khanh là bậc tướng giỏi, sau này sẽ là cây cột trụ giữ yên bờ cõi.
Thượng tướng quỳ xuống tạ ơn. Ông vua già sai lấy hai bức tranh võ tướng: thứ nhất là bức vua Lê Đại Hành phá Tống bình Chiêm, thứ hai là bức Trần Bình Trọng “Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Thượng tướng tay nâng hai bức tranh, rưng rưng nước mắt. Ông khóc vì ông là cháu chắt của vua Lê Đại Hành và của tướng Lê Bình Trọng. Khi phá quân Nguyên, Bình Trọng sa vào tay giặc đã không hàng, đức vua Trần Nhân Tôn đánh giá cao lòng trung liệt đó nên đã ban cho quốc tính. Từ đó dòng họ Lê nhà ông đổi sang họ Trần. Và tên ông mới thành Trần Khát Chân. Cái ý ngầm của Nghệ Tôn đã rành rành. Làm sao ông không cảm kích.
Nghệ Hoàng nhấp ly rượu mai, cắn quả mai thơm rồi nói:
- Tiệc Đại Mai, rừng mai, rồi cả hai cây lão mai của khanh, quả danh bất hư truyền.
Rồi ngài sai lấy gấm vàng và bút lớn ra, viết một bức trướng. Nghệ Hoàng vốn tài văn học, nổi tiếng chữ viết bất phàm. Tấm trướng như rồng bay phượng múa:
Gương trung dũng rạng chiếu ngàn thu
Chí anh hùng nêu danh muôn thuở
Nghệ Hoàng quay sang thái sư Quý Ly, nói:
- Khanh là người giỏi thơ quốc ngữ. sao lại không nhân bữa tiệc làm một bài thơ tặng thượng tướng.
Thái sư nhấp hớp rượu, ngẫm nghĩ một lát rồi viết một bài thơ trên giấy vân bạch:
Cây mai già! Cây mai già!
Bình ngọc rượu lừng hương
Mỗi độ xuân qua,
Mai nở chật vườn.
Cây mai già
Cánh hoa ngọc ngà
Dầu dãi tuyết sương.
Đã lâu rồi sao vẫn lặng tanh
Kẻ trượng phu sao phụ chí bình sinh?

Truyện Hồ Quý Ly Chương 1 !!!9023_15.htm!!! Đã xem 192504 lần. --!!tach_noi_dung!!--


