Dịch giả : Lạc Việt
Chương 19
VỤ MÙA SỚM

Đã vào thời điểm cắt cỏ. Ba lấy những chiếc liềm cán dài ra và Almanzo một tay quay hòn đá mài, tay kia xối nước lên trong lúc ba giữ cho những chiếc lưỡi thép chạm nhẹ vào hòn đá đang kêu vo vo. Nước giữ cho những lưỡi liềm không nóng quá trong khi hòn đá mài lưỡi liềm mỏng và sắc hơn.
Rồi Almanzo băng rừng tới những túp lều nhỏ của mấy người Pháp nhắc French Joe và Lazy John tới giúp việc vào ngày hôm sau.
Ngay khi mặt trời vừa chiếu khô lớp sương đọng trên đồng cỏ, ba đã cùng Joe và John bắt đầu cắt cỏ. Họ đi thành hàng ngang, vung lưỡi liềm vào những đám cỏ cao và đám ngưu thảo đổ rạp xuống từng khoảng lớn.
Xoẹt! Xoẹt! Xoẹt!
Những lưỡi liềm vụt qua trong lúc Almanzo cũng Pierre và Louis đi phía sau, tải những đám cỏ nặng chịch bằng chiếc chĩa để hong khô dưới nắng. Gốc cỏ mềm và mát rượi dưới bàn chân trần của các cậu. Những con chim vụt bay lên phía trước những người cắt cỏ rồi một con thỏ nhảy ra phóng chạy đi. Cao tít trên không, những con sơn ca đồng cỏ đang hót.
Nắng mỗi lúc một nóng hơn. Mùi cỏ khô nồng hơn và đượm vị ngọt hơn. Rồi những đợt sóng hơi nóng từ mặt đất dâng lên. Hai cánh tay nâu sạm của Almanzo bắt nắng thành sậm hơn và mồ hôi nhỏ giọt trên trán cậu. Tất cả ngừng lại, ngắt những nhánh lá xanh nhồi vào vành nón. Những nhánh lá giúp làm mát đỉnh đầu họ trong một khoảnh khắc.
Giữa buổi sáng, tiếng tù và báo hiệu bữa ăn trưa của má nổi lên. Almanzo biết tiếng tù và báo hiệu việc gì. Cậu cắm cây chĩa xuống mặt đất và chạy băng ngang đồng cỏ về nhà. Má đợi cậu ở vòm mái sau nhà với một xô đựng sữa chứa đầy tới miệng món trứng sữa.
Món trứng sữa chế biến với sữa, kem và rất nhiều trứng và đường. Lớp váng trên của nó được chế thêm gia vị và rất nhiều mảng kem nổi lên. Các cạnh xô như phủ sương vì lạnh.
Almanzo bước từ từ về phía đồng cỏ với chiếc xô nặng chịch và một chiếc vá để múc. Cậu nghĩ chiếc xô quá đầy nên cậu có thể làm tràn món trứng sữa ra ngoài. Má vẫn bảo hoang phí là có tội. Cậu chắc chắn sẽ phạm tội do để rớt một giọt trứng sữa. Cậu phải làm một điều gì đó để không hoang phí như thế. Vậy là cậu đặt xô xuống, múc đầy một vá và uống. Trứng sữa mát lạnh trôi tuột qua cổ cậu khiến cậu thấy thoải mái.
Khi cậu về tới đồng cỏ, mọi người ngưng làm việc. Tất cả đứng trong bóng mát của một cây sồi, nón hất về phía sau và chuyền tay nhau chiếc vá cho tới khi trọn món trứng sữa tiêu hết. Almanzo uống hết phần đầy của mình. Lúc này hơi gió dịu mát và Lazy John vừa lau lớp váng kem trên ria mép vừa nói:
- Chà! Nó làm trái tim người ta tươi lại.
