Dịch giả : Fossion René & Trần hữu Sơn
Phần 2. Chương 2
Cách mạng thế-giới - Nội chiến và khủng bố

Bóng đen của cơ quan NKVD trên lãnh thổ Espagne

 Ngày 17 tháng 7 năm 1936, lực lượng quân đội Espagne trú đóng tại Maroc, vào thời đó là thuộc địa của Espagne, dưới sự lảnh đạo đồng là chỉ huy trưởng là tướng Franco đả nổi loạn chống lại chính phủ Cộng Hòa Espagne.
 Ngày hôm sau, cuộc nổi loạn lan tràn trên toàn chính quốc. Đến ngày 19 cuộc nổi loạn đả bị thất bại ở tại nhiều thành phố như: ( Madrid, Barcelone, Valence, Bilbao ), vì tất cả ở các nơi đả xảy ra các cuộc tổng đình công và việc động viên nhiều lớp nhân dân. Cuộc nội chiến này đả '' thai nghén '' từ nhiều tháng qua. Ngày 16 tháng 2 năm 1936, Mắt trận bình dân đả '' sát nút '' thắng cuộc tổng tuyển cử với số  4 700 000 phiếu ( 267 ghế đại biểu ), thắng hữu phái chỉ có được 3 977 000 phiếu ( 132 ghế dân biểu ) và các người trung tâm 499 000 phiếu. Đảng xã-hội được 89 ghế dân biểu và đảng cộng hòa thiên tả 84 ghế đại biểu, và đảng POUM ( đảng công nhơn marxiste thống nhứt được thành lập do sự tập hợp của khối công nhơn và nông dân của Joaquin Maurin và tả phái cộng-sản của Andreu Nin ) được 1 ghế dân biểu. Các lực lượng chính trị lớn của nước Espagne gồm có các: Các người '' vô chính phủ '' ( anarchistes ) của Tổng Liên Đoàn Lao Động ( viết tắt là CNT ) và Liên đoàn các người '' vô chính phủ '' ở bán đảo Ibéria. Hai phe Tổng Liên Đoàn và Liên Đoàn họp lại có 1 577 547 đoàn viên chống lại 1 444 474 đoàn viên thuộc đảng Xã-hội và Tổng Liên Hiệp Lao Động, và đúng theo học thuyết ( doctrine ) của họ, đả không cử người đại diện, nhưng nếu không có số thăm của các đoàn viên và các người cảm tình viên các lực lượng chính trị kể trên ; đã hổ trợ, thì Mặt Trận Bình Dân khó mà đắc cử. Mười sáu người trúng cử của đảng cộng sản Espagne ( viết tắt là PCE ) đả là đại diện nhiều hơn so với lực lượng '' đúng sự thật '' của họ: họ tuyên bố là họ có 40 000 đoàn viên nhưng trên thực tế họ chỉ có lối 10 000 đoàn viên và các người này đả lèo lái các tổ chức '' vệ tinh '' để có được con số trên một trăm ngàn người đả gia nhập vào các tổ chức '' vệ tinh '' này.
Một tả phái chia rẻ và '' hổn hợp phức tạp '' ( composite ), một hữu phái có thế lực và một cực hữu phái quyết liệt ( tên là Phalange ), trong một khuôn cảnh sôi động của các đô thị và ở nông thôn ( đình công và tổng bải thị - Xâm chiếm đất đai ), một lực lượng quân đội được hưởng nhiều đặc quyền, một chính phủ yếu kém, các cuộc âm mưu khác nhau, các vụ bạo động chính trị mỗi lúc mỗi gia tăng: tất cả các sự kiện này đả làm phát động một cuộc nội chiến mà đả có nhiều người mơ ước. Cuộc nội chiến này đả có '' tầm vóc '' ( dimension ) đặc biệt: trên bình diện của Âu Châu, cuộc nội chiến này đả tượng trưng cho cuộc '' ngang sát nhau '' ( affrontement ) giữa các nước Phát Xít và các nước Dân Chủ. Với việc gia nhập vào '' đãu trường '' ( lice ) của Liên Bang Sô-Viết, các kết quả của hai cực ( effet de polarisation ) tả và hữu đả trở nên rõ ràng.
Lập trường chính của các người cộng sản
Trước kia, tổ chức Komintern ít chú ý đến tình hình của Espagne và sau khi chế độ quân chủ sụp đổ vào năm 1931, tổ chức Komintern đả bắt đầu chú ý từ khi này và nhất là họ càng để tâm hơn với cuộc nổi dậy, của các người công nhơn ở vùng Asturia vào năm 1934. Nhưng nhà nước Sô-Viết cũng không thấy có lợi ích gì về sự công nhận lẫn nhau. Vào tháng 8 năm 1936, giữa chính phủ cộng hòa Espagne và Liên Bang Sô Viết. Sau khi cuộc nội chiến bùng nổ và tránh việc làm lan rộng để có thể xảy ra cuộc can thiệp quốc tế, Liên Bang Sô-Viết và hai nước Pháp-Anh đđả ký với nhau một thỏa ước '' không can thiệp '' vào cuộc nội chiến. Ngày 27 tháng 8 năm 1936, đại sứ Sô-Viết tên Marcel Israelevitch Rosenberg đến Espagne nhận nhiệm sở.
Để được có thêm nhiều ảnh hưởng, các người cộng-sản đả đề nghị với đảng xã-hội việc '' hợp nhứt hai đảng '' . Nhưng chỉ được ở cấp bực các tổ chức thanh niên là thành tựu được việc hợp nhất với việc thành lập phong trào Thanh Niên Thống Nhất vào ngày 1 tháng 4 năm 1936 và thành tựu thứ hai là việc thành lập Đảng Xã Hội Thống Nhất ở vùng Catalogne ngày 26 tháng 6 năm 1936.
Trong chính phủ cộng hòa được ủy nhiệm, lãnh đạo nước Espagne, vào tháng 9 năm 1936 do Thủ Tướng Largo Caballero, đảng cộng-sản Espagne viết tắt là PCE chỉ được giao có 2 bộ: Jesús Hernández giử bộ Học Chính ( Instruction publique ) tương đương với bộ giáo-dục  và Vincente Uribe giử Bộ Canh Nông. Nhưng các người đả được '' Ảnh Hưởng '' ( influence ) rất mau. Nhờ các mối cãm tình họ đả được các Bộ-trưởng của chính phủ dành cho họ, là các ông Alvarez de Vayo, Juan Negrin và đại sứ Sô-Viết là Rosenberg đả xử sự với họ như là đệ nhất phó Thủ Tướng ; ông Rosenberg có được một điều kiện rất lớn và thuận lợi đó là việc Liên Bang Sô Viết sẳn-sàng cung cấp vũ khí cho các người cộng hòa.
Đây là một việc mà nước này đả can thiệp trắng trợn  vào nội bộ một nước khác. Việc can thiệp của một Đảng. Nhà nước Sô-Viết đả nằm ở ngoài vòng các thường vụ và đả tạo lên một sự nổi bật đặc biệt, vì nó đả diễn ra vào một lúc '' then chốt '' ; thời điễm gần ngày 20 năm sau các người Bôn-sê-vít cướp lấy chính quyền của Nga và nằm trong khuôn khổ quốc tế đả là việc mở đường trong hai giai đoạn kế tiếp, các năm 1934-1941 và các năm 1944-1945 để bành trướng ảnh hưởng của Liên Bang Sô-Viết ở lục địa Âu-Châu: ở Trung và Đông Âu.
 Ở tại Espagne việc phối hợp một phong trào xã-hội xâu rộng, đả nhắc lại các tình thế giống như vậy đả xảy ra sau đệ nhất thế chiến và với cuộc nội chiến và với cuộc nội chiến ở Nga đả đưa đến việc can thiệp vào nội bộ Espagne, việc mà họ hằng hy vọng. Tình hình chính trị và xã-hội ở Espagne trong những năm 1936-1939 đả trở thành một '' phòng thí nghiệm '' ( laboratoire ) cho các người Sô-viết vì họ đả có nhiều kinh nghiệm và đả xữ dụng tại nước này một loạt các phương tiện hành động ( panoplie ) về chính trị mà họ đả có sẳn và thử nghiệm các kỹ-thuật mà họ sẽ tái xữ dụng vào lúc khởi đầu đệ nhị thế chiến và toàn dụng khi chiến tranh chấm dứt. Họ có rất nhiều mục tiêu, nhưng mục tiêu ưu tiên là làm sao cho đảng cộng-sản Espagne ( đả hoàn toàn bị các cơ quan của tổ chức Komintern và NKVD kiễm soát ) đoạt được việc kiễm soát quyền lực của nhà nước hầu để nền cộng hòa này sẽ làm theo các '' ý muốn '' của Moscou. Muốn đạt được mục này phải cần áp dụng các phương pháp sô-viết mà hàng đầu là sự hiện diện của chế độ cảnh sát và việc thủ tiêu các lực lượng không phải là cộng-sản.
