Chương 8
Cuộc đàm phán "đầy hóc búa"

Những cuộc đàm phán đầu tiên giữa đại diện hai nước tham chiến dường như đã khẳng định sự nghi ngờ của Tổng thống Johnson là đúng.
Trước khi phái đoàn Mỹ rời Washington đi Paris, Tổng thống đã gặp huấn thị và nhắc lại sự nghi ngờ của mình đối với tương lai của cuộc đàm phán.
Tổng thống nói với Harriman và các thành viên trong đoàn rằng: "Chúng ta sắp đàm phán, tôi vui mừng vì điều đó, nhưng tôi không quá hy vọng. Tôi nghĩ đàm phán sẽ hóc búa, đầy hóc búa…".
Mặc dù các phiên họp sơ bộ diễn ra trôi chảy và thậm chí hy vọng đạt được tiến bộ quan trọng, nhưng khi hội đàm chính thức vào ngày 13 tháng 5 tại Khách sạn Majestic Paris, nơi mà Gestapo đã dùng làm căn cứ chỉ huy trong suốt cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, thì niềm lạc quan đã biến thành mây khói.
Các nhà đàm phán của cả hai bên đã công kích lẫn nhau, cả Harriman và Xuân Thuỷ đều không nhận được chỉ thị phải mềm dẻo, phù hợp trong đàm phán.
Do vậy, Rusk đã nhấn mạnh với Harriman rằng sứ mệnh của ông ta ở Paris chỉ tập trung tìm ra những gì Bắc Việt Nam chuẩn bị làm để đáp lại kế hoạch ném bom hạn chế của Mỹ.
Không có cuộc đàm phán nào mà Mỹ chịu nhân nhượng. Đại diện Mỹ ở bàn Hội nghị hầu như chấp hành nghiêm túc chỉ thị từ Washington. Các chỉ thị này nói rõ mục tiêu cơ bản của đàm phán là: "Dàn xếp với đại diện Bắc Việt Nam đàm phán ngay và đi vào những vấn đề thực tế tìm kiếm hoà bình ở Việt Nam. Trong quá trình dàn xếp phải làm cho phía Việt Nam hiểu rõ Mỹ ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam là có điều kiện, chứ không phải là sự thất thế quân sự của Mỹ".
Cuối cùng muốn nói rằng Hà Nội chấp nhận tôn trọng vùng, khu phi quân sự, không đưa thêm linh Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam và chứng nhận hoà giải tham gia đàm phán với Nam Việt Nam tức Chính phủ Sài Gòn.
Hà Nội không đi nhanh hơn Washington.
Việc Hà Nội cử Xuân Thuỷ làm trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris cho thấy Hà Nội ít hy vọng giải quyết nhanh một số vấn đề cơ bản. Đảng Lao động Việt Nam chọn Xuân Thuỷ là việc làm thận trọng.
Các nhà ngoại giao xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội nghi ngờ rằng việc cừ Xuân Thuỷ đến Paris chứng tỏ Hà Nội chỉ mong làm vừa lòng Bắc Kinh, người kịch liệt phản đối đàm phán với Hoa Kỳ mà khắp thủ đô Hà Nội ai cũng biết.
Xuân Thuỷ, đã từng làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Trung và là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam dân chủ cộng hoà, ông bị mất chức khi quan điểm thân Trung Quốc chưa phải là phổ biến ở Bắc Việt Nam.
Mặc dù sau này Xuân Thuỷ trở thành người có quan điểm dân tộc hơn là thân Trung Quốc nhưng việc Xuân Thuỷ được cử làm Trưởng đoàn đại diện Việt Nam dân chủ cộng hoà có thể làm yên lòng Trung Quốc.
Quyết định phái Xuân Thuỷ đến Paris, Hà Nội đạt được hai mục đích.
- Trước hết là tránh được sự rủi ro không cần thiết trong quan hệ với đồng minh khổng lồ Trung Quốc.
- Thứ hai là dựa vào sự cứng rắn không thoả hiệp của ông để tìm hiểu ý đồ của Washington đối với Hội nghị Paris.
Vì vậy cuộc đàm phán đã nhanh chóng đi vào bế tắc: chỉ gặp nhau hai lần trong một tuần và chủ yếu là để luận chiến và tuyên truyền. Cả hai bên đều bám giữ quan điểm của mình, không có dấu hiệu thoả hiệp.
Harriman đọc một bải diễn văn chứa đầy chỉ thị của Tổng thống Johnson, yêu cầu Bắc Việt Nam phải có những bước đi đáp lại việc ngừng ném bom từng phần của Mỹ.
Xuân Thuỷ đáp lại bằng một bài diễn văn dài hơn tố cáo sự xâm lược của Mỹ.
Các cuộc đàm phán kéo dài lê thê không mang lại kết quả chỉ, tập trung chọc tức lẫn nhau: Chất lượng thông tin của các cuộc đàm phán không còn, giới báo chí ở Paris chạy toán loạn để săn tin.
Các quan chức ở Washington bắt đầu thất vọng với kết quả đàm phán. Họ lại còn thất vọng hơn khi nghe tin chính quyền Bắc Việt Nam mở một cuộc tấn công mới vào lính Mỹ ở Đường 9 Nam Lào.
Chính quyền Washington bắt đầu phải tính đến biện pháp trả đũa các hoạt động leo thang quân sự của Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Không khí giới lãnh đạo Mỹ thất vọng về kết quả đàm phán của Hội nghị hoà bình Paris mà ở Moskva giới lãnh đạo cao nhất của Liên Xô cũng rất quan tâm đến diễn biến của tình hình.
Báo chí, luôn là cái loa tuyên truyền của Kreml, đã thay đổi giọng điệu từ lạc quan, thận trọng sang ngày càng nghi ngờ.
Một ngày trước khi diễn ra cuộc "trao đổi chính thức giữa phái đoàn Mỹ và phái đoàn Bắc Việt Nam, báo Pravda đăng một bài dài về cuộc đàm phán sắp diễn ra cùng với tiểu sử của Harriman và Xuân Thuỷ.
Bài báo này cung cấp cho độc giả những chi tiết về cuộc đàm phán, phản ánh vai trò quan trọng của Kreml vượt qua mối quan tâm của độc giả.
Tuy nhiên, gần đến ngày đàm phán, giọng điệu của Pradva thay đổi.
Ngày 17 tháng 5, Pradva lưu ý độc giả rằng hai phiên họp đầu tiên đã chẳng mang lại được lí do "để tin tưởng vào thái độ thiện chí của các nhà lãnh đạo Mỹ, sẵn sàng không leo thang xâm lược Việt Nam".
Hai ngày sau, báo Pradva lại đăng một bài chỉ trích gay gắt và thậm chí nghi ngờ thái độ của phái đoàn Mỹ.
Bài báo viết: "Rõ ràng thái độ của Mỹ là muốn cuộc đàm phán càng dài càng tốt để có thời gian chuẩn bị cho các hoạt động quân sự với quy mô lớn hơn và khi đó họ mới lấy lí do "thái độ không thoả hiệp" của Việt Nam để ném bom trở lại trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam dân chủ cộng hoà và cố gắng giành lại thắng lợi bằng quân sự".
Bài báo do Yun Zhuko viết đã thể hiện sự hoài nghi sâu sắc nhất của Ban lãnh đạo Liên Xô.
