Chương 4

Cũng vào khoảng thời gian ấy, một đêm, Phạm Sinh mất ngủ, đang nằm nghĩ ngợi liên miên trong ngôi chùa đổ, bỗng nghe tiếng lũ chim xáo xác ngoài vườn. Anh nghĩ; lại có bọn đi ăn sương nào xong việc về ngủ tạm ở chùa? Hay chẳng lẽ sư huynh Tổ Thu hoặc Ngưu Tất có việc gấp đến gặp ta? Phạm Sinh tập trung tinh thần lắng nghe. Lũ chim vẫn tiếp tục xáo xác. Điều này khác thường, bởi vì khi người đi qua xong, lũ chim lại im lặng ngay. Vậy đã có ai đang ngồi dưới những tán cay, ngay ở chỗ lũ chim trên cao trú ngụ. Lẫn trong tiếng xáo xác ấy hình như có chen thêm một tiếng lạ. Thoang thoảng tiếng ti tỉ - Ô hay? Có người đang khóc? Phạm Sinh mò trong bóng tối ra vườn chùa. Đúng là có người đang khóc thật. Anh lần theo tiếng khóc đến chỗ con trâu đá, và hỏi:
- Ai đấy? Làm sao lại đến đây mà khóc?
Hai mẹ con người đàn bà rách rưới ẩn trốn dưới bụng con trâu đá. Phạm Sinh dìu họ vào trong chùa. Người mẹ đã già, cô con gái mới chừng đôi tám. Cô ăn mặc rách rưới nhưng không dấu được những nét xinh đẹp khác thường. Họ bị lạnh cóng và đói lả. Phạm săn sóc nấu cháo cho ăn. Họ nhìn Phạm như e ngại, có vẻ muốn dấu diếm điều gì. Nhưng rồi thấy sự ân cần và biết Phạm cũng chỉ là một kẻ vô gia cư, bán chữ sinh nhìn, nên bà mẹ tỏ lòng tin cậy, thú nhận:
- Mẹ con tôi chỉ là những người đang chạy trốn. Chồng tôi bị quan thái sư tống giam ngục thất...
- Chồng bà là ai?
- Ông ấy là quan thái sử Sử Văn Hoa.
- Tôi hiểu rồi. Nay mẹ con cụ định đi đâu?
- Mẹ con tôi đang đêm trốn khỏi làng định đi thật xa, nhưng chẳng biết chồng tôi sống chết ra sao, nên định nấn ná tìm nơi trú tạm gần Thăng Long, để chờ biết tin của ông ấy ngã ngũ ra sao...
Phạm ngẫm nghĩ rồi nói:
- Bà cụ đừng sợ. Nếu vậy, tôi có thể thu xếp được. Khu đầm Vạc này vắng vẻ lắm. Chỉ có vài người xiêu tán dựng mấy túp lều bên hồ kiếm ăn bằng cách mò cua, đánh dậm... Người ta đến rồi lại ra đi. Gần chùa có một túp lều bỏ hoang, mẹ con cụ ở tạm nơi đó thật kín đáo. Việc dò hỏi tin tức đã có tôi lo.
Tổ Thu, Ngưu rất ban đêm bơi thuyền lẻn tới ngôi chùa đổ liên lạc với Phạm Sinh, nghe câu chuyện của mẹ con bà Sử Văn Hoa. vừa ngậm ngùi vừa bừng bừng nổi giận:
- Cụ Sử Văn Hoa là người tài cao đức trọng, đầy khí tiết, thế mà ngày nay thân phận tử tù. Nông nôi này do bởi tay ai? Việc giúp đỡ mẹ con bà là nghĩa cử phải làm của chúng ta.
