THIÊN THỨ BA
CÁC CHẾ ĐỘ VỀ VIỆC HỌC THI
Chương thứ 10
Vua Lê Thánh Tôn và Hội Tao Đàn

Trong triều Hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tôn là đời thạnh trị nhất. Ngài lưu tâm đếm việc văn học và khuyến khích việc trứ thuật. Bởi vậy ta phải xét riêng về đời Ngài.
Vua Lê Thánh Tôn (1442-1497). Ngài tên là Tư Thành, hiệu là Thiên Nam Động chủ, là ông vua thứ tư triều Hậu Lê, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Trong 38 năm làm vua, ngài đánh Chiêm thành để mở mang bờ cõi nước ta về mạn nam; lại sửa sang chánh trị, san định luật lệ, chẩn chỉnh phong tục (ngài đặt ra 24 điều giáo hóa cho dân thường giảng đọc để giữ lấy luân thường và phong hóa tốt).
Ngài cũng lưu tâm đến việc văn học lắm. Chính ngài đặt ra lệ xướng danh và khắc bia tiến sĩ để tưởng lệ các sĩ phu trong nước. Năm 1479, ngài sai tìm các tác phẩm của Nguyễn Trãi đã soạn ra. Cũng năm ấy, ngài sai Ngô Sĩ Liên biên tập bộ Đại Việt Sử ký toàn thư (sẽ nói ở năm thứ hai, chương thứ bảy). Tóm lại, ngài thật là một anh quân về triều Hậu Lê vậy.
Hội tao đàn.- Vua Lê Thánh Tôn có tài thơ văn và thích ngâm vinh, nên ngài có lập ra Hội Tao đàn (tao: tao nhã, văn chương; đàn: nền) chọn 28 người văn thần sung vào gọi là nhị thập bát tú (28 chòm sao). Ngài làm Tao đàn nguyên suý và cử Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận làm phó nguyên suý. Ngài cùng với nhân viên hội bàn bạc sách vở và xướng họa thơ văn.
Thiên nam dư hạ tập.- Năm 1483, vua Lê Thánh tôn sai Thân Nhân Trung, Quách định Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Đàm văn Lễ, biên tập bộ Thiên Nam dư hạ tập (Thiên nam: trời nam; dư hạ: nhàn rỗi). Cứ theo sách Lịch triều hiến chương (văn lịch chí) của Phan Huy Chú thì bộ ấy gồm 100 quyển chép đủ chế độ, luật lệ, văn hàn, sách cáo; đại lược theo sách hội điển nhà Đường, nhà Tống, nhưng bộ ấy ngay đến đời Lê Trung Hưng đã tản mát mất nhiều, mười phần chỉ còn một hai. Hiện nay chỉ còn sót lại tập thơ của vua Lê Thánh Tôn cùng với các nhân viên trong Hội Tao đàn xướng họa như Minh lương cẩm tú, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Xuân văn thi tập, Văn minh cổ xuý (sẽ nói ở Năm thứ hai. Chương thứ V) và các tập sau này:
1) Chinh Tây kỷ hành (ghi việc đi đánh phía Tây) chép các bài thơ soạn trong khi vua Lê Thánh Tôn đi đường vào đánh Chiêm Thành (1470-1471)
2) Chinh Chiêm Thành sự vụ (công việc đánh Chiêm Thành 1470.)
3) Thiên hạ bản đồ kỷ số liệt kê các xứ, phủ, huyện, châu cùng số làng về đời Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn tự năm 1470 đến năm 1497.
4) Quan chế chép về sổ ngạch, phẩm chức các quan văn võ trong ngoài.
5) Điều luật chép các đạo luật ban hành trong đời vua Lê Thánh tôn tự năm 1460 đến 1497.
Kết luận.- Hội Tao đàn do vua Lê Thánh tôn lập ra có thể coi là một hội văn học đầu tiên ở nước ta. Bộ Thiên nam dư hạ tập thất lạc đi mất nhiều thực là một điều đáng tiếc vì bộ ấy có thể cho ta biết rõ tình hình chính trị và văn hóa về đời Lê Thánh Tôn là một đời thịnh trị nhất trong triều Hậu Lê.