Moskva lo ngại rằng sự bế tắc trong đàm phán có thể làm đổ vỡ toàn bộ tiến trình tìm kiếm một giải pháp hoà bình ở Việt Nam.
Tuy Moskva công khai lên án Mỹ, nhưng giới lãnh đạo Liên Xô cũng thấy rằng Hà Nội cũng phải chịu trách nhiệm về sự bế tắc này.
Họ nắm chắc diễn biến tình hình trong các cuộc hội đàm và trước hết Bắc Việt Nam đã rõ từng chi tiết về các cuộc đàm phán với nhóm đàm phán của Harriman.
Chính Harriman còn có các nguồn tin khác vì sau khi đến Paris, ông đã cố gắng bằng mọi cách để duy trì quan hệ với Moskva qua Đại sứ quán Liên Xô.
Do tin rằng chỉ có Liên Xô mới có thể giúp Mỹ tìm cách giảng hoà với Bắc Việt Nam, Harriman trước lúc đến Paris đã xác định trách nhiệm phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô qua đối thoại với Đại sứ Liên Xô Dobrynin ở Washington.
Chẳng hạn, ngày 8 tháng 4 khi Dobrynin nhấn mạnh Chính phủ Liên Xô muốn có một giải pháp hoà bình ở Nam Việt Nam thì Harriman "đã cố gắng thuyết phục ông ta rằng Liên Xô phải thực sự ra tay nhằm giành được mục tiêu trên".
Về vấn đề này, trước khi đến Paris, trong bữa cơm trưa với Đại sứ Liên Xô ngày 5 tháng 5, Harriman đã nói thẳng thắn rằng phía Mỹ cần đến sự hợp tác của Liên Xô.
Tại Paris, Harriman làm nhiệm vụ liên lạc giữa đoàn Mỹ và đại sứ quán Liên Xô.
Ngày 18 tháng 5, đúng ngày diễn ra các cuộc trao đổi giữa hai phái đoàn, ông đã liên hệ với Đại sứ quán Liên Xô, mời Đại sứ Zorin đến trụ sở đoàn Mỹ gặp gỡ, làm việc.
Sau đó hai ngày, Zorin trả lời sẽ chờ Harriman đến Đại sứ quán Liên Xô làm việc chứ không đến Đại sứ quán Mỹ.
Sergei Bogomcov, Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Liên Xô đã thông báo cho phái đoàn Mỹ như vậy và giải thích rằng trưởng đoàn Bắc Việt Nam thường đến Đại sứ quán Liên Xô làm việc với Zorin do vậy cũng mong trưởng phái đoàn Mỹ cũng làm như thế.
Harriman từ chối việc này.
Ông ta không muốn đến trình diện bất cứ một đại sứ nào khác và cho biết Đại sứ Anh và đại sứ các nước khác tới thăm ông ta, do đó mong rằng đại sứ Zorin sẽ tới trong một vài ngày tới.
Nhưng Zorin viện cớ đang có các cuộc gặp khác, và mời Harriman tới Đại sứ quán Liên Xô.
Trò mèo vờn chuột này tiếp diễn trong hai ngày cho tới lúc cả hai ông nhất trí gặp nhau tại Tư dinh Đại sứ Mỹ Slivor, ngày 19 tháng 5.
Valentin Oberemko, Tham tán trong Sứ quán Liên Xô đã đến làm việc với Harriman để dàn xếp cho cuộc gặp này và tìm hiểu tình hình các cuộc hội đàm sau phiên khai mạc.
Trưởng đoàn đàm phán Mỹ đã tỏ rõ thất vọng về "sự thiếu chính xác, sai trái trong các tuyên bố của phía Bắc Việt Nam đang biến các cuộc hội đàm thành một hoạt động tuyên truyền".
Harriman hy vọng sẽ sớm có thể tiếp tục bàn tới các vấn đề mấu chốt, "nhưng phía Bắc Việt Nam vẫn ngạo mạn một cách quá đáng".
Lời đáp của Oberemko nói rõ vai trò quan trọng của Liên Xô đối với các cuộc hội đàm. Ông ta nhấn mệnh: "Việc đề xướng các cuộc đàm phán khởi đầu một tiến trình không thể đảo ngược được, phía Bắc Việt Nam cũng thấy rõ điều này và quyết tâm thực hiện một cách nghiêm tức".
Ngay lập tức, Harriman sừ dụng tuyên bố này để khẳng định vai trò của Liên Xô trong việc thúc đẩy các cuộc hội đàm tiến triển: "Liên Xô giữ một vai trò chủ chốt trong các cuộc đàm phán" và "ông ta không tin rằng các cuộc đàm phán sẽ thắng lợi nếu thiếu sự hỗ trợ của Liên Xô. Do đó, Harriman hy vọng sẽ quan hệ chặt chẽ với các đại diện của Liên Xô" ở Paris.
Sau đó Harriman đã giải thích rõ các mục tiêu của Mỹ tại các cuộc hội đàm. Ông nói rằng để thuyết phục cả hai ông Kosygin và Dobrynin, ông đã nghiên cứu "kĩ lưỡng" cương lĩnh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và thấy tuy còn nhiều mâu thuẫn nhưng có thể chấp nhận được. Ông cho biết Chính phủ Mỹ mong muốn trong các cuộc đàm phán liên quan đến tương lai của Nam Việt Nam, phải có phía chính quyền Sài Gòn tham dự.
Harriman còn lo ngại Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục chuyển lực lượng ở mức độ ngày càng cao vào miền Nam và chưa thấy có dấu hiệu kiềm chế nào từ phía Hà Nội.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên này đã xác định được những đường hướng chính cho cuộc hội đàm giữa các đại diện Mỹ và Zorin.
Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với Harriman, theo chỉ đạo của Moskva, Zorin không có tuyên bố gì mới về lập trường đã quá rõ của Liên Xô đối với các cuộc hội đàm.
Mục tiêu chính của ông ta là phải tìm hiểu cho được đánh giá tình hình của Washington và chính quyền Johnson sẵn sàng đi tới đâu trong cuộc hội đàm với Hà Nội, khi các đại diện Mỹ lên án thái độ cứng rắn của Bắc Việt Nam và việc Bắc Việt Nam tăng cường quân đội vào miền Nam sau khi Mỹ ngừng ném bom từng phần Zorin nói thẳng tưng rằng lập trường của Bắc Việt Nam là "Rõ ràng và kiên định". Thực chất, sẽ không thể có một bước tiến triển nào trong đàm phán nếu Mỹ không ngừng vô điều kiện việc ném bom Bắc Việt Nam.
Zorin nhấn mạnh rằng về phần mình, Chính phủ Liên Xô hiểu rõ và ủng hộ việc đó. Đại sứ Liên Xô khẳng định lại điều này nhiều lần còn Harriman vẫn kiên định lập trường. Đối với Mỹ, quan hệ đầu tiên này với Liên Xô dường như không có kết quả lắm.
Tuy nhiên, Harriman cũng thấy được một số dấu hiệu đáng khích lệ. Chẳng hạn như việc Zorin không bác bỏ khả năng tiếp tục gặp gỡ Harriman. Thực vậy, ông ta đồng ý những quan hệ này cần được đuy trì và vạch ra chương trình quan hệ. Ông nói có vẻ rất vui khi gặp riêng Harriman và chỉ rõ Oberemko và Bogomolov là những kênh liên lạc khác.