Từ đó, Phạm Sinh có hai mẹ con bà Sử làm hàng xóm nên cũng đỡ hiu quạnh. Có Tổ Thu và Ngưu Tất giúp đỡ gạo nước, cộng thêm với đồng tiền viết mướn của Phạm Sinh, nhưng họ cũng không ỷ lại. Cô con gái tên là Thị Hạnh vẫn hàng ngày xuống hồ mò cua bắt ốc. Cô bận bịu làm, đi kiếm ăn xong lại về nấu cơm phụng dưỡng mẹ.
Bà mẹ, cô bán rượu làng Mơ xinh xắn thủa xưa, nghèo khó, nhưng đã truyền lại cho con gái một gia tài vô giá đó là sự duyên dáng tươi tắn. Cô Hạnh cũng có đôi mắt bồ câu của mẹ. có tiếng nói trong veo và ấm áp của mẹ, nhưng cô còn được thừa hưởng thêm sự thông minh sắc sảo của người cha. Sự thông minh bén nhậy ấy làm cho sắc đẹp của cô trở nên tinh tế hơn. Cô biết cách nói bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng cái dáng vẻ không nói. Tất cả những thứ ấy, âm thầm trong con người cô, nhưng nó vẫn toát ra lặng lẽ mỗi khi ta gặp, để tạo nên một cảm giác mà người đời vẫn gọi là “có duyên”. Cô Hạnh sợ người ta chú ý, cố dấu nét duyên ấy đi bằng sự lam lũ nghèo hèn, bang cái bề ngoài nâu sồng lấm láp, bằng chiếc khăn vuông tùm hụp suốt ngày; sự kín đáo ấy ngay cả trước mặt Phạm Sinh cô vẫn giữ. Nhưng ngay từ lúc đầu mới gặp, nhìn vào mắt cô, anh đã nhận ra cái duyên ngay. Đôi mắt người nguỵ trang khó nhất. Anh học trò viết Sử Văn Hoa, ngày xưa, trong khốn khó đã tìm thấy cái duyên của cô bán rượu làng Mơ thế nào, thì ngày nay anh chàng viết mướn bơ vơ trong ngôi chùa đổ cũng nhận ra cái duyên của cô Thị Hạnh như vậy. Một mối tình thầm lặng được nhen.
Một hôm, cô Hạnh ngồi trên một phiến đá vườn chùa nói chuyện với Phạm. Cô ngồi nghiêm trang, hai tay đặt trên đầu gối. Bỗng nhiên Phạm chăm chú nhìn cô, rồi bảo cô giơ hai tay từ từ đẩy ra phía trước, những ngón tay cong lên. Anh ngắm nghía, nhìn nghiêng rồi lại nhìn thẳng nét mặt của Hạnh. Hạnh đỏ mặt lên cười khúc khích. Mấy hôm sau, anh đã vẽ được một bức tranh. Cô Hạnh nhìn bức tranh người phụ nữ nõn nà, với dáng vẻ buồn cao quý đương ngồi tay đẩy ra phía trước. Hạnh ngạc nhiên:
- Huynh vẽ em đấy ư? Sao quần áo em lại sang trọng như một bà mệnh phụ? Sao mớ tóc em lại được búi cao và trên đó có mũ vàng trâm ngọc? Sao nét mặt lại u buồn... như đức Phật?
Phạm gật đầu khe khẽ:
- Đúng! Huynh vẽ muội là đức Phật.
- Huynh điên rồi sao?
- Cả em, cả bà ấy đều giống Phật.
- “Bà ấy”? Huynh nói thế là nghĩa làm sao?
- Bà ấy là một người nhân hậu. Tôi chỉ một lần giáp mặt đã nhận ra ngay... Hàng ngày bà đến chùa dâng hoa. Dáng vẻ của bà ấy mới tôn quý làm sao, u buồn làm sao... Cả em cũng vậy, mới nhìn vào mắt em lần đầu tiên, huynh đã thấy ngay...
- Huynh điên thật rồi Những lời nói sao em không hiểu.