Lãnh tụ cộng-sản Italie tên Palmiro Togliatti và là thành viên lãnh đạo tổ chức Komintern, được phái sang Espagne để hoạt động và mang tên là Ercoli ( 1936 ), đả giải thích tính chất căn bản của cuộc nội chiến và gọi là '' chiến tranh giải phóng quốc gia ''. Theo các lời giải thích của Ercoli, cuộc cách mạng Espagne là cuộc cách mạng nhơn dân, quốc gia và chống phát xít đả đặc cho các người cộng-sản nhiều nhiệm vụ mới:'' Nhơn dân Espagne giải quyết các nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư-sản dân chủ với một đường lối mới''. Và mau chóng, Ercoli đả chỉ mặt các kẽ thù của quan niệm về cách mạng ở Espagne: '' Các người lãnh đạo cộng hòa cùng với các người lãnh đạo đảng xã-hội là các phần tử núp dưới chiêu bài của các nguyên tố vô chính phủ đả làm suy yếu sự '' kết hợp '' và '' sự đồng tâm nhất trí '' của mật trận bình dân bằng cách đề ra quá sớm các chương-trình '' tập thể hóa cưỡng bách ''.... Ercoli đả đưa ra một mục tiêu: thực hành '' bá quyền cộng sản '' sẽ thành đạt được nhờ việc thành lập một '' mặt trận duy nhất giữa hai đảng cộng-sản và đảng xã-hội hợp lại, thành lập một tổ chức duy nhất các thanh niên lao động, tổ chức một đảng duy nhất vo-sản ở vùng Catalogne, tên viêt tắt là PSUC và biến đổi đảng cộng-sản thành một đảng lớn của toàn dân. Vào tháng 6 năm 1937, cô Dolorès Ibarruri một nử đảng viên lừng danh với các lời kêu gọi kháng chiến của cô. Cô đả đề nghị một mục tiêu mới: '' Thành lập một nền cộng hòa dân chủ và lập-hiến '' kiểu mới
.
Sau khi xảy ra việc '' cướp lấy chính quyền bất hợp pháp '' ( promunciamiento ) của tướng Franco, Staline đả tỏ ra thờ ơ với tình hình ở Espagne, việc này được Jef Last đả cùng văn hào Pháp André Gide viếng Moscou trong mùa hè 1936 đả viết: '' Chúng tôi rất bất mãn vì việc vắng và thiếu chú ý đến các tình hình xảy ra. Và trong các cuộc hội kiến ở những lần nói chuyện riêng, chúng tôi đả đề cập đến vấn đề này, tất cả đều thận trọng '' tránh né '' để nói ra các quan niệm của mình. Nhưng sau hai tháng với các việc biến chuyễn đả thay đổi tình thế, Staline đả hiểu rỏ sẻ thu đạt được tất cả các lợi điễm về hai mặt '' Ngoại-giao và tuyên-truyền ''. Để thực hành đường lối '' không can thiệp '', Liên Bang Sô Viết đả hội nhập vào các nước mà có thể cho ông cơ hội để hành động một đường lối '' tự trị '' ( autonome ) rộng lớn của nước Pháp đối với nước Anh. Song song, URSS đả bí mật cam kết cung cấp vũ khí cho chính phủ cộng hòa Espagne, giúp đở về quân sự và dự định khai thác các khả năng có thể có của chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp có thể đóng góp cho mưu toan của Staline, là hợp tác để tổ chức các '' giúp đở vật chất '' cho các người cộng hòa Espagne. Theo các chỉ thị của Léon Blum  chủ tịch đảng xã-hội Pháp kiêm Thủ Tướng, ông Gaston Cusin phó trưởng phòng Bộ Trưởng Tài Chính đả chính thức tiếp đón các mật viên sô-viết, các người này đả đặt trủ sở tại Paris và họ đả tổ chức việc chuyển vận các vũ khí  và tuyển mộ các chiến sĩ tình-nguyện sang chiến đãu ở Espagne. Nếu Liên Bang Sô-Viết  tuyên bố là không tham dự vào tình thế ở Espagne, thì tổ chức Komintern đả huy động tận lực các phân bộ của tổ chức này ở khắp nơi trên thế giới, để giúp cho các người cộng-hòa Espagne ; và đả biến cuộc chiến này thành một trục kéo để hổ trợ cho các cuộc tuyên truyền chống phát-xít, và thuận lợi riêng cho phong trào cộng-sản.
Ở Espagne, chiến thuật của cộng-sản là chiếm đoạt được các ngôi vị, càng nhiều càng tốt ; hầu để chuyển hướng '' chính-trị của chính-phủ cộng-hòa '' trong chiều hướng đảng. Nhà nước theo khuôn mà đường hướng của đảng và nhà nước sô-viết hầu để khai-thác các lợi điểm về tình trạng chiến tranh. Julian Gorkin, một nhà lãnh đạo của đảng POUM, đả là người đầu tiên ( việc này thì không thể nghi-ngờ được ) đả nhận xét sự liên quan của chính-sách nơi các người sô-viết ở Espagne với việc thành lập các nước Dân-chủ Nhơn dân ở Đông-Âu sau chiến tranh, ông đả viết một sách-lược luận ( essai ) với tựa đề: '' Espanã, primer ensayo de democracia popular ( Nhà xuất bản Buenos Aires, 1961 ) ; Ông Gorkin đả được chứng kiến việc thi hành một chính-sách đả được hoạch-định từ trước và sử-gia người Espagne Antonio Elorza đả nhận xét là đường lối chính trị của các người cộng-sản Espagne xuất phát từ quan niệm nhất phiến ( monolithique ) không phải là đa nguyên ( pluraliste ) về các liên-quan chính-trị trong lòng của Mặt trận Bình dân và vai trò của Đảng là việc biến đổi tự nhiên liên minh này trở thành một bàn đạp để đoạt được bá quyền. Antonio Elorza củng nhấn mạnh về một điễm bất di dịch ( invariant ) và sẽ trở thành chính sách cộng-sản: ép đặt bá quyền của đảng PCE lên trên tất cả các người hay phần tử chống phát xít, '' không những chống phát xít ở ngoài đảng mà củng đối với các cuộc chống đối ở nội bộ ''. Ông lại thêm vào: '' Vì đó là kế hoạch và là một tiền đề trực thẳng vào chiến lược để đoạt được chính quyền ở trong các nước  được gọi là '' Dân chủ Nhơn dân ''.
Kế hoạch này đả gần như thực hiện được vào tháng 9 năm 1937, Moscou toan tính ra chỉ thị thực hành một cuộc tuyển cử: các danh sách '' duy nhất '' đả được đưa ra  và có thể cho phép đảng cộng-sản PCE đạt được các lợi điểm về cuộc '' toàn dân đầu phiếu ''. Kế- hoạch này đã do chính Staline hoạch định và chú ý theo dỏi để đưa đế việc '' tức vị '' (avènement ) của một nền '' Cộng Hòa Dân Chủ '' một loại mới Ông đả dự định việc '' loại ra '' các vị bộ trưởng thù nghịch cộng-sản. Nhưng mưu toan của ông đả không thành vì gặp phải sự chống đối của các đảng liên minh với đảng PCE và sự diễn tiến đáng lo ngại về tình cảnh của chính-phủ cộng-hòa sau cuộc phản công thất bại của quân lực của họ ởTeruel vào ngày 15 tháng 12 năm 1937.
'' Các vị cố vấn '' và các nhơn viên
Khi Staline đả nhận định được đất Espagne là nơi đả dành cho ông nhiều '' hợp thời '' cho URSS và ông đả quyết định đây là thời cơ hữu ích để can thiệp. Moscou liền biệt phái sang Espagne một số lớn các cán bộ đủ loại và trực thuộc vào nhiều cơ quan khác nhau. Khởi đầu là lối từ khoảng 700 đến 800 cố vấn quân sự thường trực và theo nguồn tin sô-viết thì tổng số các cố vấn và nhân viên, lên đến 2 044 người ; trong số này có các vị cố vấn quân sự về sau đả được thăng lên đến chức Thống chế như các ông Koniev và Joukov, tùy viên quân sự vào thời đó là tướng V.E Goriev phục vụ ở tòa đại sứ quán URSS ở Madrid. Ủồng thời Moscou củng huy động các đoàn viên thuộc tổ chức Komintern, các '' mật viên '' được '' gởi đi chính thức và bán chính thức '' thuộc một loại khác. Nhiều nhân viên đả cư ngụ thường trực như Vittorio Codovilla, người Argentine đoàn viên tổ chức Komintern đả giữ một vai trò quan trọng trong đảng cộng-sản PCE từ các năm đầu thuộc thập niên 1930 và đả dự vào việc lãnh đạo đảng này. Ernö Gerö còn có bí danh là '' Pedro '' là người Hung Ga Ri và sau chiến tranh đả trở thành '' một trong các chủ nhơn '' của nước Hung-Ga-Ri cộng-sản, Vittorio Vidali người Italia  ( đả bị nghi ngờ là vào năm 1929 đả tham gia vào việc ám sát sinh-viên cộng-sản Julio Antonio Mella người Cuba ) Vittorio Vidali sau này đả là đệ nhứt ũy viên chính trị của trung đoàn 5 do cộng-sản tổ chức vào tháng 2 năm 1937. Minev-Stepanov người Bun-ga-ri đả từng làm việc ở văn phòng thường vụ của Staline từ các năm 1927 đến 1929 và Palmiro Togliatti người Ý  đả được phái đến đây vào tháng 7 năm  1937 và là đại diện chính thức của tổ chức Komintern. Các đoàn viên cốt cán khác của tổ chức này được biệt phái với nhiệm vụ thanh tra như tên Jacques Duclos, cộng-sản Pháp sau chiến tranh và trong chính phủ Pháp đả lên tới chức Phó chủ-tịch Quốc-hội Pháp.