Chương 2

--!!tach_noi_dung!!--
Thế kỷ XIII Đại Việt ba lần chiến thắng lẫy lừng quân Nguyên hung bạo. Nhưng ngay sau đó, thế kỷ XIV nhất là nửa sau của nó, Đại Việt trở nên suy yếu, làm mồi cho sự tấn công liên miên của người Chiêm Thành phương Nam. Vào thời kỳ đó, có thể nói quân Chiêm ra vào tấn công Đại Việt như đi chợ, muốn đánh lúc nào thì đánh, muốn rút lúc nào thì rút.
Tính từ khi vua Nghệ Tôn dẹp loạn Dương Nhật Lễ, chiến tranh Chiêm - Việt xảy ra mười lần, hầu hết quân Việt bị thua.
Sau trận đại bại của quân Việt năm Đinh Tỵ (1377), khi vua Duệ Tôn đem mười hai vạn quân vào thành Đồ Bàn, đại quân tan tác. Duệ Tôn tử trận, từ đó Đại Việt hoàn toàn mất hết nhuệ khí, quân Việt từ chỗ khinh thường quân Chiêm, đã quay ngược trở lại, trở nên sợ hãi quân Chiêm. Còn quân Chiêm từ chỗ nhút nhát, sau chiến thắng, đã trở thành đội quân thiện chiến, gan dạ.
Quân Chiêm, dưới sự chỉ huy của thiên tài quân sự Chế Bồng Nga, thường đem quân ra đánh phá nước ta vào mùa gió nồm nam. Bình thường họ đánh phá cướp bóc các tỉnh miền Trung: Thanh đô trấn, Nghệ An, Tân Bình. Thuận Hoá. Khi thời cơ thuận tiện, Chế đem quân ra tận kinh đô Thăng Long cướp phá.
Vua Nghệ Tôn tính tình nhu hoà, vô cùng sợ người Chiêm. Nghệ Tôn sợ hãi đến nỗi đem tất cả mồ mả cha ông chuyển về làng Yên Sinh ở Đông Triều. Lại đem chôn dấu vàng bạc, tiền đồng và của quý vào trong núi đá.
Trong vòng hai mươi năm, từ năm 1370 đến năm 1390, quân Chiêm Thành đã xâm nhập đốt phá Thăng Long bốn lần. Lần thứ nhất, ngay sau khi Nghệ Tôn mới lên ngôi. Đại Việt sử ký còn ghi:
“Tháng ba nhuận năm Tân Hợi (1371), người Chiêm thành sang cướp phá, tiến quân vào từ cửa biển Đại An, tiến thẳng đến kinh sư. Dụ binh của giặc đến bến Thái Tổ, phường Phục Cổ (ngày nay khoảng phố Nguyên Du). Vua đi thuyền sang Đông Ngàn lánh giặc. Ngày 27, quân Chiêm vào Thăng Long, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái đẹp, vàng bạc châu báu đem về... Giặc đốt cung điện đồ thư trụi cả...
Lần đốt phá Thăng Long thứ hai của quân Chiêm xảy ra năm 1877.
Lần đốt phá Thăng Long thứ ba xảy ra năm Mậu Ngọ (1378).
Lần đốt phá Thăng Long thứ tư, quân Chiêm tiến hành vào năm Quý Hợi (1383). Sử cũ ghi:
“Quý Ly phải sai nghĩa đệ là Nguyễn Đa Phương dựng rào trại quanh kinh thành ngày đêm canh giữ.”
Nghệ Hoàng sợ hãi, xuống thuyền ngự định sang Đông Ngàn lánh nạn. Có người nho sinh Nguyễn Mộng Hoa ra bến sông, lội xuống nước níu thuyền vua, xin thượng hoàng ở lại đánh giặc. Thượng hoàng bảo:
- Ta cũng giống như Bái Công, Hán Cao Tổ; còn Chế Bồng Nga chẳng khác nào Hạng Võ. Thua được; bên chạy bên đuổi là lẽ thường tình. Kẻ kia hung hăng, còn ta mềm dẻo, cũng lại là lẽ thường tình. Chỉ đến phút cuối ai được ai thua rõ ràng mới quan trọng.
Thực ra, Chế Bồng Nga không chỉ là một con người hung hăng, hữu dũng vô mưu. Nói công bằng, ông ta là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng cuối cùng của người Chiêm Thành.
Đêm đã tàn, đã thưa thớt ánh sao, đột nhiên một ngôi sao băng bỗng lóe lên rực rỡ trên bầu trời Chiêm Thành. Ông ta như một khắc tinh đối với Nghệ hoàng. Ông ta đã vây hãm khốn đốn Đại Việt, đã huỷ diệt nốt những năng lượng cuối cùng của dòng họ Trần, đã một thời leo lên đến tột đỉnh vinh quang. Nhưng một ngôi sao dù sáng đến thế nào. cuối cùng cũng phải đi hết con đường xạ quang của nó. Cả cơ đồ nhà Trần, cả đến sự nghiệp rực rỡ của Chế Bồng Nga, cuối cùng cũng phải kết thúc như vậy mà thôi.
Lần vật lộn khốc liệt cuối cùng giữa Chế Bồng Nga và quân Đại Việt là lần thứ năm quân Chiêm Thành định ra cướp phá Thăng Long. Lần này, họ Chế chuẩn bị rất chu đáo.
Trước tiên, về mặt chính trị và ngoại giao, họ Chế đã tiến hành cô lập Đại Việt. Năm 1870, Chế Bồng Nga đem cống nhà Minh voi, hổ và các sản vật phương Nam. Năm 1372. sau khi đánh bại Đại Việt, Chế lại mang lễ vật sang nhà Minh, vừa báo tin thắng trận, vừa xin vua Minh cung cấp vũ khí. Năm 1386, Chế sai con trai sang chúc thọ Minh Thái Tổ, y đã được nhà Minh tiếp đãi long trọng.
Trong khi ấy, nhà Minh lại giả trá, lặp lại thủ đoạn xưa cũ mà nhà Nguyên đã dùng, họ mượn đường Đại Việt đi đánh Chiêm Thành. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương yêu cầu Đại Việt phải đem cống voi, và đặt các trạm ở dọc đường suốt từ biên giới Trung Việt cho tới Nghệ An. Chuyện này ta không đáp ứng, nhà Minh cũng không trách cứ. Nhưng về thực chất, có lẽ đằng sau những cử chỉ ấy đã có sự bàn ngầm giữa nhà Minh và Chiêm Thành. Họ toan tính muốn xoá sổ Đại Việt bằng cách đánh từ hai đầu.
Đang lúc quân Minh còn rập rình ở biên giới, thì Chế Bồng Nga đã đem đại quân tiến vào Đại Việt.
Đó là năm Canh Ngọ (1390), tình hình Đại Việt lúc đó, ngoài nước cũng như trong nước đều hết sức rối ren. Nghệ Tôn đã hơn 70 tuổi. Vua con Trần Thuận Tôn vừa lưới lên ngôi. Tất cả quyền hành bấy giờ đã hoàn toàn nằm trong tay Thái sư Quý Ly.
Nhìn toàn cục, có thể nói số phận Đại Việt đang như ngàn cân treo sợi tóc. Phía Bắc quân Minh rập rình ở biên giới. Phía Nam, quân Chế Bồng Nga ào ạt tràn vào Trong nước có ba cuộc nổi loạn: ở Thanh Hoá, Nguyễn Kỵ xưng vương tại Nông Cống, Nguyễn Thanh xưng vương ở Sông Lương. Sát kinh đô, nhà sư Phạm Sư Ôn đã tập hợp được ba vạn quân ở lộ Quốc Oai.
Quan đứng đầu Thanh Hoá là tôn thất Trần Nguyên Diệu đã ra hàng Chế Bồng Nga.
Họ Chế, qua báo cáo của Trần Nguyên Diệu, đã nắm chắc Chương 3 Chương 4 Chương 5 Phần IX- Chương -1 Chương 2 Chương 3 Phần X- Chương -1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Phần XI -Chương 1 Chưong 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Phần XII- Chương - 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Phần XIII- Chương - 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương kết