Chương 8

Nhìn Thoại bị xích chân ngồi nép vào một góc nhà với củ khoai luộc trên tay. Cần bất nhẫn quá. Anh vừa bước tới định mở khoá cho ông chú thì nghe Thế quát:
- Không được tháo xích!
Cần cau mày:
- Bị cột suốt ngày như vầy, làm sao chú Út chịu nổi?
Thế cười gằn:
- Ổng khoẻ còn hơn trâu. Thả ra, lỡ ổng lên cơn, ai giữ ổng được?
- Anh nói thế, chớ đã bao giờ chú Út lên cơn chưa?
- Mày ở Đà Lạt lâu lâu mới về thì biết quái gì mà nói. Dạo này ổng có tật gặp đàn bà con gái là ôm. Hừ! Điên mà cũng đa tình. Ổng thì sướng rồi, chỉ khổ mấy thằng tỉnh như tao phải ngồi lì mặt nghe thiên hạ chửi.
Cần nói:
- Bệnh mà sướng nỗi gì. Bác Hai đã rước chú về nhà thì phải chịu trách nhiệm chăm sóc. Nếu làm không được thì để chú Út về nhà em.
Thế gạt ngang:
- Thôi đi. Má mày chịu cho ổng ở chung sao? Hừ! Tới gần, bả còn chưa dám, nói chi tới việc lo cơm nước, tắm rửa hàng ngày cho ổng.
Cần làm thinh nhìn Thoại. So với hôm mới ở bệnh viện về, bữa nay trông chú hốc hác xanh xao, lẫn bẩn thỉu hôi hám gấp mấy lần. Đã vậy, chú còn húng hắng ho vì bị nhiễm lạnh nữa. Càng nhìn Thoại, Cần càng thương tâm.
Giọng cương quyết, Cần nói:
- Thả chú Út ra, tôi sẽ coi chừng.
- Không được. Thả ra, ổng sẽ quậy liền. Từ cắt cổ chó tới cắt cổ người ta hổng bao xa đâu.
Cần rùng mình, anh ấp úng:
- Tôi không tin chú Út đã làm chuyện đó.
Thế hất hàm:
- Tin hay không, nó cũng đã xảy ra. Chính tao là người giấu cái áo dính máu của ổng. Thú thật, hôm đó tao sợ muốn chết khi nghĩ ổng đã giết ai đó.
Cần thẫn thờ:
- Trước đó chú Út rất hiền và hầu như đã gần hết bệnh, sao tự nhiên lại.... lại....
Thế bực dọc:
- Tao không phải bác sĩ, làm sao trả lời được. Nếu biết ổng trở bệnh như vầy, thà để ổng trong bệnh viện luôn còn khoẻ hơn đem ổng về hầu hạ.
Cần nhếch môi. Đâu phải tự nhiên vợ chồng bác Hai đưa chú Út về để chăm sóc. Chẳng qua ông bà muốn được danh chánh ngôn thuận trước pháp luật là người giám hộ tài sản được thừa kế của chú Út, chớ đâu phát sinh từ trách nhiệm, từ lòng yêu thương.
Suốt mười năm nay, chẳng biết bác Hai đã mấy lần rước chú Út về, rồi lại đem trả vào bệnh viện. Mỗi lần như vậy, Cần có cảm giác chú út càng tiều tuỵ, và càng điên nặng hơn. Nhưng với giòng họ, bà con, lúc nào vợ chồng bác Hai và Thế cũng kể lể công chăm sóc đứa em điên khùng của mình. Trái với bác Hai, ba mẹ Cần luôn giữ thái độ im lặng với chút ray rứt vì đã bỏ mặc em trai trong bệnh viện.
Cần thấy áy náy khi nghiệm ra rằng, mình ít quan tâm tới ông chú bất hạnh, dù hồi anh còn bé, chú Út là người thương anh nhất.
Nhìn Thế, Cần nói:
- Tôi nghĩ tại bác Hai và anh dùng biện pháp cứng rắn quá nên chú Út mới có biểu hiện như vậy. Nếu dịu dàng hơn, chắc chú Út đâu đến nỗi.