CÁC TÁC PHẨM ĐỂ KÊ CỨU
1) Émile Gaspardone, Bibliographie annamite, N.10 (B.E.F.O.t.XXXIV, Fase I pp.37-41)
2) Trần Văn Giáp Les chapitres bibliographiques de Lê Quí Đôn et de Phan Huy Chú, chap, bibliog. De Le Qui Đôn No.11 (Bul. De la Soc. Des Etudes indochinoises. Nouv. Se1r.t,XIII, N.I,pp49-50)

Truyện VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU BIÊN TẬP ĐẠI Ý Chương dẫn đầu Chương thứ nhất CHƯƠNG THỨ HAI CHƯƠNG THỨ BA CÁC BÀI ĐỌC THÊM Đã xem 189465 lần. --!!tach_noi_dung!!--

THIÊN THỨ TƯ: CÁC THỂ VĂN
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
CHỮ NÔM

--!!tach_noi_dung!!--
Dân tộc ta trước khi nội thuộc nước Tàu, có thứ chữ riêng để viết tiếng Nam hay không; đó là một vấn đề, hiện nay vì không có di tích và thiếu tài liệu, không thể giải quyết được. Duy có một điều chắc là khi các bậc học giả trong nước muốn làm thơ văn bằng tiếng Nam, vì không có chữ Việt, phải đặt ra một thứ chữ để viết tiếng: tức là chữ nôm là thứ chữ đã dùng để viết các tác phẩm bằng Việt văn cho đến khi ta biết dùng chữ quốc ngữ. Vậy ta phải xét lịch sử và cách chế các thứ chữ ấy thế nào.
Chữ nôm là gì? Chữ nôm là thứ chữ hoặc dùng nguyên hình chữ nho, hoặc lấy hai ba chữ nho ghép lại, để viết tiếng Nam.
Chữ nôm có tự bao giờ?
A) Chữ nôm đặt ra tự bao giờ và do ai đặt ra, đó là một vấn đề chưa thể giải quyết được. Nhiều người thấy sử chép: Hàn Thuyên là người bắt đầu biết làm thơ phú bằng quốc âm, vội cho rằng chữ nôm cũng đặt ra từ đời ông, nghĩa là vào cuối thế kỷ thứ XIII về đời nhà Trần. Đó là một sự sai lầm, vì Sử chỉ ghi việc ông làm thơ phú bằng tiếng nôm, chứ không hề nói ông đã đặt ra chữ nôm, hoặc chữ nôm đã đặt ra về đời ông. Đành rằng muốn viết văn nôn, tất phải dùng đến chữ nôm; những biết đâu chữ ấy lại chả có từ trước đời Hàn Thuyên rồi ư? Ta chỉ có thể vịn vào việc ấy mà nói rằng chữ nôm đến cuối thế kỷ XIII đã dùng để viết văn nôm rồi.
B) Hiện nay, về gốc tích chữ nôm, chỉ có hai điều sau này là xác thực:
1) Theo Sử chép, cuối thế kỷ thứ VIII (794) Phùng Hưng là người nước ta nổi lên đánh quan Đô hộ Tàu thua và giữ việc cai trị trong ít lâu; sau ông được dân trong nước tôn là “Bố cái đại vương. Hai chữ Bố cái là tiếng Nam thuần tuý, nếu đã đem hai tiếng ấy mà đặt danh hiệu cho một vị chúa tể trong nước, thì có lẽ phải có chữ để viết hai tiếng ấy, mà chữ ấy tất là chữ nôm; vậy có lẽ chữ nôm đã có từ cuối thế kỷ thứ VIII rồi.
2) Người ta đã tìm thấy ở Hộ thành sơn thuộc tỉnh Ninh bình một tấm bia đề năm 1343 (Trần Dụ Tôn, Thiệu phong thứ 3) trên có khắc hai mươi tên làng bằng chữ nôm: đó là cái tự tích chắc chắn về chữ nôm còn truyền lại đến giờ.