Harriman còn có một cơ hội nữa để gợi ý tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa các phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam, "có thể có phía Liên Xô tham dự, nếu họ muốn". Vì không được lệnh từ Moskva về việc này, Zorin không nói gì và cho rằng điều đó thật "xa vời". Nhưng đối với phía Liên Xô, ý kiến này của Harriman là một khả năng có thể thực hiện được nhằm giải quyết bế tắc trong đàm phán và do đó sẽ được coi là một giải pháp tích cực.
Cuộc trao đổi đầu tiên giữa Zorin và Harriman có vẻ như đã được Moskva cân nhắc kĩ.
Kreml chỉ thị cho Zorin phải duy trì quan hệ với đoàn Mỹ, như Zorin đã thừa nhận trong cuộc trao đổi thứ hai của ông với Harriman, ngày 25 tháng 5 tại Đại sứ quán Liên Xô. Tinh thần của cuộc trao đổi này khác xa so với những gì xảy ra tại dinh Đại sứ quán Mỹ Shivew.
Theo Harriman báo cáo thì "Zorin có phần ít tranh luận hơn và ít ra cũng lắng nghe một cách nhã nhặn".
Mặc dù ông Zorin tuyên bố rằng lập trường của Liên Xô về những vấn đề chính trị của các cuộc hội đàm này vẫn kiên định trước sau như một, nhưng ông cũng tỏ ra quan tâm hơn đến lập luận của Harriman về những cuộc gặp gở bí mật giữa phía Bắc Việt Nam và Mỹ và cách nhìn nhận của Mỹ về các biện pháp có đi có lại của phía Bắc Việt Nam đối với việc Mỹ ngừng ném bom.
Về khả năng tổ chức các cuộc hội đàm bí mật giữa người đại diện của hai đoàn đàm phán, Zorin hỏi thêm về thành phần của những cuộc gặp gỡ đó, liệu các cuộc họp này có thể bao gồm cả hai hay ba đoàn từ các phía đến tham dự hay không? Bàn về vấn đề đáp ứng lại và kiềm chế của Hà Nội càng khó khăn hơn, vì mỗi bên đều tái khẳng định lập trường của mình về vấn đề này mà không hề có sự điều chỉnh đáng kể nào.
Harriman đề cập đến bài diễn văn 31 tháng 5 của Johnson và nhắc lại mục đích của Mỹ muốn bàn về một cuộc ngừng ném bom, chứ không phải để tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Ông ta cũng lưu ý các đồng nghiệp phía Liên Xô rằng về các tuyên bố của Bắc Việt Nam hồi tháng tư chứng tỏ Hà Nội đã hiểu sự việc theo nghĩa trên. Theo quan điểm của Harriman, phía Bắc Việt Nam đã đi chệch hướng các cuộc Hội đàm tại Paris.
Zorin tỏ ra quan tâm đặc biệt đến tuyên bố của Harriman rằng: Mỹ hy vọng có một dấu hiệu kiềm chế từ phía Hà Nội và Mỹ không yêu cầu có một tuyên bố chính thức đáp lại, điều này phía Bắc Việt Nam nhất định sẽ phản đối.
Đại sứ quán Liên Xô nói rằng phía Mỹ đã không nói trực tiếp vấn đề này cho phía Bắc Việt Nam biết.
Harriman nói tới tính chất công khai của các cuộc trao đổi chính thức đã ngăn ông ta không làm việc đó.
Nhưng ông ta hứa sẽ thông báo cho đoàn Bắc Việt Nam có thể làm một điều gì đó "bằng hoạt động hoặc bằng lời nói" thể hiện sự kiềm chế của mình đáp lại những biện pháp đơn phương của Mỹ.
Cuộc trao đổi tại Đại sứ quán Liên Xô chứng tỏ Moskva đang tích cực tìm kiếm giải pháp thoả hiệp tại Paris.
Kreml rõ ràng đã cho Hà Nội biết ý tưởng tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa khai phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam, cũng như việc kiềm chế hành động.
Khi liên lạc với phía Bắc Việt Nam, các nhà lãnh đạo Liên Xô chắc chắn đã đề cập tới nguy cơ kéo dài vô tận các cuộc đàm phán, lưu ý Hà Nội về lới khuyến cáo của Harriman về ấn tượng không thuận lợi có thể ảnh hưởng đến công chúng Mỹ, và về ý đồ của chính quyền Johnson muốn tái ném bom toàn bộ Bắc Việt Nam. Có thể những lập luận này thuyết phục được phía Bắc Việt Nam.
Hai quyết định quan trọng của Hà Nội gửi cho đại diện có thế lực nhất: ông Lê Đức Thọ, đồng ý tổ chức các cuộc gặp bí mật giữa hai phái đoàn có thể đó là kết quả của việc gây áp lực đối với Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam từ phía các đồng chí của họ ở Kreml.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã khẩn trương thông báo cho Đại sứ của mình ở Paris về những thay đổi này trong lập trường của Hà Nội.
Chỉ hai ngày sau cuộc gặp đầu tiên với Harriman tại Đại sứ quán Liên Xô, Zorìn đã trả lời: Không, khi Harriman hỏi liệu Zorin có cho việc tổ chức các cuộc hội đàm là "quá sớm" hay không.
Harriman đề nghị đại sứ Liên Xô thông báo cho phía Bắc Việt Nam biết về việc đó để xem phản ứng của Việt Nam thế nào.
Zorin cho rằng các cuộc hội đàm kín có thể diễn ra cùng với các cuộc gặp gỡ công khai mà họ "không thể trì hoãn được".
Lời lẽ và ý tứ của Đại sứ Liên Xô thận trọng. Zorin nói: "Theo ý kiến cá nhân tôi, phản ứng của họ (Bắc Việt Nam) vào thời điểm này có thể là tiêu cực… nhưng với kinh nghiệm ngoại giao của mình, ngài thống đốc chắc thấy rằng tình hình đang thay đổi và có thể sau này phản ứng của họ sẽ tích cực tuỳ thuộc vào sự tiến triển của các cuộc hội đàm công khai".
Zorin hầu như không thể chỉ đưa ra "ý kiến cá nhân của mình" về vấn đề này.
Được đề bạt lên một chức vụ quan trọng trong bộ máy ngoại giao của Liên Xô dưới thời Stalin, ông không quen với việc có ý kiến riêng và truyền đạt cho các nhà ngoại giao nước ngoài mà không được cấp trên cho phép. Ông là một nhà ngoại giao của "Viện Molotov", một người thừa hành nghiêm túc các quyết định của lãnh đạo. Và Harriman đã biết điều này rất rõ.
Trong một cuộc trao đổi không chính thức với Dobrynin tại nhà ở phố N, Washington "Con sâu già" này (đồng nghiệp ở Washington thường gọi Harriman với cái tên này vì ông thường đặt ra những câu hỏi hóc búa và những nhận xét khó chịu) đã hỏi đồng nghiệp Liên Xô tại sao Chính phủ Liên Xô không bố trí một người khác nhạy cảm hơn Zorin ở Paris..".
Trong báo cáo về cuộc trao đổi này, Harriman còn nói rõ: "Tôi nói cho ông ta rằng tôi hối tiếc việc Liên Xô không bố trí một người "tân tiến" hơn Zorin ở Paris…".
Như vậy Harriman chắc chắn đã nhận thấy tuyên bố thận trọng của Zorin là đáng hy vọng.
