Dịch giả: Lê Minh
PHẦN III
Chương 15
CHỐNG ĐỐI TOÀN CẦU HÓA
Chống đối

Ray Boyd: "Sao thế mẹ?"
Dorothy Boyd: "Mẹ bực cái loại vé hạng nhất quá. Trước đây chỉ là bữa ăn ngon hơn. Bây giờ nó là cả một lối sống."
- Trích từ phim Jerry Maguire
Diễn đàn kinh tế Thế giới tại Davos hàng năm là một phong vũ biểu các vấn đề toàn cầu khá tốt. Tháng Hai mọi năm, những nhà toàn cầu hóa của thế giới họp mặt ở khu nghỉ dưỡng vùng núi của Thụy Sĩ để ăn mừng
và bàn về toàn cầu hóa. Tham gia diễn đàn là các nhà công nghiệp hàng đầu, lãnh đạo chính trị, kinh tế, công nghệ, khoa học gia và các nhà nghiên cứu khoa học xã hội đến từ khắp nơi trên thế giới. Mỗi năm có một hay hai nhân vận đứng ra chủ trì. Có năm đó là vị sa hoàng về kinh tế của người Trung Hoa, ông Chu Dung Cơ; có năm là các ông Yasser Arafat, Yitzhak Rabin và Simon Peres; một năm khác là những nhà cải tổ người Nga; có năm là những lãnh đạo kinh tế Á châu bị thất bại tả tơi. Năm 1995, ngôi sao ở diễn đàn là nhà tài phiệt tỉ phú George Soros. Tôi biết điều đó khi được mời dự một cuộc họp báo, trong đó phóng viên các hãng truyền thông lớn trên khắp thế giới vây quanh bàn và phỏng vấn ông Soros, cứ như ông ta là tổng thống của một siêu cường vậy. Và dường như ông ta cũng nghĩ mình là như vậy. Phóng viên của Reuters, Bloomberg, AP-Dow Jones, The New York Times, The Washington Post, The Times của London và The Financial Times,... mọi người thi nhau chất vấn Soros xem ông đánh giá ra sao tình hình Mexico, Nga, Nhật Bản và những khuynh hướng kinh tế toàn cầu. Sau đó họ chạy ra khỏi phòng và dùng điện thoại gửi bài về toàn báo hay trụ sở của họ. Những đánh giá của Soros được đăng trên trang nhất của tờ International Herald Tribune và nhiều báo khác ngay ngày hôm sau.
Nhìn cảnh đó tôi cảm thấy mình đang chứng kiến một chuyển biến quan trọng. George Soros đại diện cho Bầy Thú Điện Tử. Ông ta là một con bò mộng đi đầu trong bầy thú. Có thể là con bò mộng duy nhất được đi đầu. Và đó cũng là lúc dân chúng nhận thấy rằng bầy thú đang thay thế cho Liên Xô, trở thành một siêu cường trong cái thế giới hai cực bây giờ. Chỉ vài năm trước đó, George Soros đã dạy một bài học kinh tế cho vị Thủ tướng Anh lúc đó là ông John Major. Major lúc đó cho rằng đồng bảng Anh đã được định giá một cách đúng đắn. Soros không nghĩ như vậy, và vào tháng 9/1992 Soros đã chỉ đạo bầy thú gây sức ép khiến cho giá trị của bảng Anh hạ xuống mức mà ông ta cho là "thích hợp." Major đã chế giễu, dè bỉu rồi phản đối Soros, rồi đã phải giương cờ trắng đầu hàng và hạ giá trị của bảng Anh khoảng 12 phần trăm. Soros kiếm được một tỷ đô-la lợi nhuận sau hai tháng kiếm chác ở Anh. Vĩnh biệt Liên Xô. Xin chào Bầy Thú Điện Tử.