Thế cười khẩy:
- Dịu dàng? Mày đã thấy ai dịu dàng với một con chó điên chưa?
- Anh nói vậy nghe được à? Nếu không chăm sóc chú Út chu đáo thì anh đưa chú trở lại bệnh viện đi.
- Hừ! Bệnh viện làm sao có tình cảm thắm thiết như ở gia đình. Ba mẹ mày đã bỏ mặc chú Út, thì mày cũng chẳng tư cách gì để lên lớp với tao.
Thế lừ mắt, nói tiếp:
- Bữa nay mày qua đây làm chi?
Cần gãi đầu:
- Tôi muốn tìm một số sách của chú Út trước kia.
Thế hất hàm:
- Tao nghĩ mày nên mang hết mấy cái kệ sách về nhà đi. Để đây chả ai coi, đã vậy còn bụi bậm, mối mọt, choán hết cả một phòng.
Cần ngập ngừng:
- Nhưng sách đó của chú Út mà.
Thế bật cười:
- Ai không biết. Bộ mày sợ mai mốt ổng hết điên sẽ đòi lại sách để tham khảo hả? Nếu thương ổng, mày đem hết về bển giùm. Còn không, sớm muộn gì bà già tao cũng gọi ve chai vào cân ký. Bả đã hăm he rồi đó.
Cần vội vàng nói:
- Sách của chú Út toàn là sách quý, bán ve chai uổng lắm. Tôi sẽ dọn hết về nhà mình. Căn phòng ấy sẽ dùng làm phòng cho chú Út.
Thế cao giọng:
- Cho ổng ở một phòng riêng rồi ai dọn dẹp, hầu hạ? Tốt nhất là để ổng ở ngoài chòi như bây giờ, cho ổng tha hồ quậy.
Cần xót xa nhìn chú Thoại. Chẳng biết những lúc khác chú đã quậy ra sao mà lúc này khi bị xích, trông chú tội nghiệp như đứa bé vừa qua một trận đòn?
Đốt một điếu thuốc, anh bước đến đưa cho Thoại. Mắt sáng lên, thảy củ khoai đang ăn giở xuống đất, Thoại cầm điếu thuốc rít một hơi thật dài rồi bập bẹ:
- Cảm.... ơ....n.
Cần nhìn Thế:
- Chú Út đâu đến đỗi như anh nói.
Thế thản nhiên:
- Một chút lịch sự còn sót lại trong tiềm thức tối mù đâu đủ sức nói lên tất cả.
Cần đề nghị:
- Thả chú Út ra, tôi đưa ổng đi dạo cho khoây khoả.
- Dẹp đi mày. Lấy sách thì lấy phứt cho rồi, đừng chuốc khó vào mình nữa.
Ngần ngừ nhìn ông chú lim dim mắt, thở ra khói như một triết gia, Cần lắc đầu, bỏ vào phòng sách. Anh đã hứa sẽ cho Thiên Di mượn bộ Khải Hoàn Môn nên phải sang đây tìm. Nếu không, Cần cũng đâu tận mắt chứng kiến chỗ ở hiện giờ của chú Thoại.
Vậy mà hôm đó, anh đã nói với Trác bằng giọng chắc nịch rằng, chú Thoại được chăm sóc rất chu đáo. Thật ra, gia đình bác Hai đã cố ý quên chú ấy là một con người. Có lẽ Cần phải đem chuyện này bàn bạc với ba mẹ, anh không cam tâm nhìn chú Út đã bất hạnh còn bị đày đoạ.
Không phải tìm lâu, Cần đã thấy bộ Khải Hoàn Môn gồm hai quyển nằm ở một góc kệ sách. Bụi bặm, ẩm mốc làm cuốn sách dầy cộm, Cần phủi bụi rồi nâng niu chúng trong tay.  Cũng may bác Hai va anh Thế ghét đọc sách. Nếu không, dễ gì anh được thừa hưởng chúng. Ngày mai, Cần sẽ đưa toàn bộ sách này về nhà mình. Anh muốn cất giữ cẩn thận những kỷ niệm một thời của chú Thoại, vừa là cất giữ những tác phẩm văn học có giá trị mà bây giờ tới các hiệu sách tìm chưa chắc có.