- à! Bà ấy là công chúa... bà Huy Ninh... bà thái sư. Ôi. sao mắt bà ta buồn làm vậy... Đã lâu chẳng thấy bà ấy đi chùa... Rồi hôm trước, nhìn thấy em trên tảng đá chợt nghĩ, hình như em có nét hao hao... Huynh đã trộn lẫn cả hai người vào tranh. Ở bà là nét u buồn cao quý nhưng đôi mắt bà tối quá. Phải đem sự trắng trong, sự ấm áp của mắt em vào tranh... Chắc là như thế... Phải, đúng rồi Bởi vì em là tuổi trẻ... em bồn chồn... nhưng cuộc sống còn dài. Em lo lắng cho số phận của cha. nhưng vẫn còn những tia hi vọng... Nhưng ở mắt bà, chẳng thấy le lói một mảy may sự sống. Huynh thầm nghĩ chắc bà ta chết rồi, cảm thấy bà Huy Ninh đã chết rồi.
- Câu chuyện của huynh thật buồn...
- Và nếu đoán không sai, ông ta sắp đến đây.
- Ông ta là ai?
- Ông ta là thái sư, là Hồ Quý Ly.Điều Phạm Sinh dự đoán đã xảy ra thật. Một buổi sáng, có người lính ở cung Hoạ Lư đến gốc đa tháp Báo Thiên, đưa giấy mời Phạm đến ngay phủ thái sư. Phải qua bao nhiêu thủ tục rườm rà, phải qua bao nhiêu toà ngang dãy dọc, Phạm mới đến được cung Hoạ Lư nổi tiếng.
Người lính dẫn đường trao Phạm cho viên lực sĩ nội vệ dẫn anh đi trên con đường đá xanh từ cổng đến toà tiền điện. Phạm liếc nhìn cái sân lát gạch đỏ mênh mông và dãy chậu đá khổng lồ, ở đó mọc đủ các thứ hoa quý hiếm. Đến trước đôi rồng đá, người lực sĩ bắt anh dừng lại, chỉnh đốn khăn áo. Hắn đi vòng quanh Phạm, ngắm nghía anh từ đầu đến chân, rồi vuốt ve quần áo, chỉnh lại chiếc khàn nhiễu tím cho anh. Phạm hiểu, hắn muốn xem anh có gài dắt thứ gì sắc nhọn trong người. Cuối cùng, sau khi đã yên tâm, hắn mới dẫn anh bước lên chín bậc thềm đá để vào nhà tiền điện.
Thái sư ngồi trên chiếc sập cao đặt chính giữa, sau lưng ông ở hai phía tả hữu là hai bức đại hoành rực rỡ “Vô dật nãi dật” và “Nhật nhật tân”.
Quý Ly cho Phạm ngồi ở chiếc đôn phía dưới, cách xa ông. Thái sư cất tiếng hỏi:
- Có phải anh chính là người vẽ bức hoạ trúc mà phu nhân ta đã mua về từ tháp Báo Thiên?
- Bẩm thái sư, đúng kẻ học trò này.
Thái sư vuốt râu, đôi mắt sáng của ông nhìn vào mặt Phạm rồi nói bằng cái giọng vang và trầm:
- Vẽ khéo đấy Nhà ngươi có thể vẽ... ngay lúc này, trước mặt ta? à, cũng chẳng cần vẽ. Viết cũng được. Chỉ cần viết một chữ đại tự. Thế nào? Có được không?
- Kẻ tiểu nhân xin viết - Phạm Sinh điềm đạm nhận lời.
- Ta cho phép tự chọn. Viết chữ gì cũng được. Tuỳ ý.
Người hầu bê ra cái nghiên mực lớn bằng đá, một bó bút các cỡ, một tờ giấy đại bạch, một tờ hồng điều, một vuông lụa lớn. Phạm chọn cái bút to nhất và tấm lụa bạch. Tấm lụa được căng lên khung. Phạm trầm ngâm đứng trước tấm lụa, mắt nhắm lại hồi lâu, tay đặt lên đầu chạm vào chiếc bút cài sau gáy.
Rồi anh choàng mở mắt, chấm chiếc bút vào nghiên đá, khẽ quay đầu bút vài vòng, rồi khoan thai như múa chiếc bút trên nền lụa.
Thái sư chằm chằm nhìn. Một chữ lớn đen nháy, khỏe khoắn, dịu dàng hiện lên trên mầu trắng ngà tinh khiết. Ông nói:
- Chữ “Thần” ư? - Thư pháp được đấy. Nhưng tại sao lại chữ thần? Ngươi nghĩ gì mà viết chữ thần?
- Tiểu nhân mạo muội xin phép được nói. Trộm nghĩ: mọi vật không có thần sẽ bất dạng. Người không có thần là kẻ thất phu. Kẻ viết chữ không có thẩn chỉ là con mọt sách. Việc làm không có thần chỉ là việc làm của phường ngu muội. Ngay cả đến sông kia, núi kia, tất thảy đều mang một chữ thần, nên mới làm cho bậc tao nhân mạc khách phải ưu tư, làm cho kẻ sĩ trong thiên hạ phải đau đáu tấm lòng...
Thái sư lặng lẽ khoanh tay trước ngực rồi gật đầu:
- Thôi được. Ta hiểu ngươi - giọng ông chợt như trầm xuống - Sở dĩ hôm nay ta gọi ngươi đến, vì muốn nhờ ngươi một việc. Từ ngày phu nhân của ta mất đi, ta muốn có một bức tranh vẽ bà. Cứ băn khoăn tìm người hoạ sĩ mãi. Đêm trước, bà về trong mộng, bảo ta sao không đến tháp Báo Thiên, tìm người viết thuê dưới gốc đa, người đã vẽ bức trúc hoạ. Vậy ngươi có nhớ được mặt bà không? Có thể vẽ lại được không? Tiểu nhân đã nhiều lần thấy phu nhân đến chùa dâng hoa cúng Phật. Tiểu nhân vẫn còn nhớ được dáng vẻ tôn quý của người. Dạ thưa đó là khuôn mặt từ bi...
- Đúng? Phu nhân ta là người nhà phật... Đúng? Ngươi đã biết tên bà là Nhất Chi Mai... chắc phải rất chú ý. Và đã chú ý chắc phải nhớ. Cũng chính vì vậy nên ta đã quyết định gọi người đến. Ta hẹn ngươi trong mười hôm, ngươi hãy về nhớ lại, vẽ bức hoạ về bà. Nhớ gắng hết sức. Ta sẽ trọng thưởng.
Phạm Sinh trở về ngôi chùa đổ, tìm cách báo tin cho Tổ Thu và Ngưu Tất biết chuyện. Một đêm, hai người lẻn đến ngôi chùa đổ. Tổ Thu nói:
- Quan thượng tướng bảo đã đến gặp được Quý Ly là điều rất tốt. Chỉ có điều ông ta đa nghi, kỹ lưỡng. Để đến gần ông ta hơn nữa không phải dễ. Đệ cần phải nhớ ngay như sư huynh Nguyễn Đa Phương đã được ông nhận làm nghĩa đệ mà ông ta vẫn nghi ngờ, khi cần vẫn giết.
Ngưu Tất truyền lại lời của quan Thái bảo Nguyên Hàng:
- Từ nay cần ít liên hệ với người bên ta. Quý Ly khi gặp có nói: đã biết tên phu nhân là Nhất Chi Mai chắc người phải rất chú ý rồi, tức là trong đầu óc ông đã muốn tìm hiểu người bán chữ này là ai, tại sao lại quá quan tâm tới gia đình thái sư như vậy.
- Đệ xin ghi lời các sư huynh. Và đệ đã có cách... Chắc chắn bức tranh của đệ vẽ bà Nhất Chi Mai phải làm ông ta ưa thích.
Khi sắp đến ngày gặp thái sư, cô Hạnh rất lo lắng.
- Hang hùm đấy? Cha em đã gặp nạn vì vào đó, đến nay còn chưa biết sống chết. Em thật không hiểu chốn hang hùm ấy có cái gì lại hấp dẫn được cả anh.
- Chính vì muốn giúp những người như cha em, nên anh phải vào đó.
Cô gái cúi đầu:
- Mẹ con em lúc này bơ vơ. Nhỡ anh có thể nào...
Phạm Sinh mang bức tranh đến gặp thái sư. Trông thấy bức tranh, Quý Ly mắt sáng hẳn lên.
- Thật tài hoa. Từ bi. đúng là từ bi như bà ấy? Mà lại giống. Nhà ngươi có trí nhớ thật tài tình... có bàn tay vàng... Thần! đúng là thần hoạ! Này lúc nhà ngươi giảng giải cái thần, ta lấy làm... sốt ruột quá... Nhưng hôm nay, xem tranh, ta mới hiểu ngươi thực lòng. Thái sư nhìn sâu!!!9023_42.htm!!! Đã xem 192530 lần.

---~~~mucluc~~~---

Truyện Hồ Quý Ly Chương 1 Chương 2 Chương 3 Phần II - Chương 1 Chương 2 Chương 3 Phần III - Chương 1 Chương 2 Phần IV- Chương -1- Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Phần V - Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Phần VI-Chương -1 - Chương 2 Chương 3 Chương 4 Phần VII - Chương - 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 nhưng không thể thiếu hoạn quan. Vì thế cả ông khi còn sống và con ông lúc nối ngôi đều tăng cường dùng hoạn quan người nước ngoài. Dùng cách này có nhiều cái lợi... Trong những điều lợi ấy, nhà Minh có thể mua chuộc, dùng hoạn quan và người nhà của họ làm gián điệp dò xét đất nước ta.
- Đã có dấu hiệu đó?
- Đã có nhiều chuyện rõ ràng về việc dụng gián của họ.
- Tại sao ta không lợi dụng lại đưa người của ta sang...
Nguyễn Cẩn gật đầu:
- ý của huynh thật đúng với ý thái sư.
Hai người đến bên bờ rào khu “nhà thiến” đã được mang cái tên mỹ miều: “Tịnh thân đường”. Những chuyện vừa xảy ra kích thích trí tò mò của Phạm đến cao độ. Nhưng Cẩn không đưa bạn vào đó, anh ta chỉ đứng bên ngoài để giới thiệu:
Người được tịnh thân phải hoàn toàn tự nguyện. Ký giao kèo cam kết bằng lòng, gia đình được trả một món tiền lớn. Ba ngày đầu tiên, họ được nhốt trong căn nhà thứ nhất; mỗi người một phòng riêng, kín gió. Ba ngày đó kiêng ăn uống mọi thứ để sau đó không đại tiểu tiện. Sáng hôm thứ tư, người tịnh thân được uống một thứ rượu thật nặng, uống cho đến say mềm, mê man bất tỉnh. Tiếp đó, đưa họ sang căn nhà thứ hai. Nơi đây chính là y đường, nơi tiến hành việc cắt bỏ. Chỗ sẽ cắt phải tẩm dầu tê. Dao thật sắc, cắt một nhát là xong tất cả cụm, không bỏ sót một tí gì. Cái khó là chọn đúng chỗ. Cắt chệch chỗ có thể chết. Người tịnh thân nằm trên bàn, cái bàn đặt trên một hố vôi bột. Sau khi cắt, họ được đưa sang ngôi nhà thứ ba, ngôi nhà dưới gốc cây mát rượi. Chung quanh bao bọc những vườn hoa. Người tịnh thân xong, nhịn ăn thêm ba ngày, và ở trong nhà kín, kiêng gió nửa tháng...
Nghe Cẩn say sưa nói, một thoáng nghĩ chua chát chợt len lỏi vào trong tâm tưởng Phạm Sinh. Từ trước đến nay, Phạm cứ tưởng mình đã bày đặt sắp xếp cho mọi việc phải xảy ra theo ý riêng mình, hoá ra lại là bị xỏ mũi. Tưởng chủ động hoá ra bị động. Hai người quay trở về lúc trời đã xế chiều. Người đàn bà có gương mặt buồn đã sắp sẵn cơm rượu. Phạm cáo từ định ra về, nhưng Cẩn cố giữ lại.
Đêm nay, huynh phải ở lại. Chúng ta sẽ hàn huyên cho thoả thích. Huynh đã cho tôi bơi thuyền ngắm tràng trên Đại Hồ. Còn tôi, đêm nay sẽ đãi huynh một bữa tiệc trăng thâu đêm suốt sáng trên Tây Hồ. Nguyễn Cẩn sai gia nhân chuẩn bị một con thuyền nửa có mui, sắp sẵn đủ cả chăn màn, đồ nhạc khí, rượu ngon và thức nhắm. Chờ trăng lên mới cho thuyền rời bến.
Lũ gia nhân đẩy mái chèo ra đến giữa hồ, cắm sào, neo thuyền, rồi sang thuyền khác bơi tản vào sương mù, chỉ còn để lại hai người giữa mênh mông sóng nước. Chiếc đèn lồng buộc trên cọc thuyền cao thắp lên, ánh vàng lan toả vào sương đêm, làm cho không gian quanh vùng hồng hồng sắc đỏ, nhưng đưa mắt nhìn đến cuối trời thì lại chỉ thấy một mầu tím ngắt. Phạm Sinh thở dài. Nguyễn Cẩn vội thả đèn xuống, tắt đi, rồi nói:
- Đã lâu lắm tôi chẳng bơi thuyền. Ngày trước hai hoàng thân Nguyên Dận và Nguyên Uyên vẫn thuê thuyền để chơi bời hát xướng trên hồ. Lúc đó, thuyền này chứa được chục người. Đèn lồng treo quanh thuyền toả ánh xanh đỏ xuống mặt nước. Rồi kỹ nữ đàn ca thâu đêm... Rộn ràng, đẹp đẽ như cảnh tiên. Về sau Dận và Uyên, lúc Nghệ Hoàng mất, có ý phản nghịch, bị thái sư xử tội chết. Từ đó, Tây Hồ hết cảnh náo nhiệt. Bọn gia nhân tưởng tôi và huynh cũng như Dận và Uyên khi xưa nên đã thắp đèn lồng... nhưng chỉ thắp thử một chiếc thôi.
Phạm cười vang mặt nước.
- Hoá ra họ có ý thăm dò... tưởng tôi là một công tử, biết đâu rằng chỉ là anh học trò kiết.
Hai người ra đứng ở đầu thuyền, ngắm nhìn đêm Tây Hồ. Trăng lu. Cả một bầu trời pha sữa loãng. Không có gió, chỉ có sương giăng mù mịt và một không gian tịch mịch, vắng cả tiếng chim đêm.Thỉnh thoảng, sương lại vén màn, để mắt ta thoáng nhìn thấy những ngọn đèn chài ở tít xa xa, như những đốm lửa ma trơi lúc phồng to bằng quả bưởi, lúc xẹp nhỏ chỉ như hạt đậu rồi thoắt một cái đã biến mất, chỉ còn để lại dấu tích của chúng ở những tiếng thanh tre gõ cá lách cách vang lên, nhưng rồi cuối cùng cũng mơ hồ, mất tích trong tịch mịch.
Hai người uống rượu, ngâm thơ, đàn hát, lấy làm thoả thích. Nguyễn Cẩn, nhân chén rượu cao hứng, tay đánh đàn miệng hát. Đầu tiên hát bài “Trăng có tự bao giờ?” rồi sang điệu “Hoa say” cuối cùng lại trở về “khúc Phượng Hoàng”.
Phượng hoàng hề
Phượng hoàng hề bay vút trời cao..
Đến bài này, cao hứng đã đến tột độ, giọng chàng cảm khái, vang vang trong đêm, hoà cùng tiếng sóng oàm oạp vỗ thuyền. Nghe hát xong, Phạm gật đầu:
- Thật bi tráng, nhưng phảng phất chút buồn.
Cẩn gật đầu với sự tri âm... chàng lặng lẽ ngồi xuống uống luôn ba chén rượu. Câu chuyện dần dần đi vào tâm sự.
- Người ta sinh ra ở trên đời không gì bằng thoả chí bình sinh...
- Thế nào là thoả chí?
- Thứ nhất: có một người bạn tri âm, đêm xuống thả thuyền mặc trôi trên sông. nghêu ngao hát khúc “Chu trung thính vũ” chẳng là thoả thích hay sao?
Hai người cười to, chúc nhau cùng uống.
- Thứ nhì: có một tấm hồng nhan, vừa là người đẹp, vừa là bạn tri kỷ, lúc sênh sang thì cùng lên xe xuống ngựa, lúc thất thế sa cơ thì rau cháo không lìa, há chẳng phỉ chí ở đời lắm sao?
- Còn thứ ba?
- Thứ ba là rồng mây gập hội. Kẻ sĩ chỉ là những đám mây trôi nổi trên trời... may ra chỉ hoá thành một cơn mưa, một bóng râm che mát cho đời chốc lát. Mây phải gặp rồng. Có rồng thì mây mới trở thành vần vũ, mới tạo thành chớp giật sấm ran, mới có thể đổi thay thiên hạ, mới có được cái cao vọng nhất trụ kình thiên (trụ chống trời) thay sông đổi núi... Làm cho thiên hạ thành đời Nghiêu Thuần... thái bình.
Phạm Sinh cầm bầu rượu lên tu một hơi dài, chàng không rót ra chén nữa. Và chàng bâng qươ hỏi:
- Nghĩa là phải có biệt nhãn, phải biết nhận ra rồng.
- Phải. đúng là biệt nhãn. Mây phải có biệt nhãn để tìm rồng... mà rồng phải có biệt nhãn để nhận mây. Trên đời mấy ai được phú cho biệt nhãn?
Đến lúc này, họ đã uống tràn cung mây. Họ luân phiên nhau nói, những tiếng nói có lúc là tự nhủ với mình, có lúc lại là lời tâm sự.
- Thật thoả chí bình sinh khi rồng gặp mây. Nhưng đã bao giờ huynh gặp tiên chưa? Tôi nghe nói ở Tây Hồ có vị thuỷ tiên trú ngụ... đêm đêm lúc hoá thành cô gái hái sen, người nức hương, vừa bơi thuyền vừa hát, tiếng hát làm ngát cả một góc trời, có lúc lại biến thành một ông già râu tóc bạc phơ, thổi tiếng tiêu buồn vào đêm tĩnh lặng, ru êm cơ cực trần gian... Như thế cũng chẳng thoả chí lắm sao?
- Con rồng ẩn nay đã hiện hình...
- Tôi hiểu, tôi hiểu ý huynh muốn nói gì...
- Còn chần chờ gì nữa... Thái sư đã nhìn ra tài của huynh.
Cuộc chuyện trò đã quay về đời thực. Cái thực khủng khiếp may nhờ đêm trăng ấp sương, nhờ những hồ lô rượu mịt mù, đã làm giảm bớt sự thô kệch, mài nhẳn những góc cạnh gồ ghề của nó. Chẳng nhớ được rượu nói hay là ai nói nữa?
- Huynh có biết tại sao chúng ta lại uống rượu đêm nay ở một nơi chỉ có trời nước mênh mông và riêng hai chúng ta không?
- Là bởi bài “ Chu trung thính vũ” của tôi hôm xưa. Nó cũng là một câu tâm sự.
- Để tôi kể cho huynh nghe một câu chuyện ngày xưa của nước ta. Ở phường Thái Hoà, bên Hồ Tây, khoảng chỗ kia kìa... thời vua Lý Thánh Tông có một kẻ sĩ tên là Lý Tuấn. Anh ta, ngày học võ, đêm học văn, trở thành người văn võ kiêm toàn, nức tiếng Thăng Long. Tuấn lại có gương mặt khả ái, được bổ vào ngạch thị vệ hầu vua. Lý Thánh Tông rất yêu mới bảo: “Nhà ngươi mặt mày đẹp đẽ, lại có tài, ta muốn hậu dụng. nhược một nỗi không trong hoàng tộc, khó có chức cao. Nếu người bằng lòng “tịnh thân” ta sẽ phong cho chức Hoàng môn chỉ hậu, ngày đêm ở bên ta làm người tâm phúc”. Lúc ấy, Lý Tuấn mới 23 tuổi, mới có vợ, nhưng vì là người có chí lớn, nên bái tạ ơn vua, nhận ba vạn quan tiền, rồi tự hoạn... Ông đã lập bao chiến công hiển hách phá Tống, bình Chiêm, lưu danh trong sử sách đến muôn đời...
- Vâng, Lý Tuấn tức vị đại anh hùng Lý Thường Kiệt...
- Kẻ được người tri âm, nhất là khi người tri âm ấy lại là một đấng minh chủ thì thân ta phỏng có sá gì. Ôi! Đại nghĩa? Vì đại nghĩa, vì người tri kỷ mà Dự Nhượng nuốt than... Này, huynh có để ý đến gương mặt người vợ hiền của tôi không?
- Một gương mặt buồn đến tan nát...
- Thế đấy tôi đâu dám sánh với người xưa... Nhưng một bận thái sư gặp tôi, người bảo: “Ngươi là kẻ có tài, ta rất yêu...”. Còn tôi, tôi đã đọc sách Minh Đạo và phải nói, tôi đã tôn sùng thái sư. Và để tỏ rõ lòng sùng kính, sự tri âm của mình... Tôi đã... tự... tôi... đã để lại một vết thương không chữa nổi trong lòng. trên gương mặt vợ tôi.
- Huynh đã...?
- Vâng... tôi đã làm như vậy...
- Cha huynh có bằng lòng không?
- Cha tôi bảo: “Anh đã có con trai, đã có người nối dõi. Còn chí trai... tuỳ anh quyết định. Ở đời, chẳng có việc lớn nào lại dễ dàng... Làm việc lớn, thân mình có thể tiếc được chăng?...
- Chí lớn! Ha ha... Chí lớn!
Phạm nâng hồ lô rượu lên uống một hơi dài và cười sằng sặc.
- Lý Thường Kiệt đấy? Tư Mã Thiên đấy? Toàn những con người bị thiến hoạn. Ngay cả như huynh... nếu huynh muốn được trọng dụng, cũng không thoát khỏi các thông lệ đó đâu. Ở cạnh một con người kiệt xuất, nếu ta không phải là kẻ bị hoạn hỏi có ai tin? Mà người ta cũng lo liệu cho thấu tình đạt lý... ví dụ huynh sẽ có ba vạn quan tiền... Huynh sẽ mua năm người thiếp... và chờ cho đến khi những người đàn bà ấy đã mang thai... lúc dó.. lúc đó.. sẽ là...
- Ha ha. ta sẽ có năm người thiếp... sẽ có năm đứa con, sẽ là anh quan thị... sẽ thực hành chí lớn...
Phạm và Cẩn uống cho đến li bì quay cuồng trời đất. Họ đếm sao, đếm trăng, nhìn thấy một trăm ông trăng chìm đáy nước. Họ cúi đầu qua mạn thuyền rồi nôn mửa cả vào mặt nước, cả vào những mặt trăng... những mặt trăng vàng úa như những kẻ mác chứng hoàng đản...
--!!tach_noi_dung!!--


Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 4 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--