Điều thú vị là một năm sau khi nhìn ông Soros trong cuộc họp báo đó, tôi đã quay lại Davos để xem ai sẽ là ngôi sao trong năm sau tại diễn đàn, năm 1996. Hôm đó tôi đang đứng trước một máy tính để đọc email thì thấy Soros đi qua. Điều ngạc nhiên là trong năm đó, không thấy ai quan tâm đến ông ta. Ông ta hoàn toàn cô đơn. Điều gì đã xảy ra sau một năm. Vì sao? Ai là ngôi sao ở Davos 1996? Không ai khác mà chính là Gennadi A.Zyuganov, người đứng đầu Đảng Cộng Sản Nga!
Diễn đàn Davos là một diễn đàn mang tính chất tư bản. Vì sao một con khủng long thời kỳ Chiến tranh Lạnh - Gennnadi A. Zyuganov - lại đến và là nhân vật quan trọng nhất trong năm đó? Vì giới thượng lưu chính trị và kinh tế ở Davos năm đó hiểu rằng cái hiện tượng gây chấn động gọi là toàn cầu hóa nay đã sản sinh ra một sự phản ứng mạnh mẽ không kém từ một vài nơi. Và lúc dường như Yyuganov có thể đánh bại Boris Yeltsin để giành chức Tổng thống Nga, và những lực lượng chống đối đang chuẩn bị tiếm quyền trong một quốc gia rộng lớn. Vậy là các vị quản trị lớn đã đến Davos và muốn gặp Zyuganov - "con thú chống đối" - để xem ông ta có dự định gì đối với vấn đề tài sản tư nhân, ngân sách Nga và hối đoái giữa đồng rúp và đô-la. Dạo đó, tôi phỏng vấn Zyuganov và thấy là vào lúc đó ông ta quả thực không biết phải làm những gì về những vấn đề như thế. Dường như ông ta suốt ngày chỉ cố lảng tránh các lãnh đạo phương Tây. Cũng giống như những tầng lớp duy ý chí chống đối toàn cầu hóa, Zyuganov chỉ biết cách tỏ thái độ chứ không đưa ra được chương trình làm ăn đúng đắn; ông ta nói nhiều về vấn đề phân chia thu nhập, hơn là cung cách tăng cường thu nhập.
Tuy nhiên từ ngày đó sự phản ứng chống đối nhằm vào toàn cầu hóa đã trở nên rõ ràng và tràn lan hơn. Rõ ràng là toàn cầu hóa đã cho phép nảy nở những sáng tạo về tài sản và công nghệ chưa từng có. Nhưng những sáng tạo đó, như đã phân tích trong những chương sách trước, đã thay đổi cung cách làm ăn truyền thống, các cơ cấu xã hội, văn hóa và môi trường - và đã khiến sinh ra một sự phản ứng dữ dội - một hiện thân rõ ràng và lớn tiếng của nó xuất hiện tại cuộc hợp thượng đỉnh của Tổ chức Thương mại Thế giới tại Seattle vào cuối 1999. Điều này không lấy gì làm lạ. Thị trường thường mang lại cả vốn liếng lẫn sự hỗn loạn; thị trường càng trở nên mạnh hơn trong toàn cầu hóa, thì chúng càng có cơ gặp phải những rối loạn đa dạng và tràn lan hơn.