Bây giờ mấy người lớn đi mài liềm khiến những phiến đá mài reo lên vui vẻ trên những lưỡi thép. Và họ tự động trở lại với công việc. Ba luôn cho rằng một người sẽ làm được nhiều hơn trong mười hai giờ đồng hồ nếu có một khoảng nghỉ ngơi và uống đủ mức trứng sữa vào buổi sáng và buổi chiều.
Tất cả làm công việc trong đồng cỏ cho tới khi nào ánh sáng còn đủ soi tỏ cho công việc và mọi việc nhà sẽ làm dưới ánh đèn.
Sáng hôm sau, các đống cỏ đã khô và mấy cậu bé cào lại thành những cuộn dài bằng những cây cào lớn bằng gỗ rất nhẹ do ba làm. Rồi John và Joe đi cắt cỏ còn Pierre cad Louis tải cỏ phơi phía sau họ. Nhưng Almanzo làm việc trên mảng cỏ.
Ba lái xe đưa cỏ về khu nhà kho, rồi ba và Royal liệng các cuộn cỏ vào máng trong lúc Almanzo giậm đạp chúng xuống, nhấn chúng xuống nhanh ngang với mức ba và Royal quăng lên để làm thành đống.
Khi đống cỏ không cao hơn được nữa thì cậu đứng chót vót trên đỉnh. Tại đó, cậu nằm sấp chống chịu bằng gót chân trong lúc ba chuyển vào Kho Lớn. Đống cỏ chỉ lọt vừa vặn dưới khung cửa ra vào và phải trượt một đoạn dài trên đất.
Ba và Royal dồn cỏ vào kho chứa còn Almanzo xách bình nước đi ra giếng. Cậu bơm rồi bơm và hứng những dòng nước vọt ra bằng hai bàn tay để uống. Cậu mang nước về cho ba và Royal rồi hứng thêm một bình đầy. Sau đó, cậu quay về máng cỏ rỗng và đạp một đống cỏ khác.
Almanzo thích thời gian gom cỏ khô. Hàng ngày, từ sáng sớm đến tối mịt, cậu rất bận rộn nhưng công việc luôn đổi khác. Giống hệt như chơi đùa và sáng, chiều lại có hai bữa trứng sữa. Nhưng sau ba tuần lễ thì các nhà chứa cỏ đã nhồi chặt ních và đồng cỏ đã trống. Rồi dòng lũ mùa vụ tới.
Lúa mạch đã chín, đứng chen chúc, lêu đêu và vàng rực. Lúa mì còn vàng sậm hơn lúa mạch. Đậu đã chín và bí, cà-rốt, củ cải, khoai tây đều sẵn sàng cho thu hoạch.
Lúc này không còn nghỉ ngơi và vui đùa với bất kì ai. Tất cả đều khởi sự làm việc trong ánh nến và dứt việc trong ánh nến. Má và mấy cô gái lo ngâm đám dưa leo, ngâm dấm cà chua xanh, ngâm dấm vỏ dưa hấu và phơi bắp, phơi táo, làm mứt. Mọi thứ đều được gom lại, không thể hoang phí bất kì tặng vật nào của mùa hè. Ngay cả vỏ tảo cũng được giữ lại để làm giấm và một bó cọng lúa mạch đang được ngâm trong một chiếc thùng trên nền vòm sau nhà. Mỗi khi chỉ có một phút rảnh rang, má cũng kết lấy một inch, hai inch cọng rơm lúa mạch để làm những chiếc nón cho mùa hè sau.
Lúa mạch không cắt bằng liềm cán dài mà bằng hái. Hái có lưỡi tương tự liềm cán dài nhưng còn có những răng gỗ dài để giữ những cọng lúa được cắt. Khi cắt đủ một bó, Joe và John trút những cọng lúa đã cắt ra thành đống gọn gàng. Ba, Royal và Almanzo đi theo sau buộc lại thành bó.
Từ trước Almanzo chưa từng buộc lúa mạch. Ba chỉ cho cậu cách kết hai nắm cọng lúa thành một dải dài, rồi cách gom một ôm hạt lên, kéo dải dây thật chặt xung quanh ở khoảng chính giữa, xoắn các đầu dây lại với nhau và gài nó chặt cứng.