Do những thay đổi điều kiện trong các cuộc Hội đàm Moskva rõ ràng đã muốn Ban lãnh đạo Bắc Việt Nam quyết định cử Lê Đức Thọ đến Paris cùng đàm phán với Xuân Thuỷ.
Khác hẳn với mục đích ban đầu của Bắc Việt Nam chỉ duy trì đàm phán suông, Cộng sản Việt Nam giờ đây có ý muốn chuyển hội đàm tay bo "gợi ý và bác bỏ", sang thành các cơ hội để đàm phán, nhượng bộ lẫn nhau.
Với cương vị Uỷ viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam; không giống như Xuân Thuỷ, Lê Đức Thọ là người có khả năng ra quyết định và trong một số trường hợp có thể gây ảnh hưởng đối với lập trường của Hà Nội về các cuộc hội đàm.
Tuy Moskva biết rằng lãnh đạo Bắc Việt Nam coi các cuộc đàm phán chỉ là một phần của chiến lược chung "vừa đánh vừa đàm" của họ, nhưng phía Liên Xô cũng có tin về việc Bắc Việt Nam muốn đàm phán.
Đầu tháng giêng năm 1968, Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội đã báo cáo rằng trong giai đoạn đầu đàm phán, phía Việt Nam cố đạt được việc Mỹ ngừng ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam cùng với việc rút hết lực lượng hải quân và không quân Mỹ ra khỏi Việt Nam. Giai đoạn này phải có các cuộc tiếp xúc trù bị giữa hai phía Bắc Việt Nam và Mỹ nhằm xác định rõ toàn bộ phạm vi vêu cầu đàm phán. Các cuộc hội đàm sau đó có thể bắt đầu có sự tham gia của đại diện Mặt trận dân tộc giải phóng mền Nam (NLF) và chế độ Sài Gòn ở giai đoạn sau. Cuối cùng thì tiến trình này có thể được kết thúc với một hội nghị theo kiểu Hội nghị Geneve để có bảo đảm quốc tế về giải pháp cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Dẫu mối hoài nghi của Moskva với quyết tâm của Bắc Việt Nam theo đuổi kế hoạch này như thế nào đi nữa; thì việc cử Lê Đức Thọ đến Paris có thế đã xua tan những nghi kị đó.
Khi dừng chân tại Moskva trên đường đến Paris, Lê Đức Thọ đã được Kosygin đón tiếp thể hiện rõ quan tâm của Liên Xồ đối với sứ mệnh của ông ta.
Cuộc gặp gỡ ba ngày sau khi Kosygin gửi thư cho Tổng thống Johnson. Trong đó Kosygin dùng lời lẽ mạnh mẽ và dứt khoát để mô tả việc khơi đầu các cuộc đàm phán chính thức giữa các đại diện của Mỹ và Bắc Việt Nam là một khả năng thực tế để tìm ra giải pháp cho tình hình hiện tại ở Việt Nam với mục đích chấm dứt cuộc chiến đẫm máu kéo dài nhiều năm qua ở Việt Nam.
Kosygin nói rằng: "Nhân dân trên toàn thế giới mong đợi những kết quả tích cực của các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam tại Paris, và kết quả đó gắn liền với triển vọng làm giảm tình hình quốc tế căng thẳng".
Sau khi bày tỏ lo ngại rằng sự trì trệ trong đàm phán, có thể đưa đến việc Mỹ tiếp tục ném bom phá hoại Bắc Việt Nam, Kosygin đã lưu ý Tổng thống Mỹ rằng Chính phủ Liên Xô đã "hơn một lần" bày tỏ ý kiến của mình là "việc Mỹ chấm dứt toàn bộ và vô điều kiện ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Bắc Việt Nam có thể mở ra con đường tới giải pháp hoà bình". Theo quan điểm của Kosygin thì việc ném bom là "trở ngại chính chặn đường tiến của hội đàm Paris".
Phần tiếp lá thư của Kosygin đã gây nhiều tranh cãi trong nội bộ chính quyền Johnson, nhất là trong số các cố vấn Tổng thống.
Kosygin viết: "Tôi và các đồng nghiệp của mình tin rằng, và chúng tôi có cơ sở để nói điều đó, "việc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác liên quan đến Bắc Việt Nam", có thể đưa đến sự khai thông tình hình, mở ra triển vọng đạt tới một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến". Kosygin đảm bảo với Washington rằng một biện pháp như vậy sẽ "không thể gây hậu quả ngược lại đối với Mỹ, không thiệt hại về quyền lợi lẫn uy tín quốc tế của Mỹ". Kosygin kết thúc lời kêu gọi Washington của mình với một thông điệp rằng theo yêu cầu của Harriman, Chính phủ Liên Xô đã khuyến cáo các đại diện của phía Việt Nam về lợi ích của các "cuộc đàm phán không chính thức giữa Mỹ và Bác Việt Nam, vì Moskva tin rằng "tất cả các hình thức quan hệ trao đổi giữa hai bên phải được tận dụng".
Chắc chắn lá thư này là kết quả các cuộc Hội đàm giữa Kosygin với Lê Đức Thọ.
Có thể trong các cuộc hội đàm này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông báo cho Lê Đức Thọ về các cuộc trao đổi ở Paris, giữa Zorin và Harriman và đã làm rõ được quan điểm của Hà Nội về triển vọng đi tới một giải pháp cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Phải chăng Bắc Việt Nam chắc chắn sẽ không phản bác các cuộc hội đàm nghiêm chỉnh với phía Mỹ một khi việc ném bom chấm dứt nên ban lãnh đạo Liên Xô đã quyết định gây sức ép mạnh mẽ và đòi Washington chấm dứt ném bom.
Tuy nhiên, Johnson chưa hẳn tin ngay những tín hiệu đó của Moskva, Johnson viết trong nhật ký rằng: "Tôi vẫn nhớ rõ đảm bảo Moskva cuối năm 1965 rằng nếu chúng tôi ngừng ném bom Bắc Việt Nam trong mười hai hoặc hai mươi ngày thì điều tốt lành sẽ đến. Trên cơ sở đó, chúng ta đã ngừng ném bom không phải trong mười hai hay hai mươi, mà ba mươi bảy ngày nhưng không hề có gì tốt đẹp xảy ra… cái mà Moskva nói lúc này là điều họ đã không nói ra hai năm rưỡi trước đây".
Cả Rusk và Rostow đều nhất trí vơi Johnson về việc này.
Trong cuộc gặp của Tổng thống với các cố vấn về chính sách đối ngoại ngày 9 tháng 6, Rusk đã mô tả bức thông điệp của Kosygin là "khó hiểu".
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ cần phải làm rõ hơn, thậm chí phải đảm bảo chắc chắn rằng Hà Nội "sẽ làm một việc gì đó cụ thể để đáp lại việc Mỹ ngừng ném bom".
Lập luận này mâu thuẫn với lập luận của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Clark Clifford, Harriman và Vance (lúc này cả Harriman và Vance đã đề nghị Washington).