Ngoài những lo sợ chung đối với sự hỗn loạn đó, những người chống đối toàn cầu hóa cho rằng một khi đất nước của họ kết nối với hệ thống toàn cầu hóa, thì chính họ sẽ bị buộc phải mặc chiếc áo nịt nạm vàng dù cho chiếc áo đó chỉ có một cỡ. Có những người không thích chiếc áo là bởi vì họ cảm thấy bị bó buộc về kinh tế. Có người khác lo ngại rằng họ không đủ tri thức, kỹ năng hay tài lực để mặc hoặc rút những sợi chỉ vàng từ chiếc áo. Có người không thích nó vì họ không muốn có những hố ngăn cách về thu nhập, hay họ lo ngại khả năng cơ hội việc làm sẽ bị cắt bớt ở các quốc gia có mức lương cao, chuyển sang những nơi có nhân công rẻ mạt. Có người không thích toàn cầu hóa vì nó khiến đất nước của họ bị những văn hóa và ảnh hưởng mới lũng đoạn, khiến cho con cháu họ không còn biết đến những bản sắc truyền thống của cha ông chúng để lại. Có người không thích toàn cầu hóa vì họ lo sợ rằng luật lệ giờ đây chỉ chú trọng vào vấn đề tự do thương mại hơn là vấn đề bảo tồn các loại rùa và cá heo hiếm, bảo tồn nguồn nước và cây cối. Có người không thích chiếc áo nịt vì họ không được tham gia vào khâu thiết kế kiểu cách của chiếc áo. Và có người không thích chiếc áo đơn thuần là do họ cảm thấy khó mà nâng cấp được hệ điều hành của đất nước họ lên tới mức DOScapital 6.0
Nói cách khác, phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa là một hiện tượng lớn, là tập hợp của những lo âu và tâm lý khác nhau. Phản ứng đó mang nhiều hình thái, thông qua nhiều nhân vật và xảy ra ở nhiều đất nước khác nhau. Chương này sẽ nói về những trạng thái tâm lý, hình thái và điển hình của sự chống đối và cung cách chúng đang kết hợp lại thành một cơn gió mạnh cản trở toàn cầu hóa. Cơn gió này có thể trở thành bão, nếu chúng ta không để tâm hiểu nó một cách nghiêm túc.
Như tôi đã kể trước đây, vào mùa Hè năm 1998 tôi sang du lịch Brazil cùng tổ chức Bảo Tồn Thế giới, tổ chức đã giúp thành lập một công viên sinh thái ở vùng rừng duyên hải Đại Tây Dương của nước này. Họ đã giúp dân chúng ở thị trấn Una xây dựng một ngành du lịch địa phương, để có thể tạo công ăn việc làm và đẩy lui được nạn đốn gỗ để sinh nhai. Bảo Tồn Thế giới đã đề nghị Dejar Birschner, 48 tuổi, Thị trưởng Una cùng đi thăm và giải thích cho tôi những thay đổi mà dự án môi sinh mang lại cho thị trấn của ông. Thị trưởng này xuất thân từ lớp thợ đốn gỗ, thuộc loại Paul Bunyan, có cha và ông cũng là thợ đốn gỗ. Nhưng giờ đây các nhà môi trường đã khiến họ thất nghiệp. Khi đi trong rừng, Thị trưởng Birschner chạm tay lên các loại cây cối. Ông ta biết tên bằng tiếng Brazil của tất cả các loại thực vật trong rừng. Tôi cảm thấy quý mến ông ngay từ phút đầu - vì có một điều gì đó rất vững chãi trong bản thân ông ta. Sau khi đi dạo trong rừng, chúng tôi ra ngồi trên ghế trong một khu cắm trại ở bìa rừng, và bàn về những thách thức mà vị thị trưởng đang phải đương đầu. Ông ta nói về mặt tri thức thì ông đã hiểu rằng đốn gỗ không còn là nghề hữu ích. Nhưng đồng thời ông cũng nhận ra rằng dân chúng trong thị trấn chưa thực sự sẵn sàng sống cuộc sống không có nghề đốn gỗ. Chúng tôi nói chuyện trong khoảng 30 phút, sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn, tôi cảm ơn và đóng máy tính IBM thinkpad lại, ông ta quay sang nói với tôi, "Bây giờ tôi muốn hỏi anh chuyện này."
"Xin mời ông", tôi đáp, "ông hỏi chuyện gì cũng được."
Vị thị trưởng nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, "Liệu chúng tôi sẽ có tương lai hay không?"