Cách chế tác chữ nôm.-
A) Tiếng Nam ta gồm có:
1. Những tiếng gốc ở chữ nho mà cách đọc:
a) hoặc giống hẳn chữ nho. Thí dụ: dân, tỉnh.
b) hoặc hơi khác âm chữ nho một chút. Thí dụ: côi (do chữ cô) cuộc (do chữ cục)
2. Những tiếng có lẽ cũng gốc ở chữ nho, nhưng âm đã sai lạc nhiều, chỉ còn nghĩa là đúng. Thí dụ: nhà (với gia) ghế (kỷ)
3. Những tiếng không phải gốc ở chữ nho, nhưng âm hoặc giống hẳn hoặc na ná với âm một chữ nho. Thí dụ: một (chỉ số) đồng âm với chữ một (có nghĩa là mất); là, âm na ná với chữ la.
4. Những tiếng không phải gốc ở chữ nho mà cũng không đồng âm với chữ nho nào. Thí dụ: đến, nói, trời.
Những tiếng thuộc về hạng thứ nhất bao giờ trong chữ nôm, cũng dùng một chữ nho để viết; những tiếng thuộc hạng thứ nhì và thứ ba thường cũng dùng một chữ nho; còn những tiếng thuộc hạng thứ tư phải dùng hai hoặc ba chữ nho mà ghép lại.
B) Vậy sự viết chữ nôm có thể chia làm ba cách như sau:
1. Dùng nguyên hình chữ nho để viết:
a) Những tiếng gốc ở chữ nho, âm và nghĩa không đổi.
Thí dụ: tài; mệnh.
b) Những tiếng gốc ở chữ nho, âm hơi sai nhưng nghĩa không đổi. thí dụ (cô) = côi, (cục)= cuộc.
c) Những tiếng có lẽ cũng gốc ở chữ nho, nhưng âm khác nhiều, chỉ có nghĩa là giống. Thí dụ (kỷ) = ghế, quyển = cuốn.
d) Những tiếng khác hẳn âm nhưng đồng âm với chữ nho ấy. Thí dụ: một, qua.
e) Những tiếng khác hẳn âm những cùng nghĩa với chữ nho ấy. Thí dụ (vị) = mùi, (dịch)= việc.
2. Ghép hai chữ nho thành một dấu hiệu riêng.
a) Thông lệ - Xét các chữ nôm đặt theo cách này thì cái thông lệ là mỗi chữ có hai phần: một phần chỉ ý và một phần chỉ âm.
Thí dụ:
Chữ đến gồm có chữ (nghĩa là đến) là phần chỉ ý và chữ (đọc là điển) là phần chỉ âm;
Chữ năm gồm có chữ (đọc là nam) là phần chỉ âm và chữ (nghĩa là năm) là phần chỉ ý;
Chữ trăm gồm có chữ (nghĩa là trăm) là phần chỉ ý và chữ (nghĩa là lâm) là phần chỉ âm.
Còn cái địa vị của hai phần ấy thì không nhất định: khi thì phần chỉ ý ở bên trái (thí dụ thứ nhất); khi thì phần ấy ở bên phải (thí dụ thứ hai): khi thì phần áy ở trên (thí dụ thứ ba).
Lời chú. Phần chỉ ý có khi là những chữ thường (như trong mấy thí dụ trên), có khi những chữ bộ trong tự điển Tàu. Khi dùng chữ bộ ấy, thì chữ ấy đặt ở bên trái hoặc ở trên. Thí dụ: chữ nói có bộ khẩu (nghĩa là miệng) chỉ ý vã chữ nội (đọc là nội) chỉ âm.
Các bộ hay dùng đến là:
[nhân ] (người )
[khẩu] (miệng)
[thổ] (đất)
[thủ] (tay)
[thủy] (nước)
mộc (cây)
[thảo] (cỏ)
[nhục] (thịt)
[trúc] (tre
[mịch] (tơ)
b) Biệt lệ - Trái với thông lệ, có khi hai phần của một chữ nôm đều chỉ ý cả. thí dụ: chữ trời có hai phần là chữ [thiên] (nghĩa là trời) và chữ [thượng] (nghĩa là trên), đều chỉ ý cả.
3. Ghép một chữ nho (chỉ ýn sách dùng để bày tỏ kiến thức, kế hoạch của mình còn có thực dụng, những cũng phải là những người có lịch duyệt nhiều, có học thức rộng mới ra ngoài khuôn sáo thường mà làm được những bài văn có giá trị.

BÀI ĐỌC THÊM
1. Một bài kinh nghĩa làm mẫu
2. Đầu bài
Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng.