Clifford coi lá thư của Liên Xô là: "Một cử chỉ tích cực có thể đặt Moskva đúng chỗ để phát huy tác dụng". Ông đề nghị Tổng thống "hãy vui vẻ nhận thư" và tuyên bố ngừng ném bom trên toàn lãnh thổ Bắc Việt Nam, nói rõ cho cả Moskva và Hà Nội biết rằng nếu phía Bắc Việt Nam không có hành động đáp lại tượng ứng thì Mỹ sẽ huỷ bỏ lệnh ngừng ném bom. Clifford thay đổi căn bản quan điểm về chiến tranh từ khi ông được bổ nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông tin rằng việc ném bom không thể kết thúc chiến tranh: "Muốn chấm dứt chiến tranh thì phải dàn xếp với Liên Xô để họ sử dụng ưu thế của mình mà Mỹ không có, buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh". Đối với việc ngừng ném bom ba mươi bảy ngày của Mỹ, ông cho rằng bối cảnh tình hình đã thay đổi và không cần phải có việc đó sớm như vậy.
Trong khi thảo luận về cách đáp lại lời đề nghị của Moskva, không một ai ủng hộ Clifford.
Harriman đồng ý với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ rằng lá thư này của lãnh đạo Liên Xô là "cực kỳ quan trọng" và việc Mỹ có phản ứng tích cực đáp lại đảm bảo của Kosygin "có thể là một bước khai thông tình hình", nhưng ông ta không dám đương đầu chống lại ý kiến của Tổng thống Johnson vì thấy rõ vị trí, vai trò của mình và thái độ của Tổng thống đối với Rusk.
Nhưng sau này trong một báo cáo "hoàn toàn mang tính chất cá nhân", ông ta cho rằng phản ứng như vậy của chính quyền Mỹ lúc đó trước bức thông điệp của Kosygin đã làm mất đi cơ hội đạt được một giải pháp có thể chấp nhận được đối với Bắc Việt Nam vào hè 1968.
Johnson trả lời Kosygin rất dè dặt.
Ông ta thông báo cho Kosygin biết Mỹ sẵn sàng chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam chỉ khi nào được thông báo các bước giảm các hoạt động vũ lực của Bắc Việt Nam.
Tổng thống đảm bảo với Kosygin rằng ông ta rất vui lòng bàn bạc trực tiếp các vấn đề trên với Chính phủ Liên Xô.
Ông viết: "Nếu ngài khẳng định với chúng tôi rằng sẽ không có một hậu quả xấu nào về mặt quân sự đối với các lực lượng của Mỹ và đồng minh của Mỹ, thì chúng tôi sẵn sàng chấp nhận tuyên bố của ngài và sẽ ban bố những mệnh lệnh cần thiết".
Ngày 11 tháng 6, Rusk chuyển thư phúc đáp của Johnson cho đại sứ Liên Xô, Dobrynin.
Sự thất vọng của Liên Xô đối với một bức thư như vậy mãi sau này mới được biết qua cuộc trao đổi giữa Dobrynin với các nhà ngoại giao Mỹ rằng Moskva hy vọng có lời đáp tích cực hơn của Washington.
Dobrynin cho biết Liên Xô hy vọng Chính phủ Mỹ sẽ chấp nhận lời đề nghị của Kosygin.
Khi trao đổi với Lewellyn Thompsom ngày 13 tháng 6, Dobrynin cho rằng Mỹ đã bỏ lỡ một cơ hội.
Hoàn toàn thận trọng để không sa vào thế phải làm trung gian hoà giải và ông nhấn mạnh trong trường hợp này, "họ đã đi quá xa".
Trong khi Thompson bao biện cho sự nghi ngại của Tổng thống Johnson vì những ấn tượng không tốt sau những lần ngừng ném bom trước đây, Dobrynin chỉ rõ sự khác biệt giữa lá thư mới nhất của Kosygin với những thông điệp trước đây của Liên Xô.
Dobrynin cho biết tuyên bố của ông là "bản viết tay của người đứng đầu Chính phủ và hơn nữa ông ra lời tuyên bố đó dưới danh nghĩa Chính phủ Liên Xô".
Người ta có thể tự hỏi liệu Ban lãnh đạo Liên Xô có các mục tiêu kín đáo nào, nhằm thuyết phục Mỹ đồng ý ngừng ném bom vô điều kiện, ngoài ý muốn thường thấy của Liên Xô là thúc đẩy các kế hoạch của các "bạn" Việt Nam.
Tại một cuộc gặp gỡ với Tổng thống Mỹ ngày 9 tháng 6 để thảo luận lá thư của Kosygin, Charles Bohlen cho rằng nếu Mỹ ngừng ném bom toàn Bắc Việt Nam thì sẽ làm tăng vị trí, vai trò của Liên Xô đối với Hà Nội và cho phép Liên Xô có lập trường quyết định hơn đối với Hà Nội.
Bohlen giãi bày suy nghĩ này, với Dobrynin vài ngày sau đó xin ý kiến của Dobrynin thế nào.
Ông nói với Dobrynin rằng ông cảm thấy điều mà Liên Xô đang cố tỏ cho Mỹ biết rằng Liên Xô cam kết với Bắc Việt Nam chủ yếu vì các cuộc tấn công của Mỹ đối với Bắc Việt Nam, nếu các cuộc tấn công hoàn toàn chấm dứt thì trách nhiệm của Liên Xô trong vấn đề này có thể sẽ giảm đi đáng kể.
Dobrynin tán thưởng về kinh nghiệm của Bohlen về các vấn đề Liên Xô và tránh trả lời trực tiếp câu hỏi của Bohlen.
Tuy nhiên, trong cuộc tráo đổi với Harriman ngày 22 tháng 6, Dobrynin tỏ ra tin tưởng nhà ngoại giao lão thành này hơn đồng nghiệp trẻ khác và đã nói gần giống như lời của Bohlen rằng: "Chính phủ Liên Xô có thể dễ dàng nói rõ ý kiến của mình hơn đối với Bắc Việt Nam khi việc ném bom đã chấm dứt hoàn toàn".
Bằng việc không chấp nhận lời đảm bảo của Kosygin, Chính phủ Mỹ đã làm Liên Xô mất đi uy tín đối với Hà Nội.
Nhưng rõ ràng những suy nghĩ đó mới chỉ là một phần của bài toán.
Toàn bộ sự thật là Liên Xô muốn giải quyết chiến tranh ở mức độ ít nhiều có thể chấp nhận phù hợp theo cách nhìn nhận của họ, với tình hình thế giới và thế của Liên Xô cũng như phù hợp với các kế hoạch của Hà Nội.
Các cuộc hội đàm ở Paris thể hiện hy vọng thực hiện được những mục tiêu đó mà không ngại phải chịu những tổn thất lớn hơn nữa.
Khi Johnson từ chối ngừng ném bom, vì sợ rằng hành động này của Mỹ sẽ làm Bắc Việt Nam thất vọng, đồng thời hy vọng tìm được một thoả hiệp nào đó thì Moskva vội vã thuyết phục Hà Nội không bỏ cuộc.
Ngày 13 tháng 6 trong thư gửi Hà Nội, các nhà lãnh đạo Liên Xô đã khẳng định lại tầm quan trọng của các cuộc hội đàm ở Paris để đi đến một giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh Việt Nam. Thời điểm quyết định phụ thuộc vào mặt trận ngoại giao và quan trọng là phải hiểu rõ cách làm thế nào để giải quyết vấn đề Việt Nam. Kreml đã dành cho các đồng chí Việt Nam toàn bộ sức mạnh quốc tế của Liên Xô để đạt được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao càng sớm càng tốt.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô còn viết trong lá thư đó rằng Harriman đã nhấn mạnh đến nhu cầu đàm phán các vấn đề nằm ngoài vấn đề ngừng ném bom của Mỹ như vấn đề phi quân sự (DMZ), lịch trình đôi bên cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và việc Chính phủ Sài Gòn tham gia vào các cuộc hội đàm.
Hà Nội đáp lại lời kêu gọi của Moskva chẳng lấy gì mặn mà hơn phản ứng của Washington.
Như Đại sứ quán Liên Xô báo cáo rằng phải mất gần một tháng sau mới có trả lời của Hà Nội, trong đó không hề có "một luận điểm nào mang tính xây dựng nhằm đạt tới một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam phù hợp với tình hình thuận lợi hiện nay".
Báo cáo này còn kết luận rằng Ban lãnh đạo Liên Xô có thể đã không đánh giá hết được vai trò quan trong của các khía cạnh chính trị trong giải pháp đó.
Cũng theo các nhà ngoại giao Liên Xô tại Hà Nội cho biết thì nhân tố Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc vạch chính sách của Bắc Việt Nam.
Phản ứng của Bắc Kinh đối với các cuộc Hội đàm ở Paris không hề có dấu hiệu tích cực nào. Rõ ràng, Hà Nội đã nhất trí phải ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ mà không hề hỏi ý kiến phía Trung Quốc trước.
Thậm chí, sau khi Bắc Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đàm phán, trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh của lãnh đạo Bắc Việt Nam hồi tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc còn nói rằng, chưa phải lúc, Việt Nam ngồi vào đàm phán với Mỹ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh: "Chúng ta đã quá vội đi đến nhân nhượng".
Khi các cuộc Hội đàm bắt đầu ở Paris, thì Bắc Kinh phủ nhận các cuộc hội đàm này. Bào chí Trung Quốc đều bỏ qua những tin về hội đàm và lớn tiếng phê phán Pháp đã bố trí tổ chức các cuộc hội đàm. Đồng thời Bắc Kinh đã tiến hành biện pháp thực tế nhằm phá hoại giải pháp cuộc chiến ở Đông Nam Á.
Ban lãnh đạo Trung Quốc đã gây sức ép buộc Hà Nội từ bỏ quyết tâm đàm phán bằng việc tạo ra những khó khăn cho hàng loạt lĩnh vực hoạt động của Bắc Việt Nam.
Họ ngăn trở việc cung cấp viện trợ của Liên Xô cho Bắc Việt Nam, tiến hành các hoạt động khiêu khích đối với các tàu Liên Xô ghé các cảng của Trung Quốc trên đường đến Bắc Việt Nam và gây khó dễ cho Bắc Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Số các vụ khiêu khích như vậy trước đây đã xảy ra, nhưng nay tăng lên đáng kể.
Theo báo cáo của Đại sứ quán Liên Xô tại Trung Quốc hồi tháng 5 và tháng 6, phía Trung Quốc đã giữ lại trên lãnh thổ của mình khoảng tám trăm toa xe lửa chở vũ khí và trang thiết bị quân sự và khoảng bảy đoàn tàu hoả đặc biệt chở tổ hợp phòng không cho Bắc Việt Nam.
Rõ ràng, hành động này nhằm vào Liên Xô và Hà Nội vì ban lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Moskva phải chịu trách nhiệm đối với những hành động của Bắc Việt Nam trong việc đàm phán với Mỹ.
Việc chặn các tàu vận tải Liên Xô đến Việt Nam, đi cùng với hoạt động khiêu khích tại biên giới Xô-Trung, nơi đã xảy ra ngày càng nhiều cuộc xung đột, từ chín mươi vụ trong tháng giêng, tháng hai năm 1968, lên một trăm sáu mươi tư vú trong tháng 5.
Ngoài các kế hoạch ngăn trở Bắc Việt Nam ngồi vào hội đàm với Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn ra sức lợi dụng Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Bắc Kinh bắt đầu mở rộng các quan hệ riêng rẽ với Mặt trận dân tộc giải phóng, thuyết phục các nhà lãnh đạo Mặt trận tiếp tục "trường kỳ kháng chiến".
Moskva cũng có tin về âm mưu của Bắc Kinh tổ chức các đơn vị người Hoa ở Nam Việt Nam nhằm đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở đây. Đồng thời Ban lãnh đạo Trung Quốc cố gắng tiếp tục thuyết phục các bạn Bắc Việt Nam rằng, đàm phán với Mỹ là sai lầm và nguy hiểm.
Tháng 10 năm 1968, khi triển vọng đi đến một Hiệp định và việc Mỹ ngừng ném bom sắp có kết quả tại Hội đàm Paris, một quan chức cao cấp Trung Quốc đã nói với một đồng nghiệp Việt Nam tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc coi việc đó là "sự thoả hiệp giữa Việt Nam và Mỹ, một thất bại nghiêm trọng và tổn thất to lớn đối với nhân dân Việt Nam". Ông ta so sánh việc đó với Hiệp định Geneve 1954 và tuyên bố rằng Việt Nam "cần phải cho phép Mỹ tái ném bom và tấn công trên lãnh thổ Việt Nam". Theo phía Trung Quốc, Mỹ sẽ phải giảm bớt các cuộc không kích bắn phá Bắc Việt Nam để giảm căng thẳng tình hình ở miền Nam.
Đại sứ quán Liên Xô ở Bắc Kinh đã báo cáo, phân tích lý do tại sao lãnh đạo Trung Quốc kiên quyết chống lại các cuộc Hội đàm tại Paris.
Theo báo cáo thì việc tiếp tục cuộc chiến ở Việt Nam cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục đặt Trung Quốc trong tình trạng căng thẳng, nhân dân càng sợ chiến tranh xâm lược.
Đại sứ quán Liên Xô kết luận rằng về mặt tư tưởng, một giải pháp cho cuộc chiến Việt Nam sẽ giáng một đòn mạnh vào chiến lược quân sự "trường kỳ kháng chiến" của Mao và có thể dẫn đến làm suy sụp các tư tưởng khác của "Người cầm lái vĩ đại".
Theo những người Mao-ít, về mặt chiến lược, cuộc chiến tranh ở Việt Nam sẽ làm suy yếu cả Mỹ và Liên Xô, và làm tăng cơ hội đối đầu quân sự trực tiếp giữa hai đối thủ chính của Trung Quốc.
Ngoài ra, Đại sứ quán Liên Xô tin rằng Trung Quốc đang cố sử dụng các chiến thuật chiến tranh và lợi dụng sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Á nhằm tăng cường vị trí của mình ở khu vực này.
Sự phân tích có tính toán này của Bắc Kinh làm tăng mối lo ngại của Liên Xô về ảnh hưởng nguy hiểm tiềm tàng của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán ở Paris.
Mặc dù hồi tháng sáu đã xuất hiện một số dấu hiệu tích cực tại các cuộc hội đàm bí mật giữa các đại diện của hai phái đoàn Mỹ và Bắc Việt Nam. Nhưng vẫn chưa có một bước tiến đáng kể nào dung hoà được lập trường của Hà Nội và Washington.
Phải mất vài tuần phía Bắc Việt Nam mới đồng ý gặp gỡ bí mật.
Quyết định của Bắc Việt Nam có thể là kết quả cuộc trao đổi ngày 13 tháng 6, giữa Zorin, Harriman và Vance.
Khi Đại sứ Liên Xô Zorin thông báo cho phía Mỹ biết lập trường chính của Bắc Việt Nam là sẽ không bàn bạc các vấn đề nào khác hoặc không bắt đầu các cuộc đàm phán bí mật cho tới khí nào Mỹ chấm dứt ném bom, Harriman và Vance đã cảnh báo Zorin rằng tình trạng bế tắc này đe doạ nghiêm trọng đối với hy vọng có được các cuộc hội đàm thắng lợi.
Cả hai quan chức này cho rằng "sức ép hiện nay đối với Tổng thống đang gia tăng và nếu các cuộc tấn công của chế độ Sài Gòn càng kéo dài, cũng như tình trạng bế tắc ở Paris vẫn tiếp tục thì sức ép đó ngày càng quyết liệt".
Harriman tin rằng ảnh hưởng của Moskva đã thuyết phục được Hà Nội đến hội đàm ở Paris, đi ngược lại ý muốn của Bắc Kinh. Nếu các cuộc hội đàm tan vỡ thì đó chính là thất bại của Moskva và là thắng lợi của Bắc Kinh. Harriman nhấn mạnh rằng giữa Liên Xô, Bắc Việt Nam và Mỹ đều có những mục tiêu chung. Ông nói: "Cả ba phía đều muốn Bắc Việt Nam thoát khỏi sự kiềm toả của Bắc Kinh. Hơn nữa, Mỹ "hoàn toàn vui lòng" thừa nhận Bắc Việt Nam vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa. Còn đối với Nam Việt Nam, tương lai của nó phải do chính nhân dân Việt Nam quyết định lấy".
Harriman vận động Moskva giữ vai trò quyết định trong việc dàn xếp các cuộc hội đàm bí mật "phải được giấu kín nếu cần thiết, trong Đại sứ quán Liên Xô hoặc một nơi nào đó hoặc ngay tại trụ sở đoàn Bắc Việt Nam… có thể là hai ông Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ" sẽ hội đàm với Harriman và Vance.
Zorin trả lời rằng hiện tại không thể ảo tưởng rằng Hà Nội nhất trí gặp bí mật chỉ sau khi ngừng ném bom.
Mặc dù vậy, chắc chắn các đại diện đàm phán của Bắc Việt Nam đủ suy nghĩ để đi đến một bước quyết định.
Cuộc gặp kín đầu tiên giữa các thành viên cấp thấp của hai đoàn diễn ra ngày 17 tháng 6.
Tám ngày sau, Vance đã bí mật gặp Hà Văn Lâu.
Cũng ngày đó, Sherbakov đã thông báo cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam về nội dung cuộc trao đổi ngày 13 thảng 6 trong Đại sứ quán Liên Xô ở Paris.
Các nhà lãnh đạo Hà Nội có thể đã hài lòng vì họ theo đúng lời khuyên của các đồng chí Liên Xô.
Ngay từ đầu, các cuộc gặp gỡ bí mật giữa các thành viên hai đoàn Việt Nam và Mỹ đã không có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ tiến triển của các cuộc đàm phán trong các cuộc gặp gỡ bí mật này, phía Bắc Việt Nam vẫn giữ nguyên lập trường cũ như họ đã nêu ra trong các cuộc trao đổi chính thức.
Nhưng phía Mỹ cũng không đưa ra các thoả hiệp khác nhau khi mà họ cảm thấy không thể thực hiện được.
Trong một lần trao đổi bí mật với ông Hà Văn Lâu vào cuối tháng 6, ông Vance đưa ra một giải pháp có thể giải toả bế tắc về việc Mỹ ngừng ném bom và các bước đi tương ứng của Bắc Việt Nam.
Vance vạch ra kế hoạch "giai đoạn một - giai đoạn hai" với nội dung là phía Mỹ sẽ bí mật thông báo cho phía Bắc Việt Nam về ngày Mỹ chấm dứt ném bom trước khi tuyên bố công khai nếu Hà Nội sẵn sàng thực hiện các hành động tương xứng đã được thoả thuận trong các cuộc đàm phán tại Paris.
Như vậy kế hoạch này đã tạo ra vẻ ngoài của một bước đi đơn phương của Mỹ và giúp phía Bắc Việt Nam có thời gian suy nghĩ mà không có ấn tượng rằng các hành động đáp lại của mình gắn liền với việc ngừng ném bom của Mỹ.
Đó là thoả hiệp có lợi nhưng phía Bắc Việt Nam không từ bỏ lập trường kiêm quyết đòi Mỹ trước hết phải chấm dứt ném bom phá hoại thì Hà Nội mới đàm phán về các biện pháp phải thực hiện.
Trở ngại tưởng chừng không thể vượt qua được khi Tổng thống Johnson từ chối chấm dứt ném bom mà không biết gì về các biện pháp đáp lại từ phía Hà Nội.
Trong tình thế bế tắc này, với một thoả hiệp gần như trong tầm tay, phía Liên Xô đã đảm nhận vai trò như nhiều lần trước đây cho tới khi đàm phán chính thức bốn bên bắt đầu từ tháng 1 năm 1969. Đó là vai trò trung gian không chính thức nối hai bên tham gia đàm phán.
Tính chất không chính thức này đã giúp Liên Xô tự rũ bỏ mọi trách nhiệm và thực hiện chức năng môi giới khi Liên Xô nhận thấy có cơ hội đạt được thoả hiệp và thái độ tích cực từ phía Hà Nội.
Về mặt công khai, Kreml nhiều lần từ chối bất kỳ một đề nghị nào yêu cầu Liên Xô làm trung gian ở Việt Nam.
Ngay sau khi các cuộc Hội đàm Paris bắt đầu, Moskva vẫn giữ thái độ cực kỳ thận trọng tránh xuất hiện không chính thức hay hợp thức, vì Moskva biết rằng cả hai loại vai trò đó đều phải gánh vác nhưng bổn phận và chịu những hiểm hoạ nhất định.
Ban lãnh đạo Liên Xô không muốn cả hai việc đó.
Họ không muốn từ bỏ vị trí của mình đối với Việt Nam và các đồng minh khác trong phong trào Cộng sản thế giới. Đồng thời, bằng việc tránh công khai hoá vấn đề đã giúp Liên Xô có thể thực hiện được mục tiêu giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Đông Dương.
Do đó, khi kế hoạch "giai đoạn một - giai đoạn hai" tưởng chừng nhiều hy vọng nhưng không thúc đẩy được các cuộc hội đàm tiến triển, Moskva thông qua Zorin đề nghị có một điều chỉnh nhỏ.
Đại sứ Zorin đề nghị với phía Mỹ rằng Liên Xô đồng ý chấm dứt vô điều kiện việc ném bom, đồng thời hai bên thoả thuận danh mục rút lực lượng quân sự để bàn bạc sau khi ngừng ném bom.
Nói cách khác, như Thứ trưởng quốc phòng Mỹ, Paul Waruke đã viết trong báo cáo lên Clifford rằng: "Nhân tố chủ chốt là việc giảm các hoạt động quân sự sẽ đưa ra bàn bạc phải có tính chất có đi có lại, mỗi bên phải chấp thuận các biện pháp xuống thang chiến tranh nhất định. Do đó, các hành động có đi có lại có thể thực hiện sau khi chứ không phải trước khi ngừng ném bom". Waruke cho rằng Mỹ cần vạch ra một thể thức nào đó có thể đáp ứng được những yêu cầu mà Đại sứ Liên Xô đưa ra.
Nhóm đàm phán của Mỹ ở Paris thuận theo đề nghị trên của Liên Xô, nhưng Harriman và Vance kiên quyết đòi phải đàm phán về các hành động hai bên cùng tiến hành trước khi Mỹ tuyên bố ngừng ném bom.
Theo Harriman thông báo cho Zonn biết, tuy ông Hà Văn Lâu tỏ ra quan tâm đến kế hoạch trên của Mỹ, nhưng phía Bắc Việt Nam vẫn khăng khăng đòi Mỹ chấm dứt ném bom trước khi tiến hành bất kỳ một cuộc đàm phán nào.
Một lần nữa vấn đề này lại đi vào ngõ cụt.
Rusk giải thích cho Đại sứ Liên Xô Dobrynin rằng đối với Washington, việc chấm dứt ném bom và sau đó đàm phán về các hành động cùng xuống thang chiến tranh khác với việc chấm dứt ném bom và tiếp tục thực hiện xuống thang chiến tranh.
Ông ta biện luận rằng: "Đó phải thực sự là vấn đề xuống thang chiến tranh để đáp ứng việc thực hiện chấm dứt ném bom".
Dobrynin không tin và hỏi lại rằng liệu đối với Mỹ, việc ngừng ném bom có thể quá khó khăn đến thế không.
Trong lúc ở Paris, các nhà đàm phán đang lâm vào bế tắc thì chiến trường Nam Việt Nam yên lặng lạ thường.
Quân đội Sài Gòn ngừng pháo kích, việc chuyển quân và trang thiết bị chiến tranh vào khu phi quân sự (DMZ) chậm lại.
Phải chăng Hà Nội đánh tín hiệu đáp ứng lại lời kêu gọi của Mỹ hay đó chỉ là khoảnh khắc yên tĩnh trước một cuộc tấn công quân sự sắp xảy ra.
Harriman hiểu sự yên tĩnh này là dấu hiệu thể hiện phía Bắc Việt Nam muốn hợp tác trong việc giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam.
Sau khi tham kiến William Brundy và Nicholas Katezeubaeh, Thứ trưởng Bộ Ngoái giao Mỹ đang ở Paris đã gửi một báo cáo cho Washington đề xuất rằng Tổng thống Mỹ nên chấm dứt ném bom và cho sự im lặng trên là sự kiềm chế hành động quân sự theo yêu cầu của Mỹ.
Thật đáng ngạc nhiên, hầu hết các thành viên hay hoài nghi nhất trong chính quyền Mỹ lại ủng hộ rất tích cực sự diễn giải tình hình chiến trường nói trên.
Walt Rostow đã chuẩn bị một báo cáo cho Tổng thống. Trong đó, mặc dù dự đoán rằng khoảng yên tĩnh trong tháng 7 có thể là bão tố trong tháng tám, ông vẫn đề nghị cho phía Liên Xô biết Mỹ sẵn sàng ngừng ném bom vào ngày X, trên cơ sở đánh giá chiến trận đang giảm đi ở Nam Việt Nam.
Bằng cử chỉ này chính quyền Mỹ hy vọng sau khi ngừng ném bom, các hành động quân sự của Sài Gòn không bị tấn công và cả hai bên tham chiến tái lập ngay khu phi quân sự. Đồng thời, Washington có thể nói cho phía Liên Xô hiểu hơn về sự dàn xếp này. Rostow thừa nhận: "Đây là ván bài mạo hiểm và tốt nhất là đợi xem trên thực tế liệu Hà Nội có đáp ứng trực tiếp đề nghị của Zorin không. Nhưng sự thật bức thư ngày 5 tháng 6 của Kosygin đã mở đầu ván bài cho chúng ta nếu phải quyết định vấn đề thì nên mạnh dạn thúc đẩy tình hình tiến triển".
Thật là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cùng lúc với đề nghị của Harriman và kế hoạch cụ thể về các bước đi của Mỹ đưa ra ở Washington, tờ Thời báo New York cũng đưa ra một đề nghị tương tự. Phó Tổng thống Hubert Humphrey cũng phụ hoạ bài ca này của "những người yêu hoà bình".
Theo Harriman, Johnson "đã phá bĩnh".
Johnson gọi báo cáo của Harriman là "viển vông" và cho nó là một phần âm mưu bày đặt để buộc ông ta phải ngừng ném bom.
Ngày 30 tháng 7, Tổng thống đã lệnh cho Rusk phải tổ chức họp báo, Harriman gọi đây là: "Cuộc họp theo đường lối cứng rắn đã phá bỏ mọi thành quả công việc mà Vance và tôi đã và đang làm ở Paris từ đầu tháng 5. Điều này được phía Bắc Việt Nam coi là một thay đổi về lập trường. Trên thực tế, ông Hà Văn Lâu đã hỏi Vance nếu chúng tôi có thực sự đại diện cho Tổng thống không, vì các tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khác biệt với những gì mà tôi và Vance đang nói".
Trong hoàn cảnh như vậy đàm phán lại đi vào bế tắc và triển vọng vốn mờ nhạt về mặt thoả hiệp trên cơ sở kế hoạch giai đoạn một, giai đoạn hai đã tan biến thành mây khói.
Đàm phán trì trệ kéo dài suốt tháng 8 và hết tháng 9 mà không đạt được một kết quả đáng kể nào. Sau hàng loạt sự kiện này, Moskva giờ đây đã giảm bớt sự tham gia vào hội đàm.
Ban lãnh đạo Liên Xô quá bận rộn đối phó với khủng hoảng ở Tiệp Khắc nên không quan tâm nhiều đến tình hình ở vùng Đông Nam Á xa xôi này.
Các sự kiện ở Tiệp Khắc hồi tháng 8 năm 1968, và việc Liên Xô xâm lược nước này gắn chặt với cuộc chiến Việt Nam không chỉ vì những sự kiện này đã làm phân tán chú ý của Liên Xô đối với các cuộc Hội đàm ở Paris, mà vì Mỹ dính líu vào cuộc chiến Việt Nam, Liên Xô có thể cảm thấy rảnh tay hơn để xâm lược Tiệp Khắc mà không chịu một hậu quả nghiêm trọng nào ảnh hưởng đến vị trí của Moskva trong cộng đồng thế giới, hoặc chịu sự cấm vận nào của phương Tây.
Cuộc khủng hoảng ở Tiệp Khắc cũng đánh dấu một bước ngoặt trong việc tăng cường ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á so với ảnh hưởng của Trung Quốc, do đó đã tạo điều kiện cho Moskva rảnh tay hành động trong khu vực này. Ảnh hưởng này tạo cho Moskva triển khai mạnh mẽ hơn chính sách của mình nhằm chiếm quyền lãnh đạo kiểm soát các sự kiện quốc tế dù chúng diễn ra ở đâu trong một thế giới hai cực.
Ngăn cách giữa Moskva và Bắc Kinh ngày càng lớn cũng góp phần củng cố tham vọng của Liêu Xô trong cuộc đấu tranh giải phóng thế giới loài người khỏi hiểm hoạ của chủ nghĩa đế quốc.
Để đập lại việc Trung Quốc câu kết với phương Tây, lên án Liên Xô xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, Kreml phải kiên quyết bảo vệ chinh sách của mình không chỉ bằng những lời lẽ cứng rắn mà còn bằng hành động.