Câu hỏi của ông như giáng cho tôi một đòn nặng. Nó khiến tôi suýt chảy nước mắt, khi nhìn sang bên kia bàn: đối diện tôi một con người đầy tự trọng, vững chãi, một vị thị trưởng, người đang hỏi tôi xem liệu bản thân ông và dân chúng của ông có được tiền đồ gì không trong lương lai. Tôi hiểu chính xác điều ông muốn nói: "Dân làng tôi không thể sinh nhai bằng cách đốn gỗ trong rừng và chúng tôi không được trang bị để sống với máy vi tính. Cha và ông tôi dựng cơ nghiệp bằng cách chặt gỗ trong rừng và con cái chúng tôi có thể kiếm sống bằng Internet. Nhưng còn thế hệ chính chúng tôi, thế hệ kẹt ở giữa thì làm gì bây giờ?"
Tôi ấp úng tìm một câu trả lời, giải thích một cách đơn giản rằng bản thân và dân làng của ông chắc chắn sẽ có tương lai nhưng họ phải bắt đầu một thời kỳ quá độ từ nền kinh tế nông nghiệp đi lên một nền kinh tế tri thức, bắt đầu bằng việc đào tạo con cháu.Vị thị trưởng lắng nghe, gật gù, lịch sự cám ơn và bước đến xe hơi của ông. Khi ông ta đi rồi, tôi kéo người phiên dịch sang một bên và nhờ anh ta hỏi hộ khi gặp lại ông thị trưởng, xem ông ta nghĩ gì về câu trả lời của tôi.
Vài phút sau anh này quay lại. Anh ta nói rằng ông thị trưởng muốn nói với tôi một điều mà ông ta đã không nhắc tới trong cuộc phỏng vấn: Mỗi sáng, khi đến sở làm việc ông thường thấy có 200 dân làng đang tụ tập chờ đợi ông, họ nhờ ông tìm việc, xin ông giúp nơi ở và thức ăn - đó là chưa nói đến chuyện những người thợ rừng nay thất nghiệp đến để dọa giết ông ta. Nếu ông ta không giúp tìm việc, nơi ở và thực phẩm cho họ thì họ sẽ phá trụi các cánh rừng - dẫu đó là phát triển bền vững hay không bền vững.
"Ông ta muốn anh hiểu cho điều đó," người phiên dịch nói.
Thị trưởng Birschner đại diện cho một thế hệ trên thế giới này cảm thấy bị toàn cầu hóa đe dọa vì họ sợ rằng họ không có những kỹ năng hay sức lực để gia nhập vào cái "Thế giới đi nhanh". Tôi xin gọi họ là "những con rùa." Vì sao? Vì các thương gia kỹ thuật cao trong Thung lũng Silicon thường bao giờ cũng so sánh thứ nghề siêu kỹ thuật của họ với câu chuyện về con sư tử và loài linh dương nhỏ trong rừng rậm. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, con sư tử đều lo nghĩ là sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, liệu có đủ sức để đuổi cho kịp những con linh dương nhỏ yếu, nếy không thì sẽ phải chịu đói. Và mỗi đêm khi đi ngủ, con linh dương đều lo nghĩ xem sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, liệu có đủ sức để chạy nhanh, thoát cho được những hàm sư tử, nếu không sẽ mất mạng. Nhưng có điểm tương đồng mà hai bên đều cùng lo nghĩ, đó là vào sáng hôm sau, khi mặt trời mọc, cả hai bên đều phải ra sức mà chạy cho nhanh.
Và đó cũng là câu chuyện của toàn cầu hóa.
Điều không may là không ai cũng được trang bị để chạy nhanh. Ngoài đời có không biết bao nhiêu con rùa, tuyệt vọng; chúng không muốn bị giết bỏ trên đường đi. Những con rùa đó cũng là những dân chúng, khi tường rào trên thế giới sụp đổ, đã bị cuốn hút vào "Thế giới đi nhanh", và do nhiều lý do, họ cảm thấy bị đe dọa hay hắt hủi về kinh tế. Cũng không phải vì họ không có công ăn việc làm. Nhưng vì việc làm của họ đang bị toàn cầu hóa thay đổi, giảm quy mô, rút gọn hay bị khiến trở thành lỗi thời. Mặt khác sự cạnh tranh toàn cầu đang buộc chính phủ của họ phải tự thân cải cách và rút gọn, và những con rùa đó không thấy những mạng lưới bảo hiểm để cứu vớt chúng.