Song song, Moscou đả biệt phái sang Espagne một '' hạn số '' lớn các thành viên cốt cán của đảng cộng-sản Nga như: V.A Antonov-Ovseenko, người đả chỉ huy vào cuộc tấn công vào Lâu đài Mùa Đông ở Petrograd vào tháng 10 năm 1917 và tên này đả đổ bộ lên Barcelone ngày 1 tháng 10 năm 1936. Tên Alexandre Orlov ( tên thật là L. Feldbine ), người chỉ huy cơ-quan NKVD ở Espagne ; tên Arthur Stachevsky người Ba-Lan cựu sĩ quan của Hồng-Quân Nga dưới lốt là tùy-viên thương mãi, tướng Ian Berzine, chủ sự phòng tình báo Hòng quân. Mikhaĩl Koltsov chủ nhiệm nhật báo Pravda và là người được coi là phát ngôn cho Staline và có văn phòng ở Bộ Chiến-tranh  của chính-phủ Cộng-hòa Espagne. Leonid Eitingon, chỉ huy các lực-lượng an ninh nhà nước của cơ quan NKVD và Pavel Soudoplatov là phụ tá của Eitingon, họ đều đi đến Barcelone ; từ năm 1936 Eitigon được ũy-nhiệm các công tác khủng-bố, Soudoplatov mãi đến năm 1938 mới sang tới nơi. Tóm tắt là khi Staline quyết-định can thiệp vào nội tình của Espagne, ông đả tập trung một bộ tham mưu có khả năng hành động trong mọi lảnh vực đến vấn đề này. Hình như là vào đêm 14 tháng 9 năm 1936, chỉ huy trưởng của cơ quan NKVD là Iagoda đả triệu tập tại trụ sở Loubianka ở Moscou, một cuộc họp để phối hợp toàn thể các '' đầu nảo '' trong cuộc can thiệp của cộng-sản vào Espagne. Họ có các nhiệm vụ: chiến đãu chống lại các lực-lượng quân sự  của tướng Franco, được các cố vấn quân sự người Đức và người Ý giúp đở triệt để, kiễm soát và canh chừng hoặc loại trừ các đối thủ của đảng cộng-sản và của URSS ở trong lòng của đội ngủ cộng hòa Espagne. Cuộc can thiệp của các người sô-viết Nga phải được giử bí mật  và được '' trá hình ''  nếu có thể làm được để đừng liên lụy đến chính phủ sô-viết. Nếu tin theo lời của tướng Krivitsky, người chỉ huy phụ-trách các '' thường vụ hải ngoại '' của cơ quan KNVD ở Tây Âu thì trên khoảng 3 000 người Sô-viết hiện diện trên lãnh thổ Espagne, chỉ có 40 người là tham gia vào các cuộc hành quân chiến đãu, các người khác thì lảnh các nhiệm vụ: cố vấn quân sự, cố vấ chính trị hay làm các nghiệp vụ về tình báo.
Khởi đầu các người sô-viết dồn nổ lực vào vùng Catalogne. Từ đầu từ tháng 9 năm 1936, cơ-quan tổng ủy trật tự công-cộng coi về tất cả các nghiệp vụ ngành công-an ở Catalogne đả bị các người cộng-sản xâm nhập và các người này đả tổ chức trong lòng của cơ-quan này do nghị định của sở mật vụ Catalogne ( services secrets catalans, viết tắt là SSI ), mang danh xưng là Grupo de Información do tên Mariano Gomez Emperador chỉ huy ; cơ sở chính thức này đả có ngay 50 nhân viên làm việc, nhưng đây là một ăn-ten ( antenne ) trá hình của cơ-quan NKVD. Song song, đảng Xã-hội thống nhất của vùng Catalogne, danh xưng này đả được các người cộng-sản chọn cho đảng Xã-hội, đảng này đả tổ chức một cơ sở mang tên Servicio Extranjero với văn phòng đặt ở phòng số 340 của khách sạn Colon, nằm trên công-trường Plaza de Catalunya được ủy-nhiệm kiễm soát các người cộng-sản ngoại-quốc muốn đến chiến đãu giúp chính-phủ cộng-hòa Espagne  và họ đả di chuyễn qua Barcelone ; và cơ sở này đả bị cơ-quan NKVD hoàn toàn kiễm soát và dùng cơ sở trá hình này để bao che các hành động của họ.
Một thành viên của hai tổ chức này ( SSI và Servicio Extranjero ) đả tiết lộ: '' viên chỉ huy địa phương của cơ-quan NKVD được đặt dưới quyền kiểm-soát của Orlov và Gerö '' Tên Alfredo Hertz một người cộng-sản Đức ( căn cước chính của tên này không ai biết được ) đả xâm nhập vào cơ sở Cuerpo de Investigación y Vigilancia của chính phủ về các việc tổng quát và kiểm soát sở cấp phát giấy thông hành ( service des passports ) có nhiệm vụ nhập và xuất cảnh trên lảnh thổ Espagne. Hertz được quyền xữ dụng lực lượng Vệ Binh Xung Phong ( Gardes d'Assaut ) là các toán quân tinh nhuệ của cơ-quan An-Ninh. Với hệ thống của hắn đặt '' nằm vùng '' trong cơ-quan tổng-ủy trật tự công-cộng, Hertz đả nhận được tất cả các tin tình báo về các đảng cộng-sản khác, các '' danh sách đen '' của các người chống phát-xít, các lời tố cáo của các người cộng-sản hay chỉ-trích và lý lịch của tất cả các cán bộ của các cơ sở trong mỗi đảng cộng-sản và đả chuyển giao các hồ sơ này cho Bộ Nhà Nước ( Departamento de Estado ) do tên cộng-sản Victorio Sala chỉ huy. Hertz đả tổ chức cơ sở của hắn và đặt tên là Servicio Alfredo Hertz với sự bao che chính thức ( hợp pháp ) là một cơ-sở công an chính-trị song song ; gồm có các người cộng-sản Espagne và cộng-sản ngoại-quốc.
Dưới sự chỉ huy của Hertz, cơ sở này có nhiệm vụ là: Thiết lập tất cả các hồ sơ của các người ngoại quốc cư ngụ tại vùng Catalogne trước và sau đó là tất cả các người cư ngụ trên toàn lảnh thổ Espagne và '' danh sách đen '' các người làm trở ngại cần phải loại trừ. Trong giai đoạn đầu từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1936, việc sự ngược đải các người đối lập đả xảy ra nhưng thiếu phương pháp. Ưu tiên được nhắm vào các người xã-hội dân chủ, các người nghiệp đoàn vô chính phủ, các người trốt-kít, các người cộng-sản bất đồng chủ-trương và họ đả tỏ ra các đường lối chính trị rẻ tách nhau. Và dần dần cơ quan NKVD đả thiết lập ra các chương trình đàn áp đối với các lực lượng chính trị chống lại nền cộng hòa. Và đúng như dự tính, đả có nhiều '' kẻ thù '' đả chỉ trích, và tình trạng khẩn trương đả đến với các người cộng-sản phản đối đường lối để đạt được bá quyền, đi theo đường lối và chính sách của URSS. Lẽ dỉ nhiên là trong hoàn cảnh này, việc thanh toán các mối thù cá nhơn, hoặc là trả thù sẽ đương nhiên diển hay xảy ra trong các cuộc đàn áp.