Bài làm
(Phá đề) – Nói nhỏ tình riêng cùng mẹ, muốn muốn khéo lạ lùng thay!
(Thừa đề)- Phù, lấy chồng chi sự, ai chẳng muốn vậy, nãi muốn nhi chi ư nói với mẹ, muốn sao muốn gớm muốn ghê, gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
(Khởi giảng)- Tưởng khi năn nỉ cùng mẹ rằng:
Nhất âm nhất dương; nãi thiên địa cổ kim chi đạo mà nghi gia, nghi thất, thực thế gian duyên kiếp chi thường. Sa chân bước xuống cõi phù sinh, đố ai giữa được tiếng trinh trên đời. Buồn mình lại nghĩ duyên mình, nay con xin kể tâm tình mẹ hay.
(Khai giảng)- Con nghĩ: rằng xuân xanh thấm thoắt, người ta như có lứa chi măng: phỏng hôn giá chi cập thời tức chồng loan vợ phượng chi duyên, cũng quang thái ư môn mi chi rạng rỡ.
Con luống sao tơ đỏ nhữ nhàng, phận những chịu long đanh chi vân; ngẫm thanh xuân chi bất tài, tức chớp bể mưa nguồn chi hội, cũng buồn tênh ư mai xiếu chi lơ thơ.
(Hoàn đề)- sự này mẹ đã hay chưa? Nay con luống những ngẩn ngơ về chồng.
(Trung cổ) – Kìa những kẻ son phai phấn nhạt (lạt), cuộc phong trần luống đã chán chường xuân. Nay con lấy mặt hoa mày liễu chi dung nghi chính đương độ tuần rằm chi bóng nguyệt; bởi vì ai dỡ dang phận bạc, dịp chưa thông ả chức chi Ô kiều. Khắc khoải rồng mây, lược không muốn chải; khát khao cá nước, gương chẳng muốn soi. Đêm thanh tơ tưởng khách thừa lương, chăn phỉ thúy suốt năm canh trằn trọc. Ngồi với bóng lại thở than với bóng: mẹ ơi! Con muốn đem ông trời xuống cõi trần, hỏi xem duyên có nợ nần chi không?
Khi những kẻ liễu yếu đào thơ, tình vân vũ hãy còn e ấp nguyệt. Nay con lấy sắc nước hương trời chi phẩm giá, đã ngoài vòng đôi tám chi xuân xanh; bởi vì ai ngăn đón gió đông, đàn chưa gãy chàng Tương chi Hoàng Khúc. Ước ao sứ điệp phán chẳng muốn tô; mong mỏi tin ong, vòng không muốn chuốt. Ngày vắng mơ màng duyên bốc phương, gối uyên ương thâu sáu khắc bồi hồi. Buồn vì thu ngao ngán vì thu; mẹ ơi! Con muốn đem một sợi chỉ đào, để cho ông Nguyệt xe vào cho con.
(Hậu cổ) - Mẹ chẳng xem; trên trời chim kia chi liền cánh, dưới đất cây nọ chi liền cành; cảnh vật ấy còn dèo bồng ân ái. Nay con tủi là thân bồ liễu, giữ đầu xanh ấp một buồng hông. Nao người tích lục, nào kẻ tham hồng, biết cùng ai mà phỉ nguyền tác hợp? Mẹ ợi! có chồng kẻ đón người đưa, không chồng đi sớm về trưa mặc lòng. Bực mình lại ngán cho mình, tình cảnh ấy mẹ hay chăng là.
Mẹ chẳng xem: Bắc lý kẻ nọ chi nghênh thê, Nam lân người kia chi tống nữ; người ta từng nao nức đông tây. Nay con hổ là phận thuyền quyên, mang má phấn nằm trong mệnh bạc. Nào kẻ tương tri, nào người tương thức, biết cùng ai mà kết giải đồng tâm? Mẹ ơi! Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chăn loan đệm quế không chồng cũng hư. Tủi phận mà than với phận, tâm sự này mẹ rõ cho chưa?
(Kết cổ) – Sau dẫu tơ đào lá thắm, ự chắp nối kia bởi tại trăng già.
Song le chỉ Tấn, tơ Tần, việc gả bán chẳng qua lòng mẹ.