Ra khỏi phòng sách, Cần lại đụng đầu Thế. Anh ta đang tựa cửa, phì phèo thuốc lá.
Thế bỗng hỏi:
- Mày với con bé Thiên Di tới đâu rồi?
Cần hơi bất ngờ:
- Tụi này chỉ là bạn thôi.
Thế cười đểu giả:
- Con bé ấy coi bộ muốn chồng lắm rồi. Mày không tiến tới thì để cho tao. Giậm chân ở giới hạn bạn làm chi cho phí của giời.
Cần gằn giọng:
- Dễ gì bà Thuỷ để người có bàn tay nhớp nhúa đụng vào cháu bả. Anh đừng có mơ.
Thế hùng hổ:
- Mày vừa nói gì, thằng quỷ?
Vừa đi, Cần vừa bảo:
- Anh nghe rõ lắm mà. Đừng giả vờ hỏi nữa.
Ra tới cổng, Cần vẫn nghe giọng Thế đuổi theo:
- Tao đã muốn, mười con mụ Thuỷ tao cũng chấp.
Vờ như không nghe gì cả. Cần đi một mạch về nhà mình. Hai nhà cách nhau một con đường đất đỏ, nhưng chẳng mấy khi ba mẹ anh và vợ chồng bác Hai qua lại. Nguyên do chỉ vì hai chị em bạn dâu rất ghét nhau.
Hồi ông bà nội còn sống, Cần còn hay lui tới đây, nhưng từ khi ông bà buồn phiền vì chú Út rồi lần lượt qua đời. Cần cũng ít ghé ngôi nhà của ông nội để lại cho con trai trưởng này. Chú Út cũng ở đây, nên gia đình anh vô tình đã thiếu quan tâm tới chú.
Bước vào nhà, Cần thấy mẹ đang ngồi đếm tiền. Vừa nhướng mắt nhìn anh, bà vừa hỏi:
- Con đi đâu về vậy?
Ngồi xuống, Cần nói:
- Qua nhà bác Hai tìm mấy quyển sách.
Bà Vui cau mày:
- Sách gì? Sao không ra tiệm mua mà phải qua bên ấy? Mày lục lục soạn soạn, không khéo người ta lại vu lên là mất đồ như hồi đó.
- Trời ơi! Con lớn rồi, bộ ai muốn vu oan gì cũng được sao? Vả lại, những cuốn sách này của chú Út mà. Rồi con sẽ mang hết phòng sách ấy về. Lúc nãy anh Thế đã yêu cầu con như vậy.
Bà Vui bĩu môi:
- Tốt quá nhỉ? Nếu đó là thứ bán được tiền, thử coi nó có tử tế như vậy không. Tao không cho mày tha ba cái đống mối mọt ấy về nhà đâu. Những thứ ấy của thằng tâm thần đó xui thấy mồ. Không khéo lại mang họa vào thân.
Cần thản nhiên:
- Con mang về để trong phòng con. Nếu mẹ không đồng ý, con sẽ thuê xe chở về Đà Lạt. Căn nhà này để cho ba mẹ ở. Con không về đây nữa đâu.
Bà Vui xụ mặt:
- Hừm! Mày lại doạ tao à? Đấy. Muốn làm gì thì làm. Tối ngày cứ sách với vở. Học cho nhiều, lỡ điên thì khổ con ạ. Cứ như thằng Thế, xong cấp ba ở nhà coi sóc trang trại vẫn giàu to. Tao chả biết chừng nào mới nhờ được mày đây?
Cần có vẻ dỗi:
- Mẹ không phải cằn nhằn nữa. Con sẽ nghỉ học ngay để về làm công nhân trang trại. Bao nhiêu người cầu mong có con học đại học, chỉ có mẹ là muốn con mình dốt, con mình làm culi suốt đời.
Bà Vui hạ giọng:
- Tại mẹ thấy học nhiều như chú Út, rồi chả được tích sự gì, nên mẹ sợ.
Cần ngả đầu ra salon:
- Chú Út điên vì thất tình chớ có phải vì học đâu. Mẹ đừng.... ép duyên con thì con chả bao giờ mát cả.