Các phương pháp của công-an và cảnh sát từ trình độ sơ khai, đến tối tuyệt hảo ( sophistiqué ) đả được các nhơn viên xữ dụng, các người nhơn viên này ẩn dưới 2 hoặc 3 lý-lịch khác nhau. Nhiệm vụ đầu tiên của các viên công an đả được chính trị hóa tối đa là biến thể các guồng máy hành chính của chế độ cộng-hòa non nớt này, biến công-an và quân đội thành ra các '' thuộc đîa '' nơi họ có thể nói nôm na là '' muốn làm gì thì làm ''. Việc chinh phục lần lượt các đîa vị then chốt, việc làm '' nồng cốt '' của các cơ sở '' đả dựa trên sự kiệbn '' là URSS đả cung cấp vũ khí cho các người cộng hòa đang thiếu các trang bị quân sự và URSS củng đòi hỏi lại sự bù đắp bằng '' sự nhiều hơn '' về chính trị. ( Sau cuộc thắng trận, tướng Franco hỏi đến số dự trử '' vàng '' của ngân hàng quốc gia thì hởi ơi, chính phủ cộng hòa đả gởi '' số vàng dự trử '' để bảo đảm số giấy bạc in ra là 600 tấn đả được chở sang URSS. Việc này mãi đến năm cuối của thập niên 1980 mới được công bố ) Trái lại với các hành động của Hitler và Mussolini để giúp các người quốc gia, nước URSS đả bắt phải trả tiền trước các số vũ khí được chuyễn giao với số vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Espagne và các nhơn của cơ quan NKVD đả hộ tống sang đến tận Moscou ; mỗi một lần chuyển giao vũ khí là các người cộng-sản Espagne PCE lại làm các cuộc tống tiền ( chantage ) thêm, để khai thác các lợi ích về chính trị.
Julian Gorkin đả đưa một gương mẫu về việc '' xem lẩn nhau '' giửa chiến tranh và chính trị: đầu năm 1937, thủ tướng của chính phủ cộng hòa Espagne Largo Caballero được sự ũng hộ của Tổng thống cộng-hòa Manuel Azana, đả cho phép vị đại sứ của Espagne ở Paris Luis Araquistain để thương lượng bí mật với đại sứ Italie tại Londres, tên Dino Grandi và Hjalmar Schacht, cố vấn về tài chính cho Hitler, dưới quyền giám hộ của Léon Blum ( Thủ-tướng Pháp ) và Anthony Eden đại diện cho chính phủ Anh-quốc để tìm một thỏa hiệp chấm dứt cuộc chiến nội bộ. Vị ngoại trưởng của chính phủ Espagne tên Alvarez del Vayo, ông này có tư tưởng triết lý cộng-sản ( philocommuniste ), liền thông báo việc thương lượng này cho các người cộng-sản PCE. Các người lảnh đạo PCE đả thỏa thuận với các vị chịu trách nhiệm của các cơ quan sô-viết là '' xa lánh '' Caballero '' và cấm không được làm việc thương lượng cùng các giải pháp để chấm dứt cuộc nội chiến với căn bản là việc triệt thoái các quân nhơn người Italie và Đức quốc đang làm cố vấn cho quân lực nổi loạn của tướng Franco.
'' Sau các việc bị vu khống.... một viên đạn vào đầu ''
 Bài của Victor Serge
Và đây là lời tuyên bố của Victor Serge, một nhà văn Nga lai Bỉ đả được phóng thích từ URSS vào tháng 4 năm 1936, đả nói với Julian Gorkin khi hai người đả gặp nhau vào năm 1937 ; đả báo trước cho người tranh đấu POUM về các hành động liên kết tai hại về chính trị. Một chính sách đả gặp phải nhiều chướng ngại: khối các người '' nghiệp đoàn vô chính phủ '' thuộc tổng liên đoàn lao công CNT, đả thoát được sự ảnh hưởng của các người cộng-sản Espagne PCE, và đảng POUM củng chống lại đường lối cộng-sản. Đảng POUM là một nạn nhơn được chỉ định với lý do là đảng này là lực lượng đối nghịch khác cùng với địa vị '' ở ngoài lề '' trên bàn cờ chính trị. Đối với các người cộng-sản cần phải khai thác các lợi điểm về chính trị hợp thời trong địa hình chính trị vào thời điểm này. Ngoài các lẽ trên, đảng POUM đả bị coi là dính líu với Trotski: trong năm 1935 các vị lãnh đạo  của POUM là Andreu Nin và Julian Gorkin đả thực hành các cuộc vận động với chính quyền của vùng Catalogne để cho Trotski, vừa bị truật xuất ra khỏi nước Pháp, có thể định cư ở Barcelona. Trong khuôn khổ của việc săn đuổi các người thân hoặc thuộc Trốt-kít đang diển ra ở URSS, việc xảy ra đương nhiên là văn phòng của tổ chức Komintern họp vào ngày 21 tháng 2 năm 1936, tức là 5 ngày sau khi Mặt trận Bình-dân đả thắng cử trong cuộc tổng bầu cử. Tổ chức Komintern đả ra mệnh lệnh cho đảng cộng-sản PCE phải '' chiến đấu quyết liệt chống lại các môn phái trốt-kít phản cách mạng ''. Cộng thêm vào việc là trong mùa hè năm 1936, đảng POUM đả dám táo bạo lên lời chống đối lại các vụ xữ án lớn đầu tiên ở Moscou để bảo vệ các người nạn nhơn.
Ngày 13 tháng Chạp năm 1936, các người cộng-sản đả loại được Andreu Nin ra khỏi Hội-đồng Hành-pháp của vùng Catalogne. Họ đả viện cớ là Andreu Nin đả phạm tội vu khống nước URSS và các người cộng-sản đả dùng việc chuyễn giao vũ khí để làm một cuộc tống tiền và đạt được kết quả mà họ mong muốn. Ngày 16 tháng Chạp, báo Pravda đả phát động một chiến dịch quốc tế chống lại những người chống đối đường lối chính trị của sô-viết Nga: '' Ở tại vùng Catalogne, việc loại trừ các người trốt-kít và các người thuộc các '' nghiệp đoàn vô chính phủ đả bắt đầu ; việc loại trừ này chỉ ngừng với sự quyết tâm như đả diễn ra ở URSS ''.
Tất cả các người bất đồng hoặc đi tách ra về đường hướng chính trị đều bị các người cộng-sản coi là một cuộc phản bội, và luôn luôn bất cứ ở đâu, hay bất cứ thời gian nào củng có một cuộc xữ lý liền hay là dời lại. Các lời vu khống, và các lời nối dối đều đổ lên đầu các thành viên của đảng POUM, các đơn vị chiến đấu của đảng này trong cuộc nội chiến, đả bị tố cáo là đả chạy bỏ các vị trí chiến đấu mà họ mà họ có nhiệm vụ chống giữ, trong lúc ấy các đơn vị cộng-sản đả từ chối trợ chiến cho họ. Nhựt báo Humanité của đảng cộng-sản Pháp đả tạo ra thành tích riêng biệt trong việc này bằng cách cho đăng các bài của Mikhail Koltsov, một người bạn thân của cặp Aragon-Triolet. Đề tài chính của cuộc vận động này đả được tóm tắt là việc quyết liệt được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Đảng POUM là đồng lỏa với Franco, họ đả phản bội và làm lợi cho phát-xít. Các người cộng-sản đả cẩn thận lo trước và đả cho người xâm nhập vào hàng ngũ của POUM, các nhơn viên này dùng để thu thập các tin tức về tình báo và lập trước các danh sách đen, hầu để dễ nhận diện lúc cần tới ; các người đấu tranh của POUM hầu bắt giam họ. Một trường hợp được biết rỏ: đó là trường hợp của Léon Narvich đả liên lạc với Andreu Nin, đả bị lộ và đả bị một toán tự vệ POUM hành quyết, sau khi Andreu Nin đả biệt tích và các người lãnh đạo POUM bị bắt giam.
Tháng 5 năm 1937 và việc thanh toán đảng POUM
Ngày 3 tháng 5 năm 1937, các đơn vị của Vệ Binh Xung Phong do các người cộng-sản chỉ huy, đả tấn công vào trung tâm các máy téléphone ở Barcelone do các người công nhơn của CNT và UGT kiễm soát. Cuộc hành quân này do Rodriguez Salas chỉ huy. Y là đảng viên của PSUC và là chỉ huy trưởng công an. Cuộc tấn công này đả được chuẩn bị với các cuộc tuyên truyền và hành động ngược đải như đóng cửa đài phát thanh của POUM, cùng đình bản tờ báo của họ là La Batalla. Ngày 6 tháng 5, năm ngàn nhơn viên cảnh sát do các người cộng-sản chỉ huy đả được di chuyễn và đưa đến Barcelone. Cuộc chiến đấu đả xảy ra giữa các lực lượng cộng-sản và không cộng-sản đả diễn ra dử dội, việc này đưa đến kết quả là có 500 người chết và 1000 bị thương!!. Nhơn cơ hội xảy ra tình thế hổn độn, các người làm tai xai cho các người cộng-sản, đả nắm lấy mỗi cơ hội để thủ tiêu  các người đối lập lại đường lối chính trị của đảng cộng-sản. Ông Camillo Berneri một người Italia và là triết gia vô chính phủ đả bị ám sát cùng với người bạn của ông là Barbieri, thi thể của họ với nhiều vết đạn đả được tìm thấy ngày hôm sau. Camillo Berneri đả trả một giá về sự can đảm của ông về chính trị, vì ông đả viết trong tờ báo của ông: Cuộc chiến tranh giai cấp: '' Ngày hôm nay chúng ta chiến đấu chống lại Burgos, ngày mai chúng ta sẽ phải chiến đấu chống lại Moscou, để bảo vệ các sự tự do của chúng ta ''. Alfredo Martinez, thơ ký của phong trào Thanh-niên Tự-do tuyệt đối vùng Catalogne và người tranh đấu trốt-kít tên Hans Frend và cựu thư ký của Trotski tênErwin Wolf, tất cả đều bị giết.