(Thúc đề).-Mẹ nghĩ sao?
2. Một bài văn tứ lục làm mẫu
Tần cung nữ oán Bái công văn.
(Khi nhà Tần mất nước, Bái công - tức Hán Cao tổ sau này – đem quân vào đất Quan Trung là kinh đô nhà Tần, thấy cung điện nguy nga và cung nữ đẹp đẽ, ý muốn ở lại đấy. Nhưng bầy tôi là Phàn Khoái và Trương Lương lấy lẽ vua nhà Tần vì say đắm sắc dục mà mất nước, khuyên ông không nên lưu lại đấy, Bái công nghe theo, đem quân về Bá thượng để chống với Hạng Vũ. Bài văn này làm thay lời cung nữ nhà Tần oán trách Bái công đã bỏ họ mà về Bá thượng
Tác giả bài này không biết đích là ai: người thì bảo là NGUYỄN HỮU CHỈNH (xem tiểu truyêệ ở Năm thứ nhì, Chương thứ X, lời chú 3) người thì bảo là ĐẶNG TRẦN THƯỜNG (xem tiểu truyện ở Phần thứ nhì trước Bài số 80, chưa biết thuyết nào là đúng)
Khói tỏa cung A; - mây tuôn (1) đồn Bá.
Xuân tin bỗn gửi (2) cùng điệp sứ; - Phương tâm đành (3) hẹn với long nhan.
Thuở (4) tuổi xanh xảy gặp bụi hồng, thuyền ngư phủ chẳng (5) đưa vào động biếc (6) – khách má đỏ thường đeo phận bạc, dây nguyệt ông nên (7) dắt lại lầu son.
Vẻ vang chưa (8)! một tiếng cung nhân (9); - ngao ngán (nhẽ)! mười nguyền thất nữ.
Cầu thước (11) giậm tiếng hát (12), tựa sấm, sô bồ dưới nguyệt gót kim liên; gác phượng chen bóng bội (13) đường mây, nhấp nhánh trong gương da bạch ngọc.
Thềm huê (14) nọ thôi cười với bóng (15); gốc (16) thúy kia lại ủ cùng hoa.
Nét mày xanh từ cái lá cũng ghen, cây khiển hứng đành chìm dòng nước chảy; làm môi đỏ đến (17) con chim còn ghét (18) giấc thừa ân qua buổi (19) bóng trăng tà.
Ngẩm thân (20) duyên từng rỏ (21) nước mắt thầm:- nghĩ (22) thế sự những (23) đổ mồ hôi trộm.
Cung Dĩ (24) - thủy túc nỉ non tiếng dế, trường thu phong lạc bậc (25) quản huyền xưa; - cửa Hàm quan khi phất phới (26) ngọn đào, rèm tà (27) nguyệt ố (28) màu la ỷ cũ.
Quán ngán nhẽ! cửa (29) bạch câu một nháy (30); nực cười (31) thay! Tranh thương cẩu trăm hình.
Con hươu bách nhị lạc loại đâu. Hoa cỏ ngậm ngùi vườn thượng - uyển; - cái én tam thiên ngơ ngẩn đó (32) mây mưa bát ngát đỉnh Vu phong.
Sương đã liền mái (33) tóc kim sinh; chàm đâu nhuộm mối (34) tơ lai thế.
Ví (35) thân đã rời (36) hương Cấm dịch, cỏ Ly sơn đành lấp tóc da mồi;- bởi phận còn quyến (37) lá Ngư câu, trăng Vị (38) -thủy hãy cầm hình bóng lại.
Kiếp ngọc (39) nử xương còn im đóng (40) ; tiếng chân nhàn gió đã đưa xa.
Dòng Đào đường róc tách dưới (41) sông Lưu, mụ Xà (42) khóc bên đường nghe cũng tủi; mây Mang lĩnh chờn vờn về đất (43) Bài, chị Trĩ theo trong núi nghĩ mà thương.
Thấy bóng (44) cờ ai chẳng rượu dê mừng; - nghe nhạc ngựa người đêề đàn (45) sáo rước.
Bên Chỉ đạo xe vôi ngựa phấn, trộm thấy lòng bất nhẫn cũng mừng thầm (46): trước Kim lâu xiêm bụi áo (47) bùn, vàng (48) biết ý dục lưu càng (49) khép nép.