Trong vở kịch Ragtime diễn trên phố Broadway có một cảnh Henry Ford giải thích sự ưu việt của dây chuyền lắp ráp xe hơi của ông ta. Lúc nào tôi cũng nhớ những vần thờ, vì chúng phản ánh rất hay về một thế giới - một thời là thiên đường của loài rùa - nhưng nay đã thay đổi. Sau đây là lời thơ trong vở ca kịch Henry Ford:
Dân chúng, hãy nghe luận thuyết của tôi
Về nơi đất nước này đang đến:
Mỗi công nhân là một bánh răng cưa đang chuyển động.
Và khái niệm đó là của Henry.
Một người siết ốc và người khác vận hành
Và người khác vươn tay lắp bánh răng cưa
Và xe hơi sẽ di chuyển theo một hướng.
Một sáng tạo của Henry Ford
(Vòng quay của động cơ - hãy khiến chúng quay nhanh, Sam)
Sản xuất hàng loạt sẽ tràn lan trên đất nước,
Một ý tưởng mà thế giới chào đón.
Ngay cả những kẻ không lấy gì làm thông thái
Cũng có thể học cách siết ốc mãi mãi,
Và lắp tay quay hay kéo cần gạt...
Lạy thánh, ngày nay, nếu không thông minh thì không ai có thể học để cách sản xuất chip vi tính suốt đời. Những nghề tốt đẹp nhất đòi hỏi rất nhiều kỹ năng. Mỗi lần tôi viết một câu chuyện về cơ quan viện trợ Mỹ, USAID, thường có nhiệm vụ đào tạo dạy nghề và viện trợ kinh tế cho các nước đang phát triển ở châu Phi, cố gắng dùng kỹ thuật của họ để khôi phục những khu dân cư nghèo đói vùng Baltimore. Hay như hàng tít trên tờ Baltimore Sun hô hoán: "Baltimore sẽ thử áp dụng đơn thuốc của Thế giới thứ ba." Một lý do Baltimore kêu gọi sự trợ giúp của USAID là vì những con rùa của thành phố này đơn giản đã không theo kịp bước tiến của "Thế giới Đi nhanh". Một viên chức của thành phố đã giải thích một cách rành mạch: Trong những năm 60, bà này nói, nhà tuyển dụng việc làm lớn nhất trong thành thố là Tập đoàn thep Bethlehem. Bạn có thể kiếm một việc làm trong nhà máy luyện thép chỉ với tấm bằng phổ thông hoặc thấp hơn, để kiếm sống, mua một căn nhà, nuôi con và gửi chúng vào đại học. Có nghĩa là giấc mơ của Mỹ dành cho cả những con rùa và những khu dân cư nhiều khó khăn. Ngày nay, nhà tuyển dụng lớn nhất ở Baltimore là Trung tâm Y tế John Hopkins. Nếu không muốn trở thành một lao công, thì bạn phải có bằng đại học mới mong được mời phỏng vấn xin việc ở trung tâm này. Những con rùa thì không có cách gì vào được. Và bạn sẽ không có cách gì xin vào đó được nếu bạn thuộc vào số 150.000 người thất học (trong tổng số dân 730.000 ở Baltimore). (Các viên chức Baltimore thắc mắc vì sao những người nghèo thành thị không tận dụng những chương trình xã hội dồi dào vốn có sẵn trong thành phố đó, đến khi họ nhận ra rằng những người dân đó thậm chí không biết đọc những bảng hiệu. Đó là một lý do khiến họ phải mời USAID: cơ quan này đã cho ra đời một loạt các tranh vẽ các nhân vật biếm họa và những thiết bị nghe nhìn vốn dùng để giải quyết nạn mù chữ ở châu Phi. "Anh có biết được điều trớ trêu?" Bác sĩ PeterBeilenson, Chủ nhiệm Ủy ban Y tế của Baltimore nói trong cuộc phỏng vấn của tôi. "Công ty đã tạo ra những chương trình xóa nạn mù chữ cho USDID, lại chính là của Baltimore. Văn phòng của nó chỉ cách đây vài dãy phố.)