Trong một thoáng, cậu có thể buộc được một bó lúa khá tốt, nhưng không nhanh lắm. Ba và Royal có thể bó lúa nhanh ngang với những người gặt lúa cắt chúng.
Đúng trước mặt trời lặn, những người gặt lúa ngừng cắt lúa và tất cả bắt đầu tụ những bó lúa. Tất cả lúa mạch đã cắt đều phải tụ trước khi trời tối vì chúng sẽ bị hư nếu nằm trên mặt đất ẩm sương.
Almanzo có thể tụ lúa tốt như mọi người. Cậu dựng đứng mười bó lúa trên các cọng rạ và cho các đầu có hạt chụm sát vào nhau. Rồi cậu đặt hai bó lúa lên trên cùng và rải các cọng ra tành một mái che phía trên mười bó lúa. Các tụ lúa có vẻ giống những chiếc lều nhỏ của người da đỏ rải rác khắp đồng rạ xanh xám.
Lúa mì cũng đang chờ đợi nên không có thời giờ để mất. Ngay sau khi lúa mạch được tụ xong, mọi người lại hối hả cắt, buộc và tụ lúa mì. Lúa mì khó bó vì nặng hơn lúa mạch, nhưng Almanzo quyết làm thật tốt. Rồi còn có đồng lúa mạch và đậu Canada. Những dây đậu quắn tối tung trong lúa nên không thể tụ nổi. Almanzo cào chúng ra thành những cuộn dài.
Đã tới thời điểm sẵn sàng nhổ đậu. Alice phải phụ giúp mọi người. Ba kéo những cọc tụ đậu ra đồng, dùng vồ đóng xuống đất. Rồi ba và Royal kéo lúa mạch đã được tụ về nhà kho, trong khi Almanzo và Alice nhổ đậu.
Trước tiên cả hai khuân đá chất xung quanh các cột tụ đậu để giữ cho đậu không chạm đất. Sau đó cả hai đi nhổ đậu. Phải dùng cả hai bàn tay nắm đậu nhổ bật hẳn lên. Cả hai mang đậu tới các tụ đậu đặt rễ chụm vào nhau, dây trải ra trên các tảng đá.
Từng lớp, từng lớp, đậu được chất thành đống quanh từng cột tụ đậu. Rễ đậu lớn hơn dây nên đống càng cao thêm ở trong. Những mớ dây rối nhằng nhịt đầy những vỏ đậu đang nổ lách tách treo rũ xuống khắp xung quanh.
Khi gốc đậu chất thành đống tới các ngọn cọc tụ, Almanzo và Alice phủ dây chùm lên trên làm thành một cái mái để che mưa. Lúc này, cây tụ đậu đã xong và cả hai bắt đầu lo một cây khác.
Những cây tụ đậu cao ngang Almanzo và những đám dây tủa quanh tương tự vành váy của Alice.
Một hôm, khi Almanzo và Alice về nhà ăn trưa thì thấy người mua bơ đang ở đó. Hàng năm, ông ta đều từ thành phố New York tới. Ông ta mặc một bộ đồ thành phố rất đẹp với một chiếc đồng hồ vàng có dây đeo và lái một cặp ngựa thực tốt. Mọi người đều rất thích người lái bơ và bữa cơm trưa luôn sôi động khi có mặt ông ta. Ông ta đem lại mọi thứ tin tức về chính trị, thời trang và giá cả tại thành phố New York.
Sau bữa ăn, Almanzo quay lại với công việc nhưng Alice ở nhà coi má bán bơ.
Người lái bơ xuống hầm chứa, nơi các thùng bơ được phủ kín bằng những tấm vải trắng sạch sẽ. Má kéo những tấm vải cho người lái bơ thọc cây thử qua tận đáy thùng để coi bơ.
Cây thử bơ là một cây thép dài rỗng ruột với một bên có cắt khía. Khi cây thử được kéo lên, bơ mẫu nằm trong vết khía này.