Ngắm (50) khí sắc đã (51) nên năm vẻ; - cảm cơ (52) duyên âu cũng (53) ba sinh.
Bất kỳ mà nương bóng (54) rồng bay, thà mây phủ mưa dần cho đáng số (55);- giải cấu phỏng lầm (56) hơi khỉ tắm, nỗi hoa bay nước chảy (57) cũng oan tình.
Hẳn quản gia (58) mà có (59) dạ ái nhân; - thời thánh thể nở (60) bề ai oán nữ.
Âu ca thuở về cùng (61) thuấn, Vũ Cao Dao Hậu Tắc (62) nào ngăn;- Huyên hoàng khi đến với (63) Thang, Văn, Y Doãn, châu công há (64) cấm.
Nay trong trường (65) chưa một lời mở (66) mặt, mà ngoài sâu đã (67) lắm tiếng vang (68) tai.
Quả ngán thay! Nắng chẳng thương hoa; mưa (69) nào xót nguyệt.
Ngọn xích xi ùn ùn về Bá Thượng, mưa tuông nước xiết (70) lạt lẽo thay tình; - mà (71) Lam điền dặc dặc đến (72) Quan trung, phấn cuốn hương phai (73) bẽ bàng bấy (74) phận.
Nín thời những đeo sầu ngậm tủi (75); nói ra tuồng (76) ép dấu nài thương.
Úp (77) bánh xe là bởi tại (78) Lý Tư, nào ai đem nhất tiếu khuynh thành, mà dương Vũ (79) nhẽ vong Tần cho đáng; giở roi (80) ngựa ấy khoe (81) danh Châu hậu (82), lấy ai đủ thập phần phụ quốc, mà thầy cho rằng trợ Kiệt nên tin (83).
Trương (84) con ngươi nào (85) ngắm cuộc tang thươn, -uốn dầu (86) lưỡi bỗn rời (87) duyên phấn đại.
Mặt bán thịt mới mua duyên năm nọ (88), chẳng qua bệnh (89) dì nó đánh ghen thay; tay (90) cắp dùi toan (91) mất vía ngày xưa, hẳn còn vị (92) chúa mình gây (93) giận mãi.
Sức bao nả cũng hùm hăm dưới bệ (94) ; trung với (95) ai mà thỏ thẻ bên màn?
Nếu vì chưng tiền tốt bạc ròng (96), ngăn nước (97) dãi phú ông thời cũng phải; song những kẻ hoa cười nguyệt nói (98) dứt tầm lòng du tử thế cho đang.
Ngày (99) đông cư lòng hiếu sắc sao chiếu (100)? – nay tây nhập sức (101) hữu vi mà cấm.
Một là bởi giật mình cửu quận (102) dần lén ra dành (103) đợi tướng quân vào; - hai là toan theo gót (104) năm hồ, sẽ nứu lại lừa đem (105) Tây tử bước (106).
Đã cay đắng (107) một liều thuốc độc; - lại dỡ dang (108) ba tấc lưỡi mềm.
Bởi rủi ro vì chút phận bình bồng, vòng kim giáp (109) để hơi hương chẳng thấu; vì may mắn nhằm duyên (110) ai cơ trửu, giọt minh (111) y cho (112) chút bụi nào rơi.
Lượng khoan dung bao nả (113) hẹp hòi; tư minh đạt để đâu lầm lỗi (114).
Nào thuở trước dưới (115) rừng cây, nghe nhạc ngựa, thấp thoáng bóng dù dáng (116) kiệu, những than dài (117) chí cả trượng phu; - mà đến nay (118) ngồi bệ (119) ngọc ngắm tranh người, xôn xao đầu mũ gót hài, lại làm khoảnh (120) ngôi sang (121) Hoàng đế.
Gương trong đuốc sáng mặc lòng trên;-cỏ ủ hoa sầu đành phận dưới.
Nơi hang kín phỏng hơi dương con thấu, ắt trong nước ai chăng thần thiếp, lại phòng tiên cung quế cũng cam lòng;- chốn non kinh dầu vẻ ngọc còn tươi, thời dưới trời đâu chẳng giang sơn, âu cửa trúc nhà tranh còn mát mặt.
Số là bởi tình chung mới nói; há rằng vì phận mếch mà thưa.
Xin chớ cười người khách thơ ngây; - dám gửi lạy đức ông khoát đạt.
----
Bản chép riêng: (1) lồng, - (2) muốn ngỏ; (3) e; - (4) nợ ; - (5) bỗng; - (6) bích; - (7) chỉ óng tơ dành; (8) thay; - (9) phi; -(10) nỗi; -(11) hồng; - (12); -giây;- (13) bụi; (14) Đài Loan; - (15) nguyệt; -(16) nệm ; - (17) thăm đầu; - (18) cũng né; - (19) hoan rất nỗi; - (20)Nghĩ cơ; - (21) càng sa; - (22) nghe; - (23) bỗng; - (24) Vy;- (25)lãng nhịp; - (26) chói lọi; -(27) tân; - (28) lạt; - (29) ngẩn ngơ nhẽ bóng; - (30) nhoáng; - (31) xót xa; - )32) vơ vẫn đấy; - (33) Tuyết đã đeo; - (34) sướng nào nhuốm mùi; - (35) vì; - (36) lây; -(37) vương; - (38) Ty; - (39) Tiết thục; - (40) in giống ;- (4`) xuống; - (42) mẹ rắn; - (43) ấp; - (44) Trông ngọn; - (45) dâu không kèm ; - (46) những thầm thì; - (47) dưới Hàm quan áo bụi xiêm; - (48) vẫn; - (49) đà; - (50) Xem; - (51) vẫn; - (52) tưởng căn; - (53) hẳn;- (54) vì may mà gặp hội; - (55) âu lửa đươm hương nồng cho phỉ nguyện; - (56) e rủi phải lây; - (57) để hồng trôi thắm nhạt; - (58) minh vương; - (59) thiệt; - (60) có; - (61) chầu về ; - (62) Bà ích; - (63) đón rước; - (64) dâu; -(65) Trong trướng gấm; - (66) lạn; (67) ngoài thềm hoa dà; -(68) ỏi; -(69) mây; -(70) hoa trôi nước chảy; - (71) cầu; - (72) thui thủi ở; - (73) rã hoa rơi; -(74) với; -(74) với;- (75) chác não; -(76) dường; -(77)rấp; -(78) tội; - (79) khoái; -(80) Theo gót; - (8) nổi; -(82) loạn; -(83) cho cam, (84) Troo75n; (85)không; - (86) là; -(87) chỉ gièm; -(88)trước; - (89) vì; - (90) gan; - (91) cùng; - (92) e cũng bởi; - (93) lây; - (94) mà chun lòn dưới trướng; - (95) cùng; -(96) giả như loại hươu nội lợn đồng; - (97) giọt; -(98) đâu đến nỗi nhạn sa cá lặn; (99)Thuở; - (100) sở hiếu nào chịu; -(101) thế; -(102) Hay là hẳn sức hơi chín quận; - (103) phải lành ra mà; - (104) hay là vì vui thú;- (105) dành lần lại để tìm ; - (106) rước; - (107)Miệng đắng nghét; - (108) tai chưa ; - (109) Bởi lạc loài là phận bèo mây cửa cấm thất ; -(110) như; - (111) nên bích; - (112) chẳng; - (113) nhơn đâu có; - (114) hoát đạt lẽ nào sót lạc; - (115) chẳng nhớ lúc núp; (116) tàn giàn; -(117) khen thầm; -(118) may bây giờ; - (119) chiếu; - (120) nghênh; (121) cao.
---
CÁC TÁC PHẨM KÊ CỨU
1) Phan Kế Bính, Việt Hán văn khảo (sách đã kê trước)
2) Ưu thiên Bùi Kỹ, Quốc văn cụ thể, Hà Nội, Tân Việt nam thư xã 1932.
3) Nguyễn Đông Châu, Cổ xuý nguyên âm. Lối văn thơ nôm, cuốn thứ nhì. Hà nội Đông kinh ấn quán, 1918.
--!!tach_noi_dung!!--

Đanh máy: Huyền Băng, Diên Vĩ
Nguồn: vnthuquan
Được bạn: ms đưa lên
vào ngày: 27 tháng 6 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--