Dịch giả : Văn Hoà - Kim Thúy
Chương 6
Nguyên tác : Notorious

 
Bụi bay mù trời quanh chiếc xe và kéo dài một đoạn trên đường xe chạy qua. Bốn bề vắng ngắt, mênh mông bát ngát hàng chục dặm đường, chỉ thấy từng bụi cỏ xô thơm chen lẩn những cánh đồng cỏ rậm rì. Từ chân trời xa nổi lên những ngọn đồi trọc hoang vắng. Suốt hai mươi phút sau cùng, Kincade không hề thấy một chiếc xe nào, hay dấu hiệu cư dân sinh sống, ngoại trừ đường dây điện chạy dọc theo con đường, thỉnh thoảng xuất hiện những dãy hàng rào nằm ngang và các tấm chắn ngăn súc vật, ranh giới giữa các trại chăn nuôi.
Anh nhìn vào đồng hồ nhiên liệu. Có thể anh sắp đến chỗ rẽ vào trang trại rồi đây. Có một tấm biển nhỏ bằng gỗ treo trên cái hàng rào vắt ngang cuối cùng, có ghi hàng chữ đã phai màu: Trại Đinh, J.Rossiter.
Anh nhìn con đường rẽ vào trại, vẫn không thấy gì trong lúc các cột điện vẫn chạy thẳng, mà chỉ có đường dây điện thoại chạy băng qua một ngọn đồi thấp nằm bên tay phải anh. Theo đường dây điện thoại là một con đường nhỏ, chỉ rộng hơn hai luống cây một chút, hai luống chạy gần song song với nhau. Kincade thắng xe lại rồi từ từ xe rẽ vào con đường này, mấy bánh xe chạy lọt vào giữa hai luống cày.
Khi xe lên đến đỉnh đồi thấp, con đường nhỏ biến thành con đường mòn lờ mờ, do bị cỏ mọc lấn chiếm một phần. Anh cho xe chạy nhồi lên nhồi xuống thêm ba dặm nữa, thỉnh thoảng đám xương sườn thương tích bị xóc, làm anh đau đớn vô cùng, mặc dù anh đã quấn băng quanh ngực rồi.
Con đường ngoằn ngèo chạy quanh một chân đồi, rồi lọt vào một hẻm núi rộng, nông ba bề đều có đồi thấp thoải thoải bao bọc. Một đám cây bông gòn toả lá xanh um ở đầu hẻm núi.
Phía bên kia hẻm núi, Kincade trông thấy một đám nhà thấp nằm chen vào giữa những tảng đá xám mòn. Khoảng gần chục con ngựa đứng trong bãi quây ngựa và nhiều con khác đang ăn cỏ trong một cánh đồng cỏ được rào lại, chúng phe phẩy đuôi để đuổi ruồi. Nhiều con ngẩng đầu lên khi nghe tiếng xe anh chạy vào sân trại.
Kincade cho xe chạy vòng qua dãy nhà phụ và hướng về phía ngôi nhà chính hai tầng ẩn mình trong đám cây bông gòn. Một cánh cổng vòm có mái che chạy choán hết cả bề dài mặt tiền. Một con chó chăn bò già từ trong bóng im nhảy xổ ra chận đường chiếc xe hơi, lông lá ở cổ chổng lên sủa báo động.
Kincade choo xe chạy từ từ rồi dừng lại trước ngôi nhà và leo khỏi ca-bin xe. Con chó liền dựng chân ngay giữa Kincade và ngôi nhà, gầm gừ đe doạ. Kincade nhìn những vết sẹo trên người nó, anh không dám coi thường lòng dũng cảm của nó.
- Xin chào, có ai ở trong nhà không? - Anh gọi lớn vào nhà.
Không có ai trả lời, mà cũng chẳng có ai ra mở cửa. Kincade không ngạc nhiên, vì giờ này vào buổi sáng, chắc mọi người đều đi làm việc cả rồi.
Tiếng nổ rầm rầm của một cái máy kéo bỗng vang lên đâu đó cách chỗ anh đứng không xa. Con chó già quay nhanh đầu về phía đông, rồi quay nhìn Kincade, từ cổ họng nó phát ra tiếng kêu khẹc khẹc vẻ lo lắng và nhe hàm răng dài vàng khè.
- Có phải họ đàng ấy không, ông bạn? - Kincade quay đầu nhìn theo con chó về phía có tiếng nổ của cái máy kéo.
Một con đường mòn gồ ghề chạy vòng từ nhà về hướng một khu có nhiều bãi quây súc vật có thang trước để lùa súc vật lên xe. Bên kia các bãi quây, một cánh đồng cỏ vàng rộm lấp lánh dưới ánh mặt trời ban mai, một nửa nằm khuất sau dải đất thoai thoải ở hẻm núi che chắn cho sân trại. Một cái máy kéo cũ kỹ nổ rầm rầm hiện ra, kéo theo một khoang xe chất đầy hơn cả chục bao cỏ khô đóng vuông vức.
Kimcade bước lui về phía xe mình, anh leo lên lái xe chạy về phía đống cỏ khô. Con chó chăn bò già chạy theo. Phía trước, cái máy kéo chạy chầm chậm lại, và hai người đàn ông từ trên máy kéo nhảy xuống, họ thẩy những bao cỏ khô lên cho một người thứ ba chất chúng vào khoang xe. Kincade đậu xe lại bên mép ruộng, bước xuống đứng đợi cái máy kéo và khoang cỏ đến gần mình. Mặt trời chiếu vào mặt anh, mùi cỏ khô lẫn mùi đất bụi và mùi cây cỏ xô thơm phảng phất bên mũi anh.
Người lái máy kéo trông thấy anh trước tiên, anh ta nói to gì đó với mấy người kia, nhưng tiếng nói của anh bị tiếng máy xe nổ rầm rầm làm át đi, cho nên anh chẳng nghe gì rỏ. Một bóng người xuất hiện từ sau đống cỏ khô cao nghệu ở trên khoang. Chính là Eden Rossiter
Lại một lần nữa Kincade có cảm giác là cô cao, vì hai vai nhô lên và cái đầu nghiêng nghiêng kiêu hãnh. Cô đứng gồng hai chân cho vững, vì khoang cỏ nảy lên nảy xuống, mỗi tay cô cầm một cái móc để móc cỏ khô. Cô mặc cái áo thun đen ngắn để hở hai tay trần, cho nên trông thân hình cô bây giờ đầy đặn, chứ không phải như hôm qua cô mặc áo sơ mi đàn ông, chỉ khiến cho người ta mường tượng mà thôi. Cái mũ che khuất cặp mắt, nhưng Kincade biết cô đang nhìn anh.
Như có một luồn điện chạy ngang qua giữa hai người. Luồng điện cảm thông bị gián đoạn khi cô quay người lại ra dấu cho người lái máy kéo dừng lại, rồi ra lệnh cho một trong số người đang chuyển cỏ khô lên. Anh ta gật đầu, đẩy một bao cỏ lên sàn toa và leo lên theo. Cô đưa cái móc để móc bao cho anh ta, rồi nhảy xuống đất và đi về phía Kincade, băng thửa ruộng cỏ mới cắt còn trơ gốc lởm chởm để đến gặp anh.
Kincade tiến tới gặp cô khi cô mới đi được nửa đường. Cô dừng lại, cách anh khoảng một mét. Từ da thịt cô toát ra mùi mồ hôi dễ chịu. Anh đưa mắt nhìn dải mồ hôi nhỏ chạy dọc từ mặt cô xuống lớp áo thun đen. Khi ngước nhìn lên, anh thấy Eden Rossiter đang nhìn anh với ánh mắt dò xét lạnh lùng.
Anh đưa ngón tay chạm vành mũ để chào, lòng cảm thấy rạo rực. anh nói:
- Tôi tìm chủ nhân trại.
- Anh đã tìm ra tôi rồi. - Cô nhìn kỹ hàm xai bị bầm tím của anh, nhìn vết rách trên gò má và da thịt bầm tím quanh vết thương. Vừa tháo cặp găng tay làm việc bằng da ra, cô vừa nói:
- Tôi biết đêm qua anh đã ẩu đả nhau. Tôi chắc thế nào anh cũng đấm được vài quả.
- Không đấm được quả nào hết.
Kincade mỉm cười trong khi cô nheo mắt nhìn anh ra vẻ ngạc nhiên và thắc mắc. Anh nói tiếp.
- Khi bị hai người nắm chặt tay, thì làm sao đấm lại được!
- DePard rồi! - cô ta nói giọng bỗng trở nên cộc cằn.
- Tên quản đốc của hắn.
- Thì cũng thế thôi. - Cô nhún vai như muốn nói hai kẻ này chẳng khác nhau chút nào hết.
- Lời đề nghị làm cho cô còn hiệu lực chứ?
- Tại sao bây giờ anh lại muốn làm cho tôi.
- Bởi vì DePard ra lệnh cho tôi không được làm việc cho trại Đinh. Tất nhiên vì thế mà tôi muốn làm cho cô. Cứ gọi đây là một hành động sai lầm cũng được.
Bây giờ đến lượt Kincade nhún vai.
- Tôi có việc làm không?
- Tôi thuê anh.
Eden bước đến bắt tay cam kết với anh. Bàn tay chai sằn của anh nắm gọn bàn tay cô, bàn tay thô tháp, mạnh mẽ và ấm áp. Cô cảm thấy lòng mình tự nhiên hơi thổn thức, cảm giác thổn thức mà cô không muốn gọi tên, cũng không muốn thừa nhận. Cô ngước mắt nhìn lên mặt anh, bắt gặp nụ cười đang từ từ nở ra, một khuôn mặt rạng rỡ tươi vui. Nắng mai chiếu vào tóc anh, mái tóc rực lên dưới ánh mặt trời. Mái tóc màu hung của loại mèo hoang sống trong núi. Bỗng từ ngữ "nguy hiểm" lại hiện lên trong tâm trí cô.
Eden rút tay lui khỏi tay anh, rồi chỉ ra phía cánh đồng.
- Anh hãy bắt tay vào việc chuyển cỏ khô đi.
Cô quay người đi trở lại toa cỏ khô. Kincade sải bước bên cạnh cô. Eden không hề ân hận về quyết định thuê anh làm với mình. Đến mùa cỏ khô, cô thuê bất kỳ ai để làm việc. Dù sao thì việc anh chàng khách lạ Kincade này tỏ ra chống lại DePard cũng là một phần thưởng xứng đáng cho cô rồi. Cô cảm thấy may mắn khi có Kincade bên mình, nhưng không phải vì thế mả cô thấy dễ chịu khi có anh, hay là khi cảm giác bồn chồn, nôn nao như sương khói làm xao động cô.
Trở lại với nhóm người thu cỏ khô. Eden không để mất thì giờ vào việc giới thiệu, cô để cho Kincade nhặt bao cỏ khô ném lên toa. Cô lấy lại vị trí đứng trên khoang hồi nãy, làm công việc chất cỏ khô lên khoang.
Ném những kiện cỏ khô nặng mỗi bao khoảng gần 20 ký lên khoang, những bắp thịt bị bầm dập trên người Kincade lại đau đớn. Khi đến giờ nghỉ trưa, anh thở phào khoan khoái. Anh leo lên khoang xe để đến chỗ xe anh đậu.
Khi anh nhảy xuống đất, Eden Rositer ra dấu cho một người làm trong trại, nói:
- Này, Al, Ông đi với Kincade. Chỉ chỗ ngủ cho anh ấy.
Một người chăn bò thấp, to bè, đã quá tuổi thanh xuân, từ trên toa xe nhảy xuống với anh. Ông ta uể oải cười, những đường nhăn sâu trên khuôn mặt đỏ gay của ông ta lại càng sâu thêm. Người cao bồi già lớn tiếng nói với anh:
- Đi nhờ xe anh cho xương cốt già nua của tôi êm ái bớt một chút, hơn là đi trên khoang xe cỏ khô kia.
- Được rồi, - Kincade đáp, anh cố phớt lờ những con đau nhức trên cơ thể mình khi leo lên xe.
Người chăn bò leo lên chỗ ngồi trước xe. Ông ta ngồi vào ghế nệm và thở dài khoan khoái.
- Tôi nhớ cái thời tôi có thể làm việc từ sáng sớm đến chiều tối mà không cần phải nghĩ trưa. Bây giờ thì chịu. Tuổi già thật chán. - Ông ta nói, mặt hơi nhăn lại, bỗng ông ta nhìn qua Kincade tự giới thiệu: - Tôi là Al Bender.
- Tôi là Kincade. - Anh cho xe chạy theo sau toa cỏ khô để vào sân trại - Anh làm ở đây lâu chưa?
- Lần này khoảng bảy tám tháng gì đấy. Nghỉ rồi làm, đã nhiều năm nay. - Al trả lời vừa nhìn anh thăm dò. - Trước đây chắc anh chưa làm ở vùng này, phải không, Kincade?
- Đây là lần đầu tiên.
- Tôi đã nghĩ thế.
Khi toa cỏ khô đã được máy kéo đưa về nhà kho. Al ra dấu cho Kincade chạy xe thẳng tới phía trước, ông ta nói:
- Nhà ngủ ở đằng ấy.
Kincade cho xe đậu trước nhà, leo xuống xe. Ngôi nhà cũng giống như ngôi nhà chính, được xây cho người làm công ở, rực lên một màu trắng bạc dưới ánh nắng mặt trời. Tường nhà dày dặn bảo đảm được hơi mát bên trong và làm dịu được ánh nắng chói chang bên ngoài. Kincade lấy cái túi xách ở sau xe rồi bước về phía cửa, Al Bender đang đứng đợi anh ở đấy.
Người cao bồi già nhìn cái túi xách có dây rút ngay trên tay anh.
- Chỉ có thế thôi à?
Kincade gật đầu. Anh nói:
- Chắc tôi phải mượn một cái yên ngựa.
- Có thừa nhiều cái trong kho. Hai cái yên lại trang bị đầy đủ đồ dùng và một cái có bao dắt súng ở giữa. - Ông ta nhìn vào biển số đăng ký ở Texas. - Tôi chắc anh cần loại yên có trang bị đầy đủ dụng cụ.
- Đúng thế.
Al gật đầu, mở cửa. Kincade bước theo ông ta vào trong, rồi anh dừng lai. nhìn quanh. Phòng tập thể toả ra mùi hôi hám, đồ đạc nhà cửa không được lau chùi và ám khói lâu ngày. Một cái lò sưởi cũ nằm trong một góc phòng, nơi sẽ cung cấp hơi ấm trong những ngày đông lạnh lẽo ở vùng Bắc xứ Nevada này. Một cái bàn và một số ghế dựa khác loại kê ở giữa phòng, một bộ bài đã rách nát trải trên mặt bàn như có ai chơi một mình nửa chừng rồi bỏ đi. Trong một góc phòng khác, có kê một chiếc ghế bành lót nệm đã cũ, chỗ tựa tay hai bên đã rách, còn chỗ ngồi thì nệm đã hõm sâu xuống vì ngồi nặng lâu ngày. Những bức hình treo trên tường vàng khè vì ám khói thuốc lá và vì đã dùng lâu đời, chỗ có độc nhất một cuốn lịch đã quá hạn ba năm rồi.
- Không có ti vi à? - Kincade hỏi.
- Không cần có làm gì, trừ trường hợp anh có hệ thống ăng ten bằng đĩa vệ tinh, thứ mà bà chủ không có. Chúng ta lại ở quá xa các đài truyền hình không thể bắt được sóng. Mà thôi, dành nửa thì giờ không có quái gì trên đài phát thanh đề nghỉ ngơi cho khoẻ. - Al nhún vai. - Anh không có những thứ phù phiếm như ở Texas đâu, ở đây anh chỉ gặp cảnh khô cằn thôi.
- Tôi biết thế rồi.
- Phòng ngủ ở đằng kia. - Al hất đầu về phía dãy hành lang dài dẫn đến ngôi nhà dùng làm phòng ngủ. - Vòi sen để tắm và phòng toa lét nằm ở cuối phòng ngủ.
Với cái túi có dây kéo trên tay, Kincade bước theo dãy hành lang cho đến khi anh tìm ra được một gian buồng trống. Anh ném cái túi xách lên gường rồi đi tắm.
Khi bước ra khỏi phòng, anh gặp Al đang đợi anh.
- Chúng ta đi ăn đi. Nhà bếp ở ngả này.
Al đi trước dẫn đường, ông ta bước ra khỏi nhà ngủ, đi vòng ra sau khu nhà, rồi băng qua cái sân đất, kéo lê gót đôi ủng trên mặt đất làm tung bụi lên.
Bỗng có tiếng vó ngựa hí lanh lảnh và chỉ một lát sau có tiếng vó ngựa vang lên. Kincade thấy một con ngựa giống cao màu hồng đang chạy dọc theo một dãy hàng rào cao, mũi hếch lên, cái đuôi đen bay phất phới. Khi nó dừng lại, Al Bender cũng dừng theo và nhìn con ngựa đang đứng lại trong một góc hàng rào, run run, hai tai vểnh lên hướng về phía núi.
Kincade nhìn con ngựa giống rồi nói.
- Trông nó ra vẻ còn thuần chủng.
- Hầu như thế, - Al xác nhận - Ở vùng này, người ta cần phải có giống ngựa có sức chịu đựng dẻo dai mới đi nhanh trên những đoạn đường xa được. Cô chủ có một số ngựa cái tơ để lấy giống với con ngựa này. Khoảng một nửa số ngựa cái đều được dùng vào việc lấy giống. Cô ta dành hấu hết số ngựa đực tơ để dùng trong trại, còn lại bao nhiêu thì bán. Bây giờ có ngựa tơ trong trại mới kiếm được nhiều tiền.
AL lại tiếp tục đi, ông nói thêm.
- Có điều báo anh biết: Ở đây anh sẽ có ngựa hay để cỡi.
- Ông nói thế là sao? - Kincade lấy làm lạ, hỏi
- Thức ăn ngon lành. - Al hất đầu về phía nhà bếp của trang trại, một ngôi nhà trệt nhỏ xây cất như những nhà khác.
Ruồi bay đáp vào cánh cửa nhà bếp. Bên trong, một máy ra-đi-ô phát ra một bài ca của Willie Nelson viết về Poncho và Lefty. Al mở cửa bước vào, Kincade bước theo vào trong, ruột anh cồn cào khi ngửi thấy mùi bánh mì mới ra lò thơm phức.
Al bước qua một cái bàn dài hai bên có kê hai dãy ghế băng, đi thẳng ra phía sau bếp. Kincade nhìn qua vai ông ta, anh thấy một bà già tóc bạc dài, rối bù, đang đứng quay lưng về phía họ. Al bước đến quầy bếp gần bên người đàn bà, ông ta đi qua bà già rồi đưa tay vặn nhỏ máy ra-đi-ô xuống. Bà già liền quay mặt nhìn ông, tay vung cây dao có răng cưa để cắt bánh mì lên, nói:
- Anh làm gì mà lẻn vào sau lưng người ta như thế? - Giọng nói ồm ồm khàn đặc. Kincade nhìn kỹ một bên mặt người nói, anh thấy lởm chởm một bộ râu bạc; thì ra anh đã lầm, đầu bếp là đàn ông chứ không phải đàn bà.
- Việc làm khéo đấy chứ. - người đầu bếp cằn nhằn Al - Suýt nữa tôi giết anh rồi đấy.
Lời hăm doạ và con dao vung vẩy trên tay lão ta không làm Al nao núng, ông đáp lại lời nói lão đầu bếp.
- Nếu anh không vặn máy ra-đi-ô to quá, thì chắc anh đã nghe tiếng tôi đi vào rồi. Hy vọng anh làm nhiều thức ăn. Có thêm người ăn đấy. Cô chủ đã thuê người mới.
Ông ta hất đầu về phía Kincade.
Lão đầu bếp quay người lại để nhìn Kincade, rồi ngẩng mặt nhìn lên trần nhà, đưa hai tay lên như để cầu xin. Lão nói:
- Hởi thần linh, nghe con đây. Suốt nhiều mùa trăng, ông nội con đã đánh nhau với bọn mặc áo khoác xanh và bọn mặt tái đã cướp đất của chúng con. Ông nội con đã dặn những chiến binh xông trận nhiều lần. Nhiều lần ông đã ngồi ở đống lửa của hội đồng thương nghị và cụ đã hút ông điếu hoà bình.....
- Dẹp chuyện vớ vẩn ấy đi. - Al cắt ngang lời lão, rồi đưa tay chỉ Kincade - Đây là người mới. Tên anh là Kincade. Còn nhân vật này, là đầu bếp ở đây. Tên thật của ông là Frederick Daniels, nhưng chúng tôi vẫn quen gọi ông là Jack Hoang Dã.
Lão nhìn Al rồi quay lại với ổ bánh mì đang cắt, miệng lớn tiếng cằn nhằn.
- Không còn ai kính trọng người già nữa rồi! Thật xấu hổ, thế đấy.
Al cười toe toét với Kincade.
- Lão tuyên bố ông nội lão là tù trưởng bộ tộc Sioux. Có cơ may như thế lắm, cũng như tôi có cơ may là cháu chắt của Đức Giáo Hoàng vậy. - Ông ta bước đến cái thùng lạnh để trên quầy bếp đối diện phòng ăn. - Có uống trà không?
- Tuyệt lắm. - Kincade gật đầu, mắt lại quay nhìn lão đầu bếp, lão lại chăm chú cắt bánh mì.
Như cảm thấy được anh đang nhìn mình, lão đầu bếp quay bộ mặt có vết sẹo nhăn nhúm nhìn Kincade, ánh mắt tinh ranh.
- Anh có mang theo uýtky đấy chứ?
Kincade lắc đầu đáp:
- Thật đáng tiếc.
Lão đầu bếp càu nhàu vì thất vọng.
- Bụi bặm như thế này khiến tôi phát ho nặng.
Nói xong ông ta cố ho để xác minh lời nói ông vừa nói.
- Có lẽ anh có mang theo xirô ho đấy chứ?
- Cũng không, thật đáng tiếc.
- Thế có thuốc súc miệng để sát trùng chứ?
- Không. - Kincade đáp, anh thấy đã bắt đầu quen.
- Thật khéo xấu hổ, - lão đầu bếp lằm bằm nói rồi ném con dao lên trên quầy, lão quay đi.
Hai ống chân dong dỏng vòng kiềng, lão bước đến cái tủ đựng bát đĩa kê gần lò lửa, mở cửa tủ ra, cho thấy bên trong chứa rất nhiều đồ gia vị. Mấy ngón tay sần sùi nổi cục của lão nắm một cái chai vani nhỏ dài hầu như còn đầy đến nữa, lấy ra khỏi tủ. Lão nhanh nhẹn mở nắp nồi rồi cho miệng chai vào mồm, ngẩng đầu ra sau và chúc đít chai lên. Lão uống ba hơi là hết sạch cả chai. Lão đầu bếp hơi hếch cái mặt lên, rùng mình, rồi thở phào nhẹ nhõm.
- Tốt hơn nhiều rồi. - Lão bước đến ném cái chai không vào sọt rác bằng kẽm móp mép ở gần bên Kincade.
Kincade nghe tiếng vỏ chai va chạm kêu lảng rảng trong sọt. Lấy làm lạ, anh nhìn vào trong sọt rác. Nằm bên cạnh cái chai Jack Hoang Dã vừa ném vào, có thêm hai cái chai không đựng nước cốt chai vani nữa. Khi Al đưa cho anh ly trà đá. Kincade gật đầu ra dấu chỉ cái sọt rác.
- Lão đầu bếp của ông nhậu luôn cả nước vani
Al nhún vai như muốn nói chuyện ấy đâu có gì lạ đâu.
- Khi người ta không kiếm được đồ nhậu, tôi nghĩ người ta sẽ uống bất cứ thứ gì. - Ông ta nói. - Ít ra thì khi uống nước cốt vani, lão ấy vẫn còn làm việc được. Còn nếu lão Jack đây vớ được chai uýtky, lão liền bỏ bê công việc để nhậu nhẹt suốt mấy ngày liền.
Lão đầu bếp đi ngang qua, mang một cái giỏ chất đầy bánh mì cắt lát vừa lấy trong lò ra còn nóng. Al lấy một lát đưa lên miệng ăn. Vừa nhai ông vừa nói.
- Lão điên điên khùng khùng, nhưng lão làm bếp được.
Cánh cửa bật mở kêu cọt kẹt, cho biết những người làm trong trại đã đến. Người trẻ nhất trong đám là chàng trai cao gầy, trên môi lún phún râu măng, đầu đội mũ lưỡi trai mua ở cửa hàng, gặp Kincade anh ta nói:
- Cô chủ nhắn sau khi ăn xong anh hãy đến nhà gặp cô ấy. Cô ấy sẽ đưa cho anh mấy tờ mẫu đơn để điền vào nếu anh muốn lãnh lương, cho nên anh nhớ đừng quên.
- Tôi sẽ nhớ. - Kincade cười thầm rồi theo mọi người đến ghế ngồi vào bàn ăn.