Kurt Landau, người nước Áo và là người cộng-sản hoạt động đả từng đấu tranh ở Đức quốc, ở Áo quốc và ở Pháp trước khi đến Barcelone và tham gia vào đảng POUM. Người này bị bắt giam vào ngày 23 tháng 9 và củng biệt tích trong các trường hợp tương tự. Vợ của Kurt Landau tên Katia củng bị bắt giam đả khai về các cuộc '' Thanh trừng '': ở trong các trụ sở của đảng tại: Pedrera, Paseo de Garcia ; ở trong các trại lính '' Carlos Marx '' và ''Vorocholov '', ở tại các nơi này là các '' bẩy chuột '' và '' ổ để cắt cổ''. Ở tại Pédréra các nhơn chứng đả thấy lần cuối cùng hai chiến hữu '' mất tích '' ( làm việc tại Radio Poum ). Người ta, các người cộng-sản PCE, đả giải đưa các thanh niên trẻ tuổi thuộc phe phái vô chính phủ về các trại lính, để tra tấn các người này một cách mà chúng ta không thể tưởng tượng được. Đánh gảy hoặc chặt tay chân và sau cùng ám sát họ. Tình cờ người ta đả tìm lại được các tử thi. Và bà Katia đả viết trên một bài báo của cơ quan nghiệp đoàn vô chính phủ Solidaredad Obrera: Trên các tữ thi mà tình cờ người ta gặp được, người ta đả nhận thấy là trước khi các người này chết, họ đả bị tra tấn một cách dã man, vì trên các tử thi này đả có các vết bầm tím và các vết thương tét da thịt, các vết thương bầm tím ở trên bụng đả sưng phù lên. Có một tử thi đả có cái đầu và cái cổ đả trở màu tím thẫm, chứng tỏ là người này đả bị treo hai chân lên, đầu ngược xuống đất. Trên đầu của  cậu thanh niên  chiến hữu xấu số này còn '' in hằn '' lên vết đánh bằng bá súng.
Nhiều người tranh đấu đả biến mất luôn, người ta không bao giờ tìm lại được dấu vết của các người tên sau đây: Guido Picelli, George Orwell, đả tình nguyện nhập ngũ đoàn chiến sĩ POUM, và đoàn này đả sống những ngày bị tàn sát giống như cuộc tàn sát Saint-Barthélemy ( xảy ra vào thời chiến tranh tôn giáo vào thế kỷ thứ 16 ở Pháp ), họ phải chạy trốn và ẩn nấp để được sống còn, và đả tả lại cảnh sống trong bầu '' không khí  săn bắt '' đả diễn ra ở Barcelone. Trong một bản đính kèm '' những gì đả xảy ra trong những ngày rối loạn váo tháng 5 tại Barcelone '', ở trong sách: Tôn kính cho vùng Barcelona - Các công an cộng-sản đả '' kế hoạch hóa '' các vụ mưu sát, không riêng gì ở Barcelona. Tại Tortosa, ngày 6 tháng 5 đả có 20 người chiến sĩ đấu tranh của CNT đả bị các quân nhơn của chính quyền ở Valence bắt giam ở dưới ngục tối của tòa đô sảnh, họ bị các tên '' giết thuê '' lôi ra và bắn chết. Ngày hôm sau, ở Tarragona 15 người đấu tranh thuộc phái '' tự do tuyệt đối '' củng bị hạ sát không nương tay.
Tất cả những gì người cộng-sản không đạt được trên bình diện của các nơi xảy ra các cuộc chiến, họ đả đạt được trên mặt chính trị. Thủ tướng của chính phủ Largo Caballero đả từ chối các đề nghị '' như là những lời trách mắng '', của các người cộng-sản đòi hỏi phải thi hành việc giải tán đảng POUM, tên José Diaz tổng thư ký đảng cộng-sản PCE đả tuyên bố vào tháng 5: '' Đảng POUM phải được loại ra khỏi đời sống chính trị của nước này ''. Sau khi đả xảy ra các cuộc '' ngang sát nhau '' ở Barcelone, Caballero đả bắt buộc phải từ chức Thủ-tướng chính phủ vào ngày 15 tháng 5 và được ông Juan Negrin, một người xã-hội ôn hòa được cử làm Thủ-tướng thay. Nhưng than ôi! Ông này lại là người '' tùy thuộc '' vào các người cộng-sản và tất cả các chường ngại vật cản trở họ để đạt được mục tiêu đả được tháo gở. Thủ tướng Negrin đả chấp nhận đường lối của cộng-sản và ông đả bắt buộc phải viết cho tuần san tiếng Anh '' Times '' do phóng viên chuyễn giao về tòa soạn, đó là ký giả Herbert L. Matthews là đảng viên POUM đả bị các phần tử '' quá dị ứng '' kiễm soát, để đối lại tất cả những gì có ý nghỉa là chỉ đạo duy nhất và tối cao, để tranh đấu dưới một kỹ luật chung??!, Nhưng ông đả chấp thuận cuộc khủng bố áp đặt lên đảng POUM. Ông Julian nhận thấy sự thay đổi cấp tiến đả diễn ra và ghi lại như sau: '' Sau vài ngày thành lập chính phủ Negrin, Orlov đả hành động và coi nước Espagne như là một '' vệ tinh '' của Nga sô-viết. Y đả đến cơ-quan Tổng An-ninh Quốc-gia và đả đòi hỏi vị chỉ huy là Đại-tá Ortega phải hành động theo lịnh của y, và coi vị đại tá này là một sĩ-quan cấp dưới lệ thuộc. Các lịnh bắt giam các thành viên của Ũy-ban Hành-pháp POUM đả được tống đạt.
Ngày 16 tháng 6 năm 1937, Negrin cấm đảng POUM hoạt động vì các người lãnh đạo đả bị bắt giam. Quyết định chính thức này đả cho phép các nhơn viên cộng-sản hành động dưới sự che chở của sự hợp tác hoàn toàn phe phái. Cùng ngày này, vào lúc 1 giờ trưa Andreu Nin đả bị các cảnh sát viên chận bắt ở ngoài phố. Các chiến hữu của ông đả không bao giờ gặp lại ông, dù là sống hay chết.
Các cảnh sát viên và công an viên từ Madrid được phái đến Barcelone, vì họ đáng tin cậy hơn các người này đả hoàn toàn lệ thuộc vào các người cộng sản, họ đả xông vào trụ sở của ban biên tập tờ báo La Batella và các trụ sở khác của đảng POUM. Hai trăm người chiến sĩ đấu tranh đả bị bắt giam, trong số này có các vị lãnh tụ: Julian Gorkin, Jordi Arquer, Juan Andrade, Pedro Bonet, v.v.. Để chứng minh cho việc mai hậu, việc thủ tiêu đảng POUM, các người cộng-sản đả '' ngụy tạo '' ra đủ các loại giấy tờ để có bằng chứng là POUM đả phản bội và tố cáo là họ đả hoạt động gián điệp cho tướng Franco. Ngày 22 tháng 6 một tòa án đặc biệt đả được thiết lập, và một cuộc tuyên truyền đả được phát động: cảnh sát và công an trong các cuộc lục soát các trụ sở của đảng POUM, đả phát giác ra các tài liệu đả xác định việc các hoạt động gián điệp do các người cộng-sản đề ra, Max Rieger một ký giả, đả theo lịnh từ một cái được gọi dưới tên tập thể, đả thu thập các tài liệu ngụy tạo hay giả tạo này để làm ra một cuốn sách với tựa đề: '' Nghiệp vụ gián điệp ở Espagne, và cuốn sách này đả được phát hành dưới nhiều thứ tiếng khác nhau.
Düói sự chỉ huy của Orlov và với sự che chở của Vidali, Ricardo Burillo và Gero, các tên giết thuê đả bắt Andreu Nin đả tra tấn ông này, cuộc tra tấn này đả không đạt được một lời '' thú tội '', để chứng minh các lời buộc tội đối với ông và làm hại đảng của ông ; và củng không ép buộc được ông phải ký một văn kiện nào hay một lời khai nào. Từ đó họ chỉ còn cób giải pháp là thủ tiêu ông và dùng sự '' mất tích '' của ông để làm mất danh dự của ông, bằng cách phao tin là ông đả trốn sang hàng ngủ của tướng Franco. Các cuộc ám sát và các cuộc tuyên truyền đi đôi với nhau. Về sau trong các việc tra cứu các hồ sơ tồn trử ở văn khố tại Moscou, đả cho phép xác nhận các điều mà các chiến hữu của Andreu Nin đả giã định vào tháng 9 năm 1937 là đúng.
Chỉ sau khi phát động các hành động đánh phá đảng POUM, ngày 16 và 17 tháng 6, các người cộng-sản bắt đầu '' cuộc săn bắt '' người có phương pháp, những tên '' phản bội trốt-kít '' cùng với các người chống đối khác. Để điều hành các hành động của họ, các người cộng-sản đả xữ dụng các hồ sơ về lý-lịch nơi các cơ quan cảnh-sát và công an. Họ đả trở thành các tên '' tchékit '' của nước Espagne. Họ đả tồ chức các khám đường bất hợp pháp và song song với các nơi giam giữ của chính quyền mà dân chúng đả gọi là các '' ceka '' ( họ dùng tiếng Nga là Tchéka, nhưng bỏ chử T và chử H đi nên còn lại là Céka ).Tên của các nơi dùng làm '' céka '' được biết là: Céka trung ương của Barcelone ở số 24, Avenida Puerta del Angel, với chi nhánh ở Hotel Colon nơi công trường Catalogne, và một ở Tu-viện củ Atocha tại Madrid, Santa Ursula ở Valencia và Acalá de Henares. Đả có nhiều tư thất bị trưng dụng làm nơi giam cầm, hỏi cung và hành quyết.
Đầu năm 1938 đả có 200 người bị giam cầm ở '' céka '' Santa Ursula, vì bị tố cáo là chống phát-xít và chống các người thân Staline. Vào thời điễm này, céka Santa Ursula, đả được coi như trại Dachau của Espagne ( trại Dachau của Hitler đả lừng danh là nơi giam cầm và thủ tiêu các người chống đối chế độ Đức-quốc-xã và các người Do-thái ). Khi các người cộng-sản quyết định thiết lập một '' céka '', chúng tôi đang lo quét dọn một nghĩa trang nhỏ, đó là lời thuật lại của một nhân chứng. Các người ''tchékit '' đả có một hành động  ''yêu quái '': họ để nghĩa trang này trong tình trạng với các chiếc mã đả được mở nắp ra, để trông thấy các bộ xương và các xác chết đang tan rữa ra. Củng tại các mã này, hàng đêm họ nhốt các người bị bắt cứng đầu nhứt. Họ đả dùng các cực hình '' cục súc '' nhất bằng cách: treo chân các người bị bắt đầu ngược xuống đất, trong xuốt cả ngày. Các người khác bị nhốt trong các chiếc tủ và họ chỉ đục vài cái lổ để cho người bị nhốt có đủ khí trời để thở. Còn có một hình thức tra tấn khác còn '' cục súc '' hơn nữa: người ta bắt buộc các người tù nhơn phải ngồi '' chồm hổm '' trong các cái thùng hình vuông trong nhiều ngày ; có người bị bắt ngồi như vậy từ 8 đến 10 ngày mà không được cử động. Để thực hành các công việc đồi bại này, các nhơn viên sô-viết đả dùng các người thuộc thành phần các tên tù về tội ác, và hình như các việc làm của họ được cô Pasionaria chấp thuận. Trong một cuộc biểu tình và hội-thảo củ cộng-sản ở Valencia cô này đả tuyên bố: '' Tốt hơn là lên án một trăm người vô tội, còn hơn tha bổng một người thủ phạm ''.
Xữ dụng các cuộc tra tấn là một phương pháp: tra tấn bằng cách trói tay chân cho nằm vào một chiếc bồn tắm, rồi đổ đày nước có savon, vì nước này sẽ khiến nạn nhơn ụa mửa ra. Có nhiều loại tra tấn khác '' thuần túy sô-viết '', đó là bắt không cho các nạn nhơn ngủ và phải thức nhiều ngày liên tiếp. Nhốt nạn nhơn vào một cái tủ chật hẹp tên là: '' celda armario '' mà nạn nhơn không thể đùng hay ngồi cùng là cử động tay chơn và chỉ khó khăn để thở. Một ngọn đèn rất sáng thắp xuốt ngày, đêm. Nhà văn Soljenitsyne đả tả chân loại '' xà lim này '' trong các chương của Quần Đảo các Goulay, khi ông tả cảnh lúc ông vào trụ sở Loubianka của cơ quan NKVD ở Moscou.
Việc hành quyết '' đơn sơ '' là việc xảy ra thường xuyên: '' Trung úy Astorga Vayo thuộc sở điều-tra về quân sự và cơ quan NKVD đả tìm ra phương pháp để chế ngự các việc '' đào tẩu '': Các người tù nhơn được tập họ bằng cách thức mỗi hàng có 5 người. Nếu để có một người '' đào tẩu '' bốn người còn lại sẽ bị đưa ra xử bắn. Và y còn hăm dọa là sẽ xữ bắn luôn cả các người của hàng đứng trước củng như hàng đứng sau có người '' đào tẩu ''. Hành động này đả làm bất mãn các đồng đội của ông, nhưng Vayo, tuy là bị tước quyền chỉ huy nhưng lại được thăng cấp và được giao cho chỉ huy một trại tập trung chính ở vùng Catalogne, đó là trại Onells de Nagaya ở trong tỉnh Lérida.
Con số các người bị bắt giam, được ước lượng do nhiều người:Katia Landau đưa ra con số 15000 tù nhơn bị bắt giam ở trong các khám đường chính thức và bí mật, trong số này có 1000 người thuộc đảng POUM. Yves Lévy sau các cuộc điều tra tại chổ đả đưa ra con số là khoảng '' 10 000 người tù nhơn  cách mạng, thường dân và quân nhân bị giam cầm '' thuộc đảng POUM, tổ chức CNT và FAL. Đả có nhiều người đả chết vì bị hành hạ xấu như: Bob Smile phóng viên độc lập của báo Labour Party ở bên cạnh đảng POUM, như trường hợp của Manuel Maurin? em của Joaquin Maurin đả bị quân của tướng Franco bắt làm tù binh và nhờ vậy đả được sống sót, Manuel Maurin ở khám đường kiểu mẫu tại Bacelona. Cuối năm 1937, theo như Julian Gorkin tại khám đường Santa Clara đả có 72 người bị tuyên án tử hình.
Đảng POUM đả bị phá tan, các người thuộc đảng xã hội đả bị loại ra hay đả bị '' lung lạc '', còn lại các người vô chính phủ. Trong những tháng đầu các người cộng-hòa đả chống trả lại '' pronunciamiento '' của tướng Franco và dưới ảnh hưởng của các người cộng hòa tại vùng Aragon các đoàn thể nông nghiệp đả tập họp lại. Vài tuần lễ sau tháng 5 năm 1937, các thành phố và các làng xã đả bị các vệ binh xung phong chiếm đóng. Đại hội các đoàn thể nông nghiệp dự đînh được dời lại một ngày khác và đến ngày 11 tháng 8 một sắc lịnh được ban ra giải tán Hội đòng vùng Aragon. Chủ tịch của hội đồng Joaquin Ascaso bị tố cáo là đả ăn trộm nữ trang, đả bị bắt giam và được thay thế bởi một viên toàn quyền cai trị tên là José Ignacis Mantacon, một thành viên của tả phái cộng hòa nhưng thiệt ra là một '' tàu ngầm '' của cộng-sản. Đó là một cuộc tấn công thẳng vào tổ chức CNT với dụng ý là phá hoại ngấm ngầm  các căn bản của ảnh hưởng tổ chức CNT.
Sư đoàn 11, dưới sự chỉ huy của tên cộng sản Enrique Lister đả làm nhiều cuộc đổ máu ở Castilla như: hành quyết các người '' tự do tuyệt đối '', bạo động chống lại các tập đoàn nông dân '' tập thể hóa ''. Sư đoàn 27 còn có tên là Karl-Marx của PSUC và sư đoàn 30 đả dùng võ lực để giải tán các tập đoàn nông dân. Hàng trăm người '' tự do tuyệt đối '' đả bị bắt hoặc đả bị loại ra khỏi các hội đồng thành phố và được thay thế bởi các người cộng-sản, trong lúc đó các vùng đất đả canh tác tập thể được trả về và chia lại cho các người chủ củ. Hành động này được phối hợp với việc loan tin một cuộc tấn công đại quy mô vào thành phố Saragosse để có cách chứng minh việc '' quét sạch '' các vùng hậu tuyến hầu để sửa soạn cuộc tấn công. Mặc dầu đả xảy ra cuộc tàn sát cả trăm người nông dân nhưng những người này cũng tái lập lại các tập đoàn của họ. Ở vùng Castilla, tên tướng cộng-sản lừng danh El Campesino ( tên thật là Valentin Gonzles ) đả chỉ huy các cuộc hành quân chống lại các người nông dân. Theo như các tin do ông César M. Lorenzo đưa ra, các hành động của El Campesino đả vượt qua quá xa các hành động của Lister. Lại diển ra các cuộc tàn sát hàng trăm người nông dân, nhiều làng xã bị thiêu hũy, nhưng tổ chức CNT đả phản ứng lại dử dội để chống lại các hành động gây hấn này và nhờ vậy đả chấm dứt được các hành động của El Campesino.
Cơ quan NKVD ra tay
Vào năm 19873 ở Espagne, cơ quan NKVD đả trở thành một loại cơ quan phụ thuộc cho bộ Nội vụ của chính phủ cộng hòa dưới tên là '' Grupo de Informatión ''. Các nhơn viên người cộng-sản đả kiễm soát Tổng Nha An Ninh. Mùa Xuân 1937 và mùa Hè, các tổ chức Servicio Alfredo Hertz đả hoạt động tối đa. Julian Gorkin đả gọi là '' một trong các vị thầy giỏi '' về '' hỏi cung '' và '' hành quyết ''. Cùng làm việc với Hertz có người tay chân của Ernö Gerö tên là Hubert Von Ranke, người này đả phục vụ Gerö từ năm 1930 và có một lúc làm Ũy viên Chính trị của tiểu đoàn '' Thaelmann '' thuộc trung đoàn quốc tế, nay y được ũy nhiệm kiễm soát các người ngoại quốc nói tiếng Đức. Hình như, nếu là đúng theo sự thật là chính Von Ranke đả với chức vụ củ y bắt Erwin Wolf và sau đó đả thả ra, nhưng rồi một thời gian sau đả '' tuyệt tích ''.
Hai nhơn viên chính phủ của Grupo de Información đả bắt giam bà Katia Landau ngày  11 tháng 9 năm 1937. Bà Katia đả kể lại phương pháp '' bỉ ổi đê hèn '' mà Von Ranke đả xữ dụng: '' Nó là một những nhân viên đê hèn củ cơ quan GPU, lúc đó nó mang tên là Mortiz Bressler, và đả làm rất ít các cuộc tố cáo. Hắn và vợ hắn là Seppl Kapalanz đả cho bắt một người bạn vì đả nghi ngờ là người này đả biết Kurt Landau đang ở đâu và đả nói: '' Nếu anh không cho đîa chỉ của nó, lhông bao giờ anh ra khỏi khám đường. Nó là một kẽ thù của Mặt trận Bình dân và của Staline. Khi mà chúng tôi biết nó ở đâu, chúng tôi sẽ đi đến đó để giết nó ''.
Trong đêm 9 rạng ngày 10 tháng 4 năm 1937, một thanh niên người Norwège mà không ai biết đến tên là Marc Rein đả tham gia vào các phong trào cực tả của nước Norvège, anh đang cư ngụ ở trong một khách sạn ở Barcelone bổng nhiên mất tích. Vài ngày sau các bạn hữu của anh được biết là anh đả mất tích, liền báo động cho dư luận quần chúng. Marc Rein là con trai của Rafaẽl Abramocitch, một người Nga di cư và là lãnh tụ của đệ nhị quốc-tế. Tư cách của nạn nhơn đả khiến cho gia đình của nạn nhơn và các người bạn kịch liệt tìm kiếm để biết về số phận của nạn nhơn, đả gây ra một sự súc động lớn ở hải ngoại và tạo ra các mối bối rối cho chính phủ cộng hòa Espagne. Chính phủ Espagne bắt buộc phải ủy nhiệm cho một nhơn viên của chính phủ mở cuộc điều tra và được biết là tổ chức Servicio Alfredo Hertz là thủ phạm của việc Marc Rein đả mất tích. Một cuộc tranh chấp gay gắt đả xảy ra giửa cơ quan NKVD và chính phủ Espagne, đả đưa đến việc là ngày 9 tháng 7 năm 1937, vị quốc-vụ-khanh của Bộ-trưởng Bộ-Nội-vụ đả cho thực hành trước mặt các nhơn chứng một cuộc '' đối chất '' của nhơn viên tình báo của chính phủ  ( bí số SSI 29 ) với hai tên đồng lỏa Hertz và Gomez Emperador. Ngày hôm sau, nhơn viên SSI 29 liền bị tổ chức của Hertz bắt giam. Lúc ấy văn phòng tình báo xữ dụng SSI 29 còn đủ '' uy lực '' để giải thoát cho nhơn viên của mình. SSI 29 tên thật là Laurencic, đả bị truy tầm ra do các nhơn viên của mật vụ Franco, bị bắt và đưa ra trước tòa án binh của Franco và bị xử tử với tội danh là nhơn viên của cơ quan NKVD.
Vụ Marc Rein đến nay chưa ai biết được sự kết thúc nó ra sao, và củng không ai biết được số phận của nạn nhơn. Nhưng đả đưa đến việc là vào cuối tháng 7 trở về sau các hành động của Hertz đả không còn quá lộ liểu: Các tổ chức của y đều bị giải tán, nhưng được tái tổ chức lại dưới quyền của Victorio Sala. Bắt đầu từ 15 tháng 8, bộ trưởng Bộ Quốc-phòng thuộc đảng xã-hội tên Indalecio Prieto đả tổ chức Servicio de Investigación Militar ( SIM ) với nhiệm vụ là quy tụ tất cả các tổ chức kiểm soát chính trị và các tổ chức phản gián điệp. Trong một thời gian ngắn, tổ chức SIM đả có 6000 nhân viên. Một số nhơn viên của Hertz, có trình độ đả gia nhập vào SIM. Và năm 1939, Prieto đả biểu lộ là tổ chức SIM, trên nguyên tắc là để dùng vào các việc phản gián điệp đả được tổ chức, vì các lời '' thúc giục '' của các người sô-viết và chẳng bao lâu dù là đả dùng các biện pháp ngăn ngừa, vì ngay từ lúc đầu tổ chuúc này đả do một người bạn thân tín của Prieto lãnh đạo, các người cộng-sản đả đoạt được tổ chức SIM và dùng nó để thực hành các mục tiêu của họ. Dưới áp lực của các người sô-viết và các người cộng-sản, đến ngày 5 tháng 4 năm 1938 Priéto bị loại ra khỏi chính phủ.
Julian Gorkin đả mô tả các hoạt động của SIM: '' Họ bắt mọi người tùy theo các tính hay thay đổi của họ, bắt ngang bắt ngữa, để tuân theo các kế hoạch đàn áp '' trả đủa '' về chính trị. Kẽ nào bị bắt liền bị giam vào khám đường và người ta bắt đầu nghiên cứu liền vụ xữ án mà không cần điều tra. Tổ chức SIM giữ các hồ sơ, từ tháng này qua tháng khác nói là để điều tra bổ túc. Và tổ chức SIM chính là sự khũng bố đối với các vị thẫm phán và các vị luật sư cùng các ông dự thẫm khi họ biết rằng tù nhơn là kẻ vô tội.
Rudolf Frei, là một người cộng-sản Thụy-sĩ ( suisse ), trước kia anh là một người thợ máy và anh đả theo các lớp học của trường Lénine Quốc tế ở Moscou vào năm 1931-1932. Anh được ũy nhiệm lo việc đưa  các người tình nguyện đi từ Bâle ( Thụy-sĩ ) đi sang Espagne. Theo lời yêu cầu của anh, anh đi sang Espagne vào cuối năm 1937, và phục vụ tại sở kiễm soát của SIM, đặc biệt là để theo dỏi các người dân '' Thụy-sĩ ''. Vào mùa Xuân 1938, rất nhiều người tù nhơn chống phát-xít bị bắt giam ở trong các khám đường do các người cộng-sản kiễm soát, đả bị cưởng bách đưa ra các mặt trận, cùng với các người tù thuộc phe của tướng Franco để làm các việc đào những giao thông hào, và các việc khác rất là cực khổ mà không có lương thực, săn sóc y-tế kèm theo sự đe dọa thường xuyên là sẽ bị bắn bỏ.
Một trong những người sống sót, đả vượt ngục được, anh tên là Karl Brauning, anh thuộc vào nhóm các người cộng-sản Đức ly khai, đả biểu lộ với nhiều người bạn thân vào tháng chạp năm 1939, trên sáu tháng sau khi anh trốn thoát: '' Những điều mà chúng tôi đả sống từ tháng bảy rất là tàn ác và kinh khủng. Các hình ảnh trong cuốn sách của Dostoĩevski: ngôi nhà của các người chết chỉ là các bản sao lợt lạt. Thêm vào đó việc chịu đói triền miên đả đưa đến việc mê sảng. Thân thể của tôi chỉ còn một nữa của ngày trước, chỉ còn da bọc xương và lại đau ốm không còn sức lực. Vào đến giai đoạn này, biên giới giữa người và con thú không còn nửa. Người ta đả đạt được đến giai đoạn đầu của sự dã man. -! Các người phát-xít còn phải học hỏi thêm rất nhiều ở cái thằng ăn cướp này và các người phát-xít còn có thể tự cho mình xa-xí là đả còn giữ lại một ít văn hóa. Có lẽ các người cộng-sản đả ghi trên hồ-sơ của anh: '' cần phải tiêu diệt thể xác bằng các phương tiện hợp pháp ''. Đó là việc người ta đả toan tính cho tận cùng.
Tái diễn lại tại Barcelone một '' Tòa án ở Moscou ''
Mặc dầu đả tái tổ chức lại các cơ cấu, cơ quan NKVD đả gặp một vài chướng ngại vật, do các việc xâm nhập trá hình:Sau khi đả chịu đựng các cuộc đàn áp dả man, đảng POUM đả nhận được sự trợ giúp của các nhóm người cách mạng Espagne ; họ tổ chức thành một hiệp hội bảo vệ các người cách mạng bị cầm tù ở Espagne trong các khám đường của chính phủ cộng-hòa. Các hành động quần chúng công khai diễn ra để chống lại các hành động đen tối và đầy tội ác của các người sô-viết. Đó là 3 phái đoàn đả đi đến tại chổ để mở các cuộc điều tra. Phái đoàn thứ ba do John MacGovern thuộc đảng Lao-động dộc-lập và giáo sư Felicien Challaye đã có thể viếng khám đường ở Barcelone đó là cárcel modelo, nơi đây đả giam cầm 500 người chống phát-xít. Phái đoàn đả ghi chép và thâu nhập được các lời khai về các sự ngược đải mà các người tù nhơn này đả phải hứng chịu. MacGovern và Challaye đả xin tha cho lối 12 người tù nhơn. Hai ông này củng đả cố gắng để đi thăm nhà tù, nơi giam giử bí mật của cơ-quan NKVD tọa lạc tại công-trường Junta. Dầu có được sự ủng hộ của bộ Tư-pháp là Manuel de Irijo, hai vị này đả không vào được nhà tù này. MacGovern đả kết luận rằng: '' Chiếc mặt nạ đả rớt xuống, chúng tôi đả vén được bức màng lên và chỉ rỏ rằng quyền lực nằm tại chổ nào. Các vị Bộ-trưởng muốn nhưng không làm được ''.
Ngày 11 và 12 tháng 10, các thành viên của Ủ-ban Hành-pháp của đảng POUM gồm có: Gorkin, Andrade, Gironella, Rovira, Arquer, Rebull, Bonet, Escuder đều bị đưa ra xử trước một tòa án đặc biệt trong một vụ tố tụng, đả bắt chước theo các vụ xử án tại Moscou. Trên thực tế, phiên tòa này làm vững chắc hơn các việc mà người ta muốn phải tin, các cuộc tố cáo ở URSS chống lại các người đối nghịch mà người ta gom lại, dưới chử tổng quát là các người trốt-kít. Nhưng tất cả các người tranh đấu kể trên, đả phản đối chống lại những lý lẻ dùng để buộc tội họ. Các danh nhơn ngoại quốc gồm có: Andre Gide, Georges Duhamel, Roger Martin de Gard, François Mauriac và Paul Rivet, đả gởi bằng điện tín một thông điệp cho Thủ-tướng Juan Negrin, đòi hỏi là tất cả các người bị cáo phải được hưởng các sự bảo đảm về pháp lý. Các lời tố cáo đả dựa trên các lời khai đả bị cưởng đoạt, cuộc xữ án đả trở thành sự hổn độn nơi các người tố cáo. Các báo chí cộng-sản đòi phải kết án tử hình, nhưng không có án tử hình nào được tuyên ra. Các người tranh đấu của đảng POUM đả bị kết án với 15 năm tù giam, trừ Jordi Arquer bị xữ 11 năm tù giam và David Rey. Bản án này được tuyên ra vào ngày 2 tháng 11, vì tội đả đăng tin '' vu khống '' trên báo La Batalla  là chính phủ cộng-hòa Espagne đả chịu các lịnh của Moscou, và truy tố tất cả mọi người không chịu theo lịnh của Moscou, và coi đây là một lời nhận tội.
Vào tháng 3 năm 1939, chính phủ cộng-hòa đả thua trận chiến, các người có trách nhiệm của SIM mưu toan giao các người bị kết án cho phe Franco để phe này xữ bắn các người này, với toan tính là để cho các kẽ thù của chính phủ cộng-hòa làm xong cái việc '' dơ dáy '' này, mà các nhơn viên của NKVD đả không hoàn thành được. Nhờ được sự mai mắn, các người sống sót của Ủy-ban Hành-pháp đảng POUM đả vượt thoát được.
Trong hàng ngũ của trung đoàn quốc-tế
Tiếng vang ở trên toàn thế giới, của cuộc chiến đấu nơi những người cộng hòa đả khiến một số người tình nguyện, và tự nhiên quyết định đi sang Espagne để chiến đấu chống lại các người quốc-gia, và đả gia nhập vào các đoàn quân tự vệ hay các đoàn quân do các tổ chức. Họ đả thâu nhận được cảm tình của các người tình nguyện. Việc thành lập các trung đoàn quốc tế là do sáng kiến của Moscou và đả trở thành một đạo quân của cộng-sản, dù tại đây họ đả khộng tập họp được tất cả những người cộng-sản. Nhưng phải phân biệt được các người chiến sĩ đả ra đi tuyền tuyến và các người thuộc về bộ máy tại hậu phương, không đi chiến đấu. Vì lịch sử của các trung đoàn không thể chỉ tóm tắc ở các trận '' giao phong anh hùng '' của các chiến sĩ nơi các trung đoàn.
Vào mùa Thu-Đông năm 1936 các trung đoàn này đả bành trướng mau lẹ, với quân số của hàng chục ngàn người từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Với các người cộng-sản họ chỉ chấp nhận việc gia nhập của các người này, sau khi thi hành các sự kiễm soát. Họ muốn tránh các sự xâm nhập của các điệp viên hàng hai của tướng Franco, quốc-xã hay những cái khác. Và mau chóng, các người cộng-sản kiễm soát tất cả các người tình nguyện về trình độ '' giáo điều chính thống '' của họ, trong khi ấy thì cuộc đại khũng bố đang diễn ra ở Moscou và trên toàn nước Nga. Dịch vụ nơi những cán bộ của các đảng cộng-sản của các nước được ũy nhiệm để điều khiển  cuộc đấu tranh chống lại những kẽ khiêu-khích, nghĩa là tìm ra các người cộng-sản ly khai, các người bị phê bình và vô kỹ luật. Họ còn có bổn phận tuyễn mộ các người cộng-sản tình nguyện ở ngoại-quốc: Cơ quan công-an Thụy-sĩ ở Zirich đả bắt được trong người của tên cộng-sản người Đức tên là Alfred Adolf, dấu một danh sách tố cáo với các người sô-viết ở Espagne, danh sách các người tình nguyện mà người ta không muốn có. Trong một tài liệu mà ủy ban hành pháp của tổ chứ Komintern đề ra từ mùa Thu 1937, đả ra lịnh phải trừ bỏ ra khỏi các trung đoàn các phần tử về chính trị thuộc về loại đáng nghi ngờ và kiễm soát việc tuyển lựa các người tình nguyện ; hầu tránh việc xâm nhập vào đội ngủ của các trung đoàn các nhơn viên tình báo, các gián điệp phát-xít và các người trốt-kít. Đó là vì sao hồ sơ cá nhơn của mỗi người tình nguyện lại nằm trong các hồ sơ lưu trử của tổ chức Komintern ở Moscou hiện có hàng vài chục ngàn hồ sơ.
Đến nước Espagne vào tháng 6 năm 1936, đảng viên cộng-sản Pháp André Marty được coi là đại diện của tổ chức Komintern ở bên cạnh chính phủ cộng-hòa. Ông là thành viên của văn phòng chính trị của đảng cộng-sản Pháp-PCF, và là thơ ký của tổ chức Komintern và củng giử vai trò chủ nhơn ông chính thức của căn cứ Albacete, tại nơi đây đả tổ chức thành lập các trung đoàn quốc tế. Song song với các trung đoàn, các người cộng-sản đả thành lập liên đội 5 dưới sự chỉ huy của Enrique Lister, người này đả ở URSS vào năm 1932 để thụ huấn tại viện đại học quân sự Frounzé. Lẽ dỉ nhiên là cơ quan SIM củng hiện diện ở Albacete.
Tính rộng lớn của các cuộc thủ tiêu, các người tình nