Rút cây roi tre từ trên chái nhà ra, ba tôi nhịp nhịp nó lên tấm phản, miệng ông không ngớt hỏi tội tôi:
- Hoàng, tại sao mày dám bỏ nhà đi chơi. Không lo dọn dẹp nhà cửa, không lo ôn tập hè, cũng không thèm nấu cơm? Trưa rồi mẹ mày và tao về ăn gì đây? Còn thằng Tý, mày rủ rê hắn chặt tre làm chi để hắn chặt vô chân hắn? Ba nó về đây bắt đền tao mày biết không? Sao mày ăn rồi chạy lông bông, phá làng, phá xóm vậy hả? Hả? Cái thằng trời đánh kia?
Tôi vòng tay, cúi đầu đứng trước ba tôi, nghĩ đến sự đau đớn khủng khiếp của ngọn roi sắp quất lên người mà rụng rời. Tuy thế, tôi vẫn không trả lời được những câu hỏi dồn dập của ba tôi.
Ông nhịp roi nhanh vun vút lên tấm phản:
- Mày điếc hả, hay mày lì, sao không nói? Tại sao mày cứ chạy ra chơi ngoài nghĩa địa hoài vậy? Ngoài đó có gì hấp dẫn mà mày mê dữ vậy?
Tôi vẫn câm như hến. Vút! Vút! Hai roi quất vào mông tôi mà không cần đợi tôi nằm dài ra phản. Tôi oằn người vì đau, nhưng tôi không van xin, cũng không nói lên những việc tôi định làm ngoài nghĩa địa. Tôi không muốn ba tôi chia xẻ với tôi những lo lắng, thương yêu mà tôi dành cho người mẹ đã chết. Tôi biết, ba tôi không còn nhớ thương gì đến mẹ tôi nữa.
Lại vút! Vút! Trót! Trót! Những ngọn roi quái ác, tàn nhẫn in tới tấp lên lưng, lên mông, lên hai bắp chân tôi. Tôi vẫn cắn răng chịu đựng. Ba tôi rít lên.
- Thật là một thằng ranh con lì lợm! Tao sẽ cho mày mềm xương ra.
Tôi biết, càng lì mặt đứng đó, càng bị đánh tới tấp. Nhưng mặc, tôi cứ cắn răng chịu trận.
Tiếng dì Xuân và nhiều người nữa đã bu đông lại trước cửa nhà tôi cùng la ó, can gián. Dì Xuân sấn tới giật cây roi, nói giọng căm tức:
- Chú Sơn! Răng chú ác rứa? Ðánh chi mà đánh dữ rứa? Con chú chớ bộ kẻ thù chi chú mà muốn giết hắn chết đi? Ác vừa vừa thôi chú ơi. Ai xui, ai biểu chú mà chú không biết thương con chớ.
Ngay tức khắc, tiếng dì ghẻ tôi ở gần đó, chua cay:
- Nì! Im cái họng nghe. Ðừng có nói xiên nói xỏ người ta nghe! Việc nhà người ta, để người ta lo. "Ðèn nhà ai, nhà nấy rãng." Xía vô rồi có người nói là định giựt chồng người ta đó.
Tiếng dì Xuân "hừ, hừ" trong họng. Tiếng nhiều người xì xà, đay nghiến. Tôi không chú ý lắm, chỉ chờ đợi những ngọn roi quất điếng lên người. Nhưng không, ba tôi không còn ở đó nữa. Ông theo tay kéo của một người hàng xóm đi ra khỏi ngõ.
Dì Xuân bẻ đánh "rốp" cây roi, quẳng vào góc nhà. Dì không thèm nói gì nữa, ôm lấy tôi dìu qua nhà dì. Ðặt tôi nằm lên chiếc chõng tre, dì xuýt xoa rờ rờ lên lưng tôi. Ðang nằm úp mặt xuống giường, tôi vẫn cảm thấy những giọt nước mắt nóng hổi nhiễu lên lưng tôi làm xót rát những vết roi có lẽ rướm đầy máu.
Dì Xuân hỏi vỗ về:
- Răng con dại rứa con? Ba con không ưng con bỏ nhà đi chơi, con đi chỉ để bị đánh thảm thương ri hè?
Tôi tấm tức khóc trước những lời nói nghẹn ngào của dì Xuân:
- Răng con cứ ưa ra nghĩa địa làm chi mà ra mãi rứa hả?
Nướcmắt chảy ròng ròng, tôi vẫn không nói.
- Rứa sáng ni con làm chi mà thằng Tý suýt gãy cẳng hả?
Thổn thức một hồi, tôi mới nói được:
- Con rủ thằng Tý chặt tre...
- Trời ơi, hết cách chơi răng con chơi dao, chơi rựa?
- Con không chơi đâu dì. Con biểu thằng Tý chặt tre làm nhà...
- Trời ơi, bày trò chơi làm nhà, làm cửa nữa?
- Không phải bày trò đâu dì. Con định chẻ tre, lợp cho mẹ con một mái nhà kẻo nắng rọi mẹ con nóng lắm dì. Mai mốt tới mùa mưa, mẹ con cũng khỏi bị ướt, bị lạnh đó dì.
Dì Xuân la trời một lần nữa rồi dì khóc kể:
- Sen ơi là Sen! Răng em chết chi sớm để con em tội tình dữ ri nè. Còn cha đó mà như mồ côi, mồ cút. Cha hắn giờ chỉ biết con ngựa Thượng tứ đó thôi, còn biết chi tới con với cái nữa. Hu hu...
Dì xịt mũi vào ống quần đen rồi dì lại khóc. Nước mắt của dì làm tôi thêm tủi thân. Tôi vùng dậy ôm chặt lấy dì, khóc oà. Con Kim Anh ngồi bên mẹ cũng ôm mẹ khóc.
Lát sau, khóc đã nư, dì Xuân tỉnh táo nói:
- Kim Anh, lui sau bếp bới tô cơm, bỏ vài con cá bống thệ kho ném, lựa con mô lớn nhất đó, đem lên cho thằng Hoàng ăn.
Kim Anh dạ nhưng vẫn đứng bên, hỏi rụt rè:
- Còn bác Sơn và dì Lan thì sao mẹ?
Dì Xuân trợn mắt lên:
- Sao là sao? Cho họ đói chớ sao. Bộ họ không biết đi ăn cơm tiệm à? Không lo được bữa cơm hay sao mà bắt thằng nhỏ 7,8 tuổi lo hầu hạ họ hả?
Ðược lời như cởi tấm lòng. Dì Xuân thiệt là hiểu bụng tôi. Ðã lâu, mỗi lần phải gò lưng chúi đầu vô ông bếp thổi lửa phù phù, khói mù cay mắt, tôi hay nhủ bụng: "Tự dưng mình phải hầu hạ, cơm nước mãi hai con người ác nhơn đó."
Những lúc ấy, tôi buồn rầu nghĩ mãi, không hiểu sao ba tôi lại ưa đánh đập tôi một cách dữ dội như thế. Vô lẽ ba tôi không còn thương tôi? Hay ba tôi điên? Hay tôi không phải là con ruột của ông? Nhưng ngày mẹ tôi chưa mất, ông cưng tôi lắm mà?!
Sau cái vụ làm nhà che nắng, che mưa cho mẹ không thành, lại bị một trận đòn nên thân, tôi càng đâm ra lì lợm, càng ghét mẹ kế và xa lánh ba tôi hơn.
Cũng vậy, ba tôi càng ham đánh đập tôi hơn. Cứ mỗi lần dì ghẻ tôi nói hờn mát bất cứ chuyện gì có dính dáng đến tôi, y như rằng ba tôi lại lôi tôi ra đánh. Gãy hết cây roi tre này thì vót cây roi kháng!!-- ---~~~mucluc~~~---


Chương 21

Tôi đến lớp đều đặn suốt hai tuần liền. Bọn bạn trong lớp rất chiều chuộng tôi. Chúng sẵn sàng nghe theo bất cứ đòi hỏi nào của tôi. Chúng làm như tôi là kẻ đem lại ân huệ lớn lao cho chúng vậy. Các bạn tôi làm sao biết được, tôi cũng rất khoái nghe cô giáo kể chuyện với lời mở đầy rất hấp dẫn: "Ngày xửa, ngày xưa, có một ông vua..." cô kể chuyện thì nhất, lôi cuốn, diễn đạt tuyệt vời hơn cả trong sách nữa kia!
Một bữa, sau khi kết thúc câu chuyện "Một đòn chết bảy mạng", cô kể tiếp đoạn đầu câu chuyện "Cô bé bán diêm," cô giáo vui vẻ bảo cả lớp:
- Bấy lâu nay cô kể chuyện cổ tích sau mỗi buổi học đó là cô đang thử nghiệm một "sáng kiến kinh nghiệm" của cô. Cô thấy mình đã thành công. Suốt hai tuần nay, em Hoàng đi học đều đặn và có vẻ thích thú những câu chuyện kể của cô. Từ trước, ngoại trừ Hoàng, các em như Tú, Mít, Vũ đã đến trường đều đặn. Bây giờ, đến lượt Hoàng, cô rất vui. Chiều nay, ở nhà cô, cô sẽ bắt đầu viết bản tường trình về "Sáng kiến kinh nghiệm" của cô để ra mắt hội đồng giáo viên trường vào đợt kết thúc học kỳ 1.
Các bạn tôi cùng cười tươi như chia xẻ với cô niềm vui đó. Riêng tôi, tôi thầm nhủ: "Cô thành công à? Không đâu. Hãy đợi mà xem!"
Hai hôm sau tôi vẫn đi học. Cuối giờ, cô giáo bắt đầu kể đoạn kết câu chuyện " Cô bé bán diêm":
-...cây diêm trên tay cô bé tắt ngấm. Con ngỗng quay cùng những chiếc nĩa cấm trên lưng biến mất. Cô bé cuống cuồng rút cây diêm khác, run run đánh đầu diêm vào hộp. Ánh sáng nháng lên, lập loè. Lần này cô bé thấy một cây thông với những hộp quà đủ màu sắc cùng những bóng đèn màu lộng lẫy treo đầy trên đó. Sợ những hình ảnh biến mất một lần nữa, cô bé quẹt diêm liên tục, hết que này đến que khác...Ánh sang cây diêm lại tắt ngắm. Tất cả biến mất. Cô bé tiếc quá và cũng lạnh quá, ứa nước mắt khóc. Vừa run rẩy, vừa quáng quàng mò trong đống vỏ diêm, cố tìm một que nào đó còn sót lại. Ðây rồi, còn một que. Cô bé vội vã đánh diêm. Ôi! Lần này là bà ngoại, người bà ngày còn sống rất thương cô. Trên trời cao, bà từ từ hạ xuống bên cô bé, dịu dàng hỏi:
- Cháu yêu của bà. Cháu có muốn theo bà không?
Cô bé gật đầu tức thì:
- Vâng. Cháu muốn theo với bà. Ở đây lạnh quá và cháu cũng đói lắm bà ạ.
- Cháu lên trên kia với bà. Nơi đó không có đau khổ, không có rét mướt, không có ai đánh đập cháu đâu. Ði, đi với bà.
Thế rồi, bà Ngoại nâng cô bé dậy cùng bay lên trời...
Tờ mờ sáng hôm sau, nhiều người đi lễ khuya về muộn bắt gặp một con bé gầy gò, rách rưới nằm chết cóng trong góc chợ. Bên cạnh nó là một đống vỏ diêm và que diêm đã được dùng hết. Họ chép miệng, lắc đầu bảo nhau:
- Tội nghiệp con bé lang thang. Có lẽ nó lạnh quá phải đốt hết diêm một lần để sưởi ấm.
- Vậy là hết phim! Cô giáo vừa mới tuyên bố sau khi chấm dứt câu chuyện thì tôi bật đứng lên nói lớn:
- Cô xạo!
Cả lớp hốt hoảng quay lui nhìn tôi. Tôi chẳng cần để ý tới bọn chúng mà nhìn vào cô, đọc rõ vẻ chưng hửng trong mắt.
Tôi nói tiếp với giọng hung hăng, hỗn xược:
- Cô xạo đó. Bọn này đừng tin! Cô bé chết cóng một mình rồi lấy ai biết chuyện nó mà kể lại mọi việc lớp lang như cô đã kể. Chẳng phải cô đã phịa ra là gì.
Rồi tôi cười khẩy, giáng xuống những đòn cuối cùng:
- Phịa chuyện dở ẹc. Tui có ưa đâu. Sỡ dĩ tui đi học đều là vì con Kim Anh nó thuê tui bằng một con chim nhồng đó.
Cô giáo nhìn sững vào tôi một lúc như mất hồn. Tôi cũng nhìn lại, đầy thách thức. Tôi chờ xem những giọt nước mắt ứa ra trên mi cô. Vậy mà không. Mắt cô vẫn ráo hoảnh nhưng rất buồn. Cô không nói gì, đôi môi mím chặt. Lặng lẽ, cô ra khỏi lớp.
Con Kim Anh gục đầu trên bàn khóc tức tưởi. Cả lớp quay lại nhìn tôi với vẻ trách móc nặng nề. Nhiều tiếng lào xào chửi tôi:
- Ðồ quỉ sứ!
- Ðồ phá đám!
- Hỗn hào như gấu!
- Mất dạy gì đâu!
-...
Tôi chẳng thèm đáp lại bọn chúng. Tôi bận ngó theo bóng cô. Vẫn đứng tại bàn, tôi nhìn qua cửa sổ?
Cô giáo, với chiếc áo dài trắng, tấm vét nỉ tím phủ lên đôi vai gầy, đứng chơ vơ bên bờ đất, ngóng mặt về dưới thung lũng. Cảnh tượng đẹp quá và buồn quá. Cô giáo đứng mãi nơi ấy như hóa đá.
Bỗng tôi nghe cay cay sống mũi. Trông cô gầy đi nhiều và dáng cô đứng mới chơi vơi, đơn độc làm sao! Tôi cũng đã từng như cô, một mình đứng ở đó, vọng mắt về phía thung lũng xa. Không biết lúc này cô mơ ước gì. Riếng đối với tôi, những lúc ấy, tôi ước mơ rất nhiều, rất nhiều những điều không tưởng...
Cô giáo quay trở vào lớp. Mắt cô đằm thắm và buồn vời vợi nhưng vẫn không một giọt nước mắt. Thấy tôi đứng thẳng đơ như bị trời trồng, cô mỉm cười vẫy tay. Sực tĩnh, tôi ngồi phịch xuống ghế.
Cô giáo đứng trước lớp, nhìn khắp một lượt rồi bình thản bảo:
- Ðã 12 giờ 30 nhưng cô vẫn còn muốn nói với các em đôi điều. Thứ nhất, cô muốn nhắc nhở em Hoàng và cả lớp rằng đừng bao giờ nói với người lớn bằng cái giọng kém lễ độ như thế, nhất là với thầy cô giáo, những người thay mặt cha mẹ để dạy dỗ các em ở trường. Thứ hai, cô muốn nhấn mạnh rằng câu chuyện "Cô bé bán diêm" không phải là chuyện bịa. Tác giả câu chuyện này là ông An-đéc-xen người Ðan Mạch. Một hôm, ông đến Paris, thủ đô nước Pháp, để nghỉ đông.
http://eTruyen.com


Nguồn: Thời áo trắng
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 6 tháng 4 năm 2007


© 2006 - 2024 eTruyen.com