Bà Vui lườm:
- Cái thằng, ăn với nói.
Bà Vui bỗng hỏi lãng sang chuyện khác:
- Qua bên đó, con gặp ai?
Cần thở dài:
- Con gặp ông Thế và chú Út. Phải nói là trông chú ấy tội nghiệp thật. Bị xích lại, ngồi nép trong hốc chòi y như một con chó. Bên đó đối xử với chú Út rất tệ, làm sao chú hết bệnh cho được.
Bà Vui chép miệng:
- Điên đã mười năm, làm sao mà hết.
- Nhưng nếu được chăm sóc tốt, bệnh sẽ không nặng thêm.
Ngập ngừng một chút, Cần hạ giọng:
- Hay là mình rước chú Út về nhà mình đi mẹ.
Giãy lên như đỉa phải vôi, bà Vui la:
- Không được! Mày muốn tao chết vì đau tim chắc?
Cần nói:
- Con thấy chú Út cũng hiền.
Bà Vui tiếp tục la:
- Không dám hiền đâu. Nó đã từng nổi cơn đâm bị thương một y tá trong bệnh viện. Hổm rày thiên hạ xì xào cũng nhiều, tao không rước họa vào nhà đâu.
Cần bực bội đứng dậy:
- Ai cũng chỉ nghĩ tới mình. Đúng là ích kỷ.
Thấy Cần dắt xe ra, bà Vui gắt:
- Mày lại đi đâu nữa?
- Con ra quán cà phê.
Không đợi bà Vui la thêm câu nào, Cần phóng xe đi. Hôm nay anh có hẹn với Thiên Di. Đi lúc này có hơi sớm, nhưng Cần hết muốn ở nhà rồi. Anh thèm có những phút riêng tư bên một người đồng thanh đồng điệu với mình. Nghĩ tới Di, Cần bỗng phấn chấn hẳn lên, anh chúm môi huýt gío và tăng tốc.
Tới quán cà phê lịch sự nhất thị trấn, Cần chọn một bàn khá kín đáo và dài cổ đợi chờ. Đây là lần đầu Cần hẹn Thiên Di ra quán. Cô hứa sẽ đến và anh tin lời hứa đó của cô.
Nghe vừa hết bài " Rừng xưa chưa khép " thì Cần thấy Thiên Di. Cô bước vào quán với vẻ tìm kiếm và bước đến chỗ Cần khi anh đang kéo ghế đứng dậy.
Thiên Di có vẻ bứt rứt:
- Xin lỗi vì đã tới trễ.
Cần mỉm cười:
- Tôi lại thấy thú vị khi được chờ.
Di châm biếm:
- Anh rảnh rỗi dữ vậy sao?
Cần thở dài:
- Thú thật, tôi không biết phải làm gì trong ngôi nhà của mình.
Thiên Di kêu lên:
- Trời! Sao có người sướng dữ vậy?
Cần cau mày:
- Phải. Sướng quá nên tôi hết muốn về nhà.
Di nhìn anh, tò mò:
- Gặp chuyện bực mình à?
Cần không trả lời, anh hỏi:
- Di uống gì?
- Sữa cacao.
Cần hóm hỉnh:
- Không sợ mập hả?
Thiên Di tỉnh bơ:
- Trẻ khoẻ như cô gái Hà Lan. Sợ gì mà sợ.
Hai người cùng cười. Nụ cười tự nhiên của Di khiến Cần tự tin hơn. Anh lôi trong túi xách ra hai cuốn Khải Hoàn Môn và để lên bàn:
- Của Di đây.
Mắt Thiên Di sáng rỡ:
- Anh mau mắn thật. Vừa mới hỏi đã có rồi.
Cầm sách lên, Di lật trang đầu và ngạc nhiên:
- Ủa! Sách của chú anh à?
- Chớ tôi làm gì có sách này.
Thiên Di trầm trồ:
- Trần Vĩnh Thoại. Tên đẹp mà chữ cũng đẹp.
Cần bùi ngùi:
- Trước khi bệnh, chú Thoại tài hoa lắm. Ổng đàn classis rất hay, hát cũng rất khá.
Thiên Di gật gù như bà cụ non:
- Tài hoa thường bạc mệnh. Anh không nghe câu đó sao? Nhưng lý do gì mà vợ chú ấy lại bỏ đi ngay đêm tân hôn vậy?
Cần tránh né:
- Lúc đó tôi còn nhỏ, nên đâu hiểu chuyện của người lớn. Đến khi lớn thì không ai muốn nhắc tới nỗi đau ấy nữa.
Di buồn tay lật vẩn vơ những trang sách đã ngã vàng và cầm lên một tờ giấy cũng không còn mới.
Cô lẩm nhẩm đọc:
Chiều tím màu hoa Cẩm Tú Cầu
Anh chờ nhưng chẳng thấy em đâu.
Một mùa trăng nhớ đang tàn úa.
Đàn khóc cùng năm ngón tay đau.
Thiên Di cảm thấy tim đập mạnh, cô hấp tấp hỏi:
- Phải vợ chú Thoại tên Cẩm Tú Cầu không?
Cần miễn cưỡng đáp:
- Ờ. Cô ấy là Cẩm Tú Cầu.
Cần lắc đầu, nói thêm.
- Đúng là không có gì qua được mắt phụ nữ.
Thiên Di nhún vai:
- Anh nói tôi tò mò cũng chẳng sao. Thú thật, tôi rất muốn biết chuyện ngày xưa của chú anh đó.
Cần hỏi:
- Thế còn chuyện bây giờ của chúng ta thì sao?
Thiên Di mồm mép:
- Ôn cố tri tân. Ngẫm chuyện xưa mà nghĩ chuyện nay cũng tốt mà. Từ nhà tới đây tôi vẫn lo không biết sẽ nói gì với anh. Giờ thì hết lo rồi. Anh sẽ nói, tôi chỉ nghe thôi.
Cần ngập ngừng:
- Tôi biết chút ít thôi hà.
- Thì kể chút ít.
Nhìn vẻ chờ đợi của Thiên Di, Cần uống một hớp cà phê rồi trầm giọng:
- Hồi đó, chú Thoại ra Đà Lạt học, và đã để ý một cô gái đẹp có cái tên ngồ ngộ là Cẩm Tú Cầu. Đó là tên một loài hoa có nhiều ở Đà Lạt. Ba của Cẩm Tú Cầu cũng làm ăn với ông nội tôi, nên khi biết hai người quen nhau, nội đã đi hỏi Cẩm Tú Cầu cho chú Thoại. Mọi việc diễn biến tốt đẹp. Cẩm Tú Cầu không hề tỏ thái độ gì phản đối cuộc hôn nhân. Trái lại, cô ấy còn có vẻ hạnh phúc bên chú Thoại. Đám hỏi rồi đám cưới diễn ra suông sẻ trong sự hân hoan của gia đình hai bên. Nhưng tối đêm tân hôn, chú Thoại đã tuyệt vọng đến mức suy sụp hoàn toàn khi không thấy cô dâu đâu, ngoài lá thư để lại trên giường.
Thiên Di tò mò:
- Trong thư đã viết gỉ?
Cần chép miệng:
- Tôi không rõ nội dung, nhưng chắc là những lời xin lỗi, hoặc biện minh cho việc bỏ đi của mình.
- Thế Cẩm Tú Cầu đi đâu?
Cần lắc đầu:
- Nếu biết, chắc lúc đó chú Thoại đã không lên cơn điên.
Chống tay dưới cầm, Di thắc mắc:
- Đúng là kỳ lạ. Rồi sau đó, Cẩm Tú Cầu có quay về không?
Cần nói:
- Không. Cẩm Tú Cầu đã một đi không trở lại. Trong ký ức của tôi, hình ảnh của cô ấy cứ mù mờ hư hư thật thật, dù Cẩm Tú Cầu có nhiều điểm độc đáo khiến người khác khó lòng quên khi đã quen cô ấy.
Thiên Di hỏi tới:
- Đó là điểm gì vậy?
Cần nói:
- Tôi không biết.
Tủm tỉm cười, Thiên Di bưng ly sữa lên. Thái độ của cô làm Cần thắc mắc:
- Sao Di cười?
Di cao giọng:
- Dường như Cẩm Tú Cầu có ảnh hưởng rất lớn tới anh?
Mặt đỏ lên, Cần ấp úng:
- Di nói gì kỳ vậy? Với Cẩm Tú Cầu khi ấy, tôi chỉ là một thằng nhóc.
Thiên Di ranh mãnh:
- Là nhóc con thì không biết yêu, biết ghét hay sao?
Cần trả đũa:
- Coi bộ Thiên Di rành về chuyện tình cảm ghê.
Thiên Di thản nhiên:
- Ờ. Rành. Tôi thất tình nên mới bỏ phố lên rừng đó chớ.
Mặt Cần nghệt ra trông thật buồn cười. Anh ấp úng:
- Trông Di đâu giống người thất tình.
Thiên Di hấp háy mắt:
- Thế nào mới giống thất tình? Phải mát như chú anh hả?
Cần im lặng. Anh thật sự không biết Di nói thật hay đùa. Theo anh, một cô gái lúc nào cũng đầy tự tin như Di không thể thất tình được. Còn nếu có, hẳn gã đàn ông kia chắc phải là một người hết sức dữ dội nên mới đủ sức đốn ngã Thiên Di.
Thấy Cần làm thinh, Di nghĩ là anh giận liền nói:
- Xin lỗi. Tôi đã quá lời.
Cần buột miệng:
- Anh ta như thế nào mà khiến Di phải thất tình nhỉ?
Thiên Di chớp mắt vì câu hỏi bất ngờ của Cần. Cô chỉ đùa, nhưng anh lại tưởng thật mới buồn cười.
Giả vờ đau khổ, Di gạt ngang:
- Đừng bao giờ hỏi về hắn với tôi.
Cần vội vàng:
- Ờ. Không. Tôi sẽ không hỏi nữa.
Thiên Di lại bưng ly sữa lên uống từng hớp nhỏ. Trò chuyện với Cần, cô không thích lắm. Nhưng có người để tán gẫu vẫn vui hơn phải ngồi một mình với chồng vở học trò đầy lỗi chính tả, và những phép toán sai phải sửa. Ở nơi này, có được người bạn như Cần cũng tốt. Chỉ cần khéo léo một tí, cô sẽ bắt Cần giải đáp hết những tò mò, thắc mắc còn đầy trong lòng.
Thiên Di hạ giọng thật ngọt:
- Anh Cần nè!
- Hả?
Thiên Di cong môi:
- Hôm trước, cậu Trác gặp anh làm gì vậy?
Cần trầm giọng:
- Ông ấy hỏi thăm về chú Thoại.
Làm ra vẻ hiểu chuyện, Di nói:
- Chắc cậu Trác nghi chú anh hù doạ và giết chết con chó cưng của Phi Phụng. Chả lẽ chú anh đã làm chuyện ấy sao?
Cần vội vã nói:
- Chú tôi không làm chuyện đó. Ông Trác đã nói với Phi Nga là một công nhân trang trại vì thèm thịt chó đã làm mà.
Thiên Di ngỡ ngàng:
- Phi Nga nói với anh như thế à?
Cần gật đầu:
- Nga còn khoe ông Trác mua đền Phi Phụng một cặp chó Bắc Kinh hơn mười triệu đồng nữa.
Di kêu lên:
- Hai con chó hơn mười triệu đồng. Anh có nghe lộn không vậy?
- Sao lại lộn được? Chó Bắc Kinh đâu có rẻ.
Thiên Di rên rỉ:
- Mười triệu đồng cứu được bao nhiêu người đói. Tôi không nghĩ cậu Trác lại.... lại.... mê muội đến thế.
Xoay ly cà phê trong tay, Cần bảo:
- Khi đã yêu, trái tim người ta còn dám móc ra nữa là mười triệu đồng thì nhằm gì.
Thiên Di nheo nheo mắt:
- Anh cũng rành chuyện yêu đương ghê. Thế anh đã móc tim cho ai chưa?
Nhìn Di, Cần từ tốn đáp:
- Nếu có người nhận, tôi sẵn sàng cho. Yêu như chú Thoại mới là yêu.
Thiên Di bùi ngùi:
- Chú ấy cho Cẩm Tú Cầu cả cuộc đời.
Cần mím môi:
- Nhưng cô ta đã phá hỏng nó. Cẩm Tú Cầu thật không xứng đáng với tình yêu của chú Thoại chút nào.
Di gật gù:
- Anh nói đúng.
Rồi cô chợt hỏi:
- Chú Thoại dạo này ra sao? Có đỡ hơn trước không?
Cần xụ mặt:
- Chú ấy bị anh Thế nhốt tối ngày, trông tội lắm. Tôi thấy bệnh tiến triển theo chiều hướng xấu.
Thiên Di hỏi:
- Vậy sao không mang chú ấy trở lại bệnh viện?
Cần ngập ngừng:
- Bác tôi muốn giữ chú Út ở nhà để chăm sóc. Chú ở bệnh viện thì không có tình cảm của người thân.
Di tán đồng:
- Bác anh nghĩ thế cũng đúng. Tình cảm gia đình rất quan trọng.
Cần bỗng thở dài:
- Nhưng sự thật đâu phải vậy. Tối ngày chú Út bị anh Thế xích trong chòi ở sau vườn trông rất thương tâm. Lúc nãy, tôi vừa có ý kiến đã bị anh ấy mắng. Muốn đem chú Út về nhà, mẹ tôi lại phản đối. Tôi đâm ra chán những người thân của mình và không muốn ở trong nhà nữa.
Thiên Di dịu dàng:
- Vì vậy nên anh ra đây thật sớm để tránh mặt những người thân?
Cần buồn bã gật đầu:
- Gia đình tôi toàn những người vụ lợi, ích kỷ. Bên họ, tôi luôn thấy cô đơn, lạc lõng.
Thiên Di chớp mắt, nhìn Cần. Cô không biết nói sao với anh nữa. Thông thường đàn ông ít khi thổ lộ những chuyện riêng tư, nhưng Cần thì trái lại, anh không giấu ước muốn được thông cảm, an ủi.
Cần giống một cậu bé chưa trưởng thành hơn một người đàn ông từng trải. Có lẽ vì anh được ba mẹ ấp ủ kỷ quá. Khác với Thế lọc lõi, rành đời, quyết đoán. Cần đa cảm và có vẻ yếu đuối như con gái.
Di ái ngại:
- Trong gia đình, không ai hiểu anh sao?
Cần trầm tư:
- Nếu có, chắc chỉ mình chú Thoại, nhưng giờ thì chú không hiểu cả bản thân....
Cần lại thở dài:
- Bởi vậy, tôi buồn lắm.
Thiên Di an ủi:
- Anh vẫn còn bạn bè mà.
Cần bỗng hỏi:
- Di là bạn tốt của tôi chứ?
Di gật đầu:
- Đương nhiên. Ở đây, tôi đâu quen ai ngoài anh.
Cần mỉm cười. Nụ cười của anh có vẻ gì ngơ ngác như trẻ thơ khiến Thiên Di thấy lòng ấm lại. Cô ân cần:
- Có chuyện gì buồn cứ nói ra, buồn sẽ vơi ngay.
Cần ranh mãnh:
- Giờ tôi hết buồn rồi. Cảm ơn Di đã chịu là bạn của tôi. Bây giờ, Di hãy kể về mình đi.
Thiên Di gượng gạo:
- Chuyện của tôi chán lắm.
- Chán, tôi vẫn muốn nghe.
Di chớp mi. Ký ức về ngôi nhà chật chội, nóng bức với ông bố nát rượu lại hiện về làm nhức nhối tâm trí cô. Thiên Di ngập ngừng rồi chậm rãi nói về gia đình, về những ngày tháng mình đã sống ở thành phố lớn đó và đọc thấy trong mắt Cần sự thông cảm thật sự.
Giữa hai người bỗng gần gũi hơn. Thiên Di nhìn những giò lan treo trong quán và nhận ra thật hạnh phúc, nếu có một người bạn chân chính.