Khi toàn cầu hóa lây lan, thay thế những công việc lặp đi lặp lại, bằng máy móc, và đòi hỏi những kỹ năng mới trong công việc khác, nó đã khiến cho những con rùa mất dần cơ hội việc làm. Một bài trên tờ Washington Post vào tháng sáu năm 1998 về cuộc đình công ở hãng General Motors vùng Flint, Michigan, đã tả cho độc giả cảnh khốn củng của loài rùa ngày nay: "Sau 20 năm, GM đã giảm biên chế công nhân của họ ở Flint xuống còn 35.000, từ mức 76.000, và hãng này cho biết trong vài năm nữa, họ sẽ cắt tiếp 11.000 việc làm... Trong tổng số công nhân từ Mỹ, GM đã giảm 297.000 công việc theo giờ trong vòng 20 năm, giảm tổng việc làm còn 223.000... Một số cơ hội việc làm đã được chuyển sang Canada và Mexico, nơi có những nhà máy hiệu quả cao và chi phí thấp hơn, và một số lượng lớn công nhân của họ đã bị máy móc thay thế [đoạn viết nghiêng là của tác giả]."
Cũng trong bài báo, George Peterson, Chủ tịch hãng AutoPacific Inc., một công ty nghiên cứu và tư vấn ngành xe hơi có trụ sở ở California, được trích dẫn đã nói rằng tại những nhà máy không có nghiệp đoàn đóng ở Hoa Kỳ - như chi nhánh của Honda Motor ở Marysville, Ohio - công nhân đa kỹ năng và có thể thực hiện những nhiệm vụ đa dạng. Tính đa dạng hóa đó, theo ông ta, đã giúp cho Honda cắt giảm chi phí sản xuất. "Hoàn toàn có thể giữ được một công việc toàn thời gian trong ngành này, nếu bạn sẵn sàng làm nhiều loại công việc [tác giả viết]," Peterson nói, khi bàn về những lo lắng của giới nghiệp đoàn về mức ổn định trong công ăn việc làm.
Vậy nếu muốn làm việc trong khu vực sản xuất, không những bạn cần thêm các kỹ năng hơn trước, mà còn phải có kỹ năng đa dạng để tránh được khả năng công việc của bạn bị người máy thay thế. Đó là những khó khăn lớn đối với những con rùa ngày nay.
Các nhà phân tích có thời gian đã cố tìm hiểu xem những con rùa bị toàn cầu hóa hành hạ, xúc phạm hay bỏ rơi, có thể tìm được ra giải pháp hay ý thức hệ gì thay cho khái niệm tư bản thị trường tự do. Như nói trước đây, trong thời toàn cầu hóa đợt một khi đương đầu với sự tiến hóa tư bản theo lối phá cũ xây mới, những lực lượng phản ứng đã cho ra đời một loạt các ý thức hệ - cộng sản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, phát xít chủ nghĩa - những quan điểm hứa hẹn sẽ bẻ được nọc độc của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt trong vấn đề cứu giúp người lao động. Giờ đây, khi những ý thức hệ đó không còn được tín nhiệm, tôi không nghĩ rằng sẽ có một hệ ý thức mới nhất quán để chống lại toàn cầu hóa - vì tôi không tin rằng sẽ có một chương trình hay tư tưởng mới nào vừa có thể xoá bỏ được sự tàn nhẫn và sức công phá tư bản, vừa có thể cho phép nâng cao mức sống của nhân loại.
Một lý do khác, khiến sự phản ứng nhằm vào toàn cầu hóa khó có thể hình thành một hệ tư tưởng thay thế, đó là bản thân sự phản ứng đó chỉ quy tụ được các nhóm rời rạc - bằng chứng cho thấy sự liên minh giữa các nghiệp đoàn bảo hộ công nhân, các nhà môi trường, các người chống đối loại nhà xưởng bóc lột công nhân, các nhà bảo tồn rùa, bảo tồn cá heo, chống cải biến gen và cả một nhóm mang tên "Tín hiệu từ hành tinh khác," tất cả đã tụ tập hồi tháng 12 năm 1999 để chống toàn cầu hóa tại cuộc họp thượng đỉnh của WTO tại Seattle. Những nhóm người rời rạc đó gắn bó với nhau bằng một sự hiểu biết rằng thế giới đang bị các tập đoàn công ty thống trị, họ lo lắng cho một thế giới bất công - bất bình đẳng, gây hại cho lợi ích nhân loại, đặc biệt là lợi ích của các con rùa. Nhưng khi bị chất vấn là làm thế nào để định nghĩa lợi ích của loài người và làm thế nào để bảo vệ được lợi ích đó, thì những nhóm người chống đối không đưa ra được câu trả lời nhất quán. mỗi nhóm một vẻ quan điểm, đa dạng như những trang phục của chính họ vậy. những công nhân ngành xe hơi, luyện thép và những ngư dân đang đòi cho sự bảo hộ mâu dịch ở Seattle, thực ra không đoái hoài gì đến việc Hoa Kỳ có cho phép nhập loại cá ngừ đánh bắt bằng lưới lẫn với rùa biển hay không. Tôi thực không muốn mình trở thành thân phận con rùa bị mắc trong lưới đánh cá ngừ được kéo về cảng Seattle. Những lẫn lộn trong cái liên minh đó khiến cho việc lượng đoán sức mạnh của sự phản ứng đối với toàn cầu hóa trở nên khó khăn hơn, vì trong khi cùng nhất trí là toàn cầu hóa gây đau thương cho họ, thì cho đến nay, những người chống đối không có chung bất cứ cương lĩnh, hệ tư tưởng hay chiến lược nào để cùng hoạt động.
Chính vì thế tôi ngờ rằng những con rùa trong nhân loại và những người chỉ đơn thuần căm ghét những thay đổi mà toàn cầu hóa gây ra cho văn hóa, môi trường hay cộng đồng của họ, sẽ không để tâm đến việc tìm ra một tư tưởng mới. Sự chống đối sẽ chỉ có hình thức bộc phát khác nhau. Những người thợ luyện thép sẽ vận động Washington dựng lên những bức tường chống lại thép nhập khẩu. Những người khác, các nhà môi trường chẳng hạn, những người muốn cứu những cánh rừng nhiệt đới, đơn thuần sẽ lên án toàn cầu hóa mà không đưa ra được các giải pháp kinh tế bền vững. Khẩu hiệu duy nhất của họ là: STOP
Đối với những con rùa đói nghèo nhất trong thế giới đang phát triển, những kẻ thực sự bị toàn cầu hóa bỏ rơi, họ sẽ chống toàn cầu hóa bằng cách tiếp tục đốt phá thiên nhiên mà không giải thích, thanh minh hay đưa ra một tư tưởng nào về việc đó. Tại Indonesia, họ sẽ tấn công các tiệm hàng của thương nhân người Hoa, chiếm dụng tài sản. Tại Nga, họ sẽ bán vũ khí cho Iran hoặc gia nhập giới tội phạm. Tại Brazil, họ sẽ đốn cho hết những mảng rừng tự nhiên hoặc gia nhập phong trào nông dân mang tên "Sem Teto" (không nhà), trộm cắp để kiếm sống. Có khoảng 3,5 triệu những người như thế sống ở Brazil - những nông dân thiếu đất đai, sống trong khoảng 250 khu trại trên khắp đất nước. Có lúc họ sống bên vệ đường, chờ đến khi người khác trả tiền thì họ mới dọn đi, có lúc họ vào cướp bóc các siêu thị, cướp nhà băng, hay ăn cắp xe tải. Họ không có cờ hiệu, không có cương lĩnh. Họ chỉ có nhu cầu và hoài bão của riêng họ. Chính vì thế điều chúng ta đã và đang chứng kiến ở nhiều nước, là, thay vì một đám đông đoàn kết chống toàn cầu hóa, ta chỉ thấy dập dìu những làn sóng tội phạm - những người chống đối chỉ vơ vét những gì bản thân họ cần, dệt cho được những mạng lưới an sinh xã hội mà không cần nghĩ đến chuyện xây dựng học thuyết hay ý thức hệ.
Mặc dù sự phản ứng này không vững chắc về luận thuyết và không được phối hợp chặt chẽ, nó đã và đang thực sự hiện hữu. Nó đến từ sâu thẳm tâm hồn của con người, vì vậy quy tụ được đông đảo dân chúng và gây ảnh hưởng đối với nền chính trị ở bất cứ nước nào. Nếu làm ngơ nó thì các xã hội liệu mà ráng chịu.
Trong hầu như bất cứ đất nước nào đã mang lên chiếc áo nịt nạm vàng, bao giờ cũng có một chính đảng hay một cá nhân nổi tiếng đứng tuyên truyền chống toàn cầu hóa. Những đảng phái hay cá nhân đó sẽ đưa ra những giải pháp theo lối bảo hộ và thu phục lòng người - những giải pháp theo họ, sẽ dẫn đến cải thiện đời sống cho dân chúng mà không phải tiến bước quá nhanh hay mở cửa biên giới quá rộng. Họ nói là cứ chịu khó dựng hàng rào cản ở chỗ này chỗ kia thì mọi sự rồi sẽ tốt đẹp. Họ gây được sự chú ý của những người chỉ muốn sống trong quá khứ, thay vì tương lai. Chẳng hạn tại Nga, những Dân biểu cộng sản trong Viện Duma tiếp tục đi đầu trong những phản ứng chống toàn cầu hóa bằng cách tuyên truyền với dân lao động và những người hưu trí rằng trong thời Liên Xô, mặc dù họ chỉ có được những công việc không hứng thú và phải xếp hàng để được phân phối bánh mì, nhưng bao giờ cũng có công ăn việc làm và bao giờ cũng được phân phối bánh mì khi đến lượt. Sức mạnh của những đảng phái hay cá nhân trong công cuộc chống toàn cầu hóa đó tùy thuộc vào mức độ yếu kém của nền kinh tế ở nước đó. Thông thường thì kinh tế càng trì trệ thì những luận điểm giản đơn kể trên càng có sức lôi cuốn.
Những người chống đối toàn cầu hóa không chỉ thành công trong thời gian đất nước hay nền kinh tế của họ gặp khó khăn. Năm 1998, đa số trong Quốc hội Mỹ đã chặn, không cho phép Tổng thống Mỹ mở rộng khu vực mậu dịch tự do NAFTA sang Chi Lê - một đất nước nhỏ bé - lý do là làm như vậy người dân Mỹ sẽ mất thêm cơ hội việc làm. Lý luận sai lầm đó đã thắng thế vào lúc trị giá các chứng khoán của Hoa Kỳ lên cao kỷ lục, thấy nghiệp ở mức thấp nhất và tất cả những nghiên cứu đều cho thấy NAFTA mang lại những giải pháp nhiều bên cùng có lợi khi áp dụng ở Hoa Kỳ, Mexico và Canada. Hãy nghe điều ngu xuẩn sau đây: Quốc hội Mỹ duyệt chi 18 tỷ đô-la cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế để tổ chức này cứu giúp các nước đang vật lộn với toàn cầu hóa, nhưng Quốc hội không chấp nhận mở rộng NAFTA sang Chi Lê. Logic nằm ở đâu? Phải chăng nó nằm ở chỗ: "Chúng ta ủng hộ viện trợ, không ủng hộ thương mại?"
Điều đó thực vô lý, nhưng có một lý do để nhữn!!!9152_2.htm!!! Đã xem 137479 lần.

Đánh máy: Promiseland _75
Nguồn: promiseland_75
VNthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 23 tháng 2 năm 2007