Má không nói giá ngay mà chỉ lên tiếng một cách tự hào:
- Bơ của tôi tự nói rõ.
Mẫu bơ trong tất cả các thùng đều không có một sọc màu nào. Từ miệng bơ tới đáy thùng, bơ của má đều cùng một màu vàng, cứng, thơm ngọt.
Almanzo thấy người lái bơ đánh xe đi và Alice vừa chạy vừa nhảy trở ra đồng đậu với chiếc mũ đung đưa trong dây buộc. Cô gọi lớn:
- Thử đoán coi!
Almanzo hỏi:
- Cái gì?
- Ông ta bảo bơ của má là loại bơ ngon nhất mà ông ta được thấy. Và ông ta đã trả giá cho má - thử đoán coi ông ta trả giá thế nào! Năm mươi xu một pao!
Almanzo kinh ngạc. Cậu chưa bao giờ nghe nói một giá bơ như thế.
Alice tiếp:
- Má có năm trăm pao! Thế là có hai trăm năm mươi đô la! Ông ta trả má tất cả bằng tiền mặt và má đang đóng xe để đi tới ngân hàng.
Chỉ một lát sau, má lái xe đi ra với chiếc nón đẹp thứ nhì và bộ đồ vải chéo go màu đen. Má đi tới thành phố vào buổi chiều một ngày làm việc giữa vụ mùa. Từ trước, má không bao giờ làm một điều như thế. Nhưng ba đang bận rộn ngoài đồng và má không dám giữ trọn số tiền đó tại nhà qua đêm.
Almanzo cảm thấy tự hào. Má cậu có thể là người làm bơ giỏi nhất trong toàn bang New York. Mọi người ở thành phố New York sẽ ăn và khoe với người khác đây là thứ bơ ngon vô kể và tất cả sẽ tự hỏi ai là người làm ra nó.

“Nhưng tuần lễ đó, ông cố lại đốn cây trong rừng Big Woods. Công việc nặng nhọc nên ông cố phải giữ các côn lại cùng làm. Từ sáng sớm, họ đã phải làm đủ thứ việc nhà dưới ánh đèn và khi mặt trời vừa lên lại phải vào rừng. Họ làm cho tới lúc sẩm tối thì lại có những việc nhà khác cần phải lo và sau bữa ăn tối, tất cả đều phải lên giường để có thể thức dậy sớm vào sáng hôm sau.
“Không còn thời giờ kịp đóng xong cỗ xe trượt cho tới chiều thứ bảy. Bữa đó, họ ráng sức làm thật nhanh, nhưng khi đóng xong cỗ xe thì mặt trời lặn và đã là đêm thứ bảy.
“Sau khi mặt trời lặn, họ không thể trượt xuống đồi, dù chỉ một lần. Điều đó sẽ làm hỏng ngày lễ chủ nhật. Vậy là họ đành phải cất cỗ xe vào lán sau chờ cho ngày chủ nhật qua.
“Hôm sau, tại nhà thờ, suốt hai giờ dài dặc, trong khi giữ cho bàn chân bất động, mắt không rời khỏi vị tu sĩ, họ vẫn nghĩ về cỗ xe trượt tuyết. Khi về nhà, trong bữa ăn, họ cũng không thể nghĩ tới một điều gì khác. Sau bữa ăn, ông cố ngồi xuống đọc Kinh thánh nên ông nội cùng hai người anh, James và George lại bất động như bầy chuột trên chiếc ghế dài để nghe giáo lí. Tuy nhiên, tất cả vẫn tiếp tục nghĩ về chiếc xe trượt tuyết.
“Ánh mặt trời rực sáng và khi liếc qua cửa sổ, họ thấy tuyết mượt mà lấp lánh trên đường. Đúng là một ngày lí tưởng để chơi trò trượt xuống đồi. Tất cả nhìn vào bản giáo lí nhưng chỉ nghĩ về cỗ xe trượt tuyết mới đóng xong và ngày chủ nhật dường như dài vô tận.
“Một hồi sau, họ chợt nghe tiếng ngáy. Họ nhìn lên và thấy ông cố ngả đầu vào lưng ghế đang ngủ thiếp đi.
“Thế là James nhìn George rồi đứng lên nhón gót lòn qua sau lưng ghế ra khỏi phòng. George nhìn ông cố rồi nhón gót theo James. Và ông nội hết sức kinh hãi nhưng cũng nhón gót bước theo George để lại ông cố đang tiếp tục ngáy.
“Cả ba lôi cỗ xe trượt mới ra, lặng lẽ leo lên đỉnh đồi. Họ dự tính trượt xuống chỉ một lần thôi. Sau đó, họ sẽ bỏ cỗ xe lén trở lại ngồi trên ghế học giáo lí trước khi ông cố tỉnh dậy.
“James ngồi phía trước xe, kế là George rồi tới ông nội vì ông nhỏ nhất. Cỗ xe khởi trượt từ từ, rồi nhanh hơn, nhanh hơn. Cỗ xe lướt đi, bay xuống sườn dốc thăm thẳm nhưng họ không dám la hét. Họ phải trượt qua ngôi nhà thật êm ả để không làm ông cố thức dậy.
“Không có một tiếng động nào ngoài tiếng vù vù của cỗ xe lao trên tuyết và tiếng gió rít qua.
“Đúng lúc cỗ xe đang lao sát tới ngôi nhà, một con heo lớn đột ngột từ rừng cây chạy ra. Nó đi tới giữa đừng và đứng khựng lại.
“Cỗ xe đang lao xuống cực nhanh nên không thể dừng lại và cũng không còn kịp tránh, vùn vụt đâm thẳng vào con heo và xúc nó lên luôn. Sau một tiếng hét, nó đã ngồi gọn trên người James và tiếp tục la inh ỏi cho tới nhức óc:
- Eeec-ec! Eeec-eec! Eec-eeeec!
“Cả ba lướt sát ngôi nhà với con heo ngồi phía trước, rồi tới James, tới George, tới ông nội và tất cả đều thấy rõ ông cố đang đứng trước cửa nhìn họ. Họ không thể ngưng, không thể trốn tránh và cũng không thời giờ kịp nói lời nào. Cỗ xe trượt thẳng xuống chân đồi với con heo ngồi phía trước James tiếp tục la không dứt.
“tới chân đồi, cỗ xe dừng lại. Con heo nhảy khỏi người James, chạy thẳng vào rừng và tiếp tục la.
“Cả ba chậm chạp bước lên đồi một cách nghiêm trọng, sau khi bỏ cỗ xe lại. Họ len lén vào nhà, lặng lẽ rón rén tới ngồi xuống chiếc ghế dài. Ông cố đang đọc Kinh thánh, ngẩng lên nhìn họ, không nói một lời.
“Rồi họ cùng đọc kinh và học giáo lí.
“Nhưng, khi mặt trời lặn hẳn và ngày chủ nhật qua rồi, ông cố đưa tất cả ra lán gỗ và quật nhừ tử từng người một, trước hết là James, sau đó là George và cuối cùng là ông nội.”
Bố nói:
- Các con thấy đó, Laura và Mary, không dễ trở thành ngoan ngoãn, nhưng các con nên mừng là lúc này không còn nhiều khó khắn như khi ông nội còn bé.
- Con gái có phải gặp khó khăn như thế không?
Laura hỏi và mẹ nói:
- Các cô bé còn gặp khó khăn hơn nữa. Vì không chỉ trong ngày chủ nhật mà bất kì lúc nào, các cô cũng phải xử sự như những tiểu thư quí phái. Các cô không bao giờ được trượt tuyết như con trai mà phải ngồi luôn trong nhà, liên tục thêu theo các mẫu thêu.
Bố nói:
- Thôi, bây giờ để mẹ đưa các con đi ngủ.
Và, bố lấy cây đàn ra khỏi hộp.
Laura và Mary nằm trên chiếc giường có bánh lăn và lắng nghe những điệu đàn dành cho ngày chủ nhật vì ngay cả cây đàn cũng không được trỗi lên những điệu ca thường ngày trong ngày chủ nhật.
Bố hát theo tiếng đàn:
Có đúng chăng thiên đường chờ ta tới
Những chiếc giường êm ái phủ đầy hoa
Còn những kẻ tranh giành hung dữ
Đắm mình trong biển máu xót xa
Laura bắt đầu trôi bồng bềnh xa theo tiếng nhạc rồi cô bỗng nghe tiếng va chạm lanh canh và thấy mẹ đang ngồi bên lò bếp chuẩn bị bữa ăn điểm tâm. Sáng thứ hai đã tới và ngày chủ nhật chỉ trở lại sau tuần nữa.
Sáng hôm đó khi bước vào ăn điểm tâm, bố chụp lấy Laura và nói bố sẽ phải tặng cô bé một cái phát vào mông.
Bố giải thích hôm đó là kỉ niệm sinh nhật của cô bé và cô sẽ không lớn nổi nếu bố không phát vào mông cô. Rồi bố phát khẽ, cố không làm cô đau. Bố vừa phát vừa đếm từ từ:
- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu.
Mỗi cái phát dành cho một năm và cái phát cuối cùng kêu lớn hơn là để cho lớn hơn vào năm tới.
Sau đó, bố tặng cô một hình người bằng gỗ do bố khắc gọt để Charlotte có bạn. Mẹ tặng cô năm chiếc bánh ngọt nhỏ, mỗi chiếc nhắc nhở một năm Laura được sống cùng bố mẹ. Mary tặng cô một chiếc áo mới cho Charlotte. Mary tự tay cắt khâu chiếc áo và Laura vẫn nghĩ là lúc đó cô đang khâu vá tấm chăn của cô.
Tối bữa đó, để có không khí đặc biệt cho ngày sinh nhật, bố đàn tặng cô bài “Bốp! Con chồn biến mất!”
Bố ngồi chơi đàn có Laura và Mary đứng sát bên đầu gối. Bố dặn:
- Bây giờ, nhìn coi. Nhìn kĩ coi các con có thấy lúc con chồn nhảy ra cái bốp không?
Rồi, bố hát:
Một xu cho cuộn chỉ
Xu khác cho cây kim
Thế là tiền đi hết
Laura và Mary cúi tới gần hơn, vì các cô biết đã tới lúc.
Bốp! ( Ngón tay bố đập trên cây đàn )
Con chồn biến luôn! ( Cây đàn tấu rõ ràng )
Nhưng Laura và Mary đều không kịp nhìn thấy ngón tay bố bật sợi dây đàn thành tiếng “Bốp”
Cả hai nài nỉ:
- Ô, đàn lại đi, bố!
Cặp mắt xanh của bố cười vui và tiếng đàn tiếp tục trong khi bố hát:
Quanh chiếc ghế thợ mộc
Con khỉ đuổi con chồn
Nhà tu hôn bà vợ
Bốp! Con chồn biến luôn!
Các cô vẫn không thể bắt kịp lúc nào ngón tay bố bật dây, vì bố luôn bật nhanh hết sức.
Thế là các cô đành cười thua, lên giường, nằm nghe bố và cây đàn hoà ca:
Ông già ngây tên là chú Ned
Giã biệt đời từ thuở xa xưa
Đầu phơi trần không mảnh nón len thưa
Trên vùng đất len chất đầy như núi
Ngón tay ông dài như cây trong bụi
Mắt mịt mờ nhìn ngó khó khăn
Răng không còn nên chẳng được ăn
Dù có bánh đành quăng lăn lóc
Hãy cầm lên nào mai nào cuốc
Để cây đàn, cây vĩ nằm đây
Ông già Ned không cần tìm việc nữa
Ông đã về đúng xứ ngưòi ngây.
--!!tach_noi_dung!!--


Được bạn: đưa lên
vào ngày: 7 tháng 5 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 5 ) Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 6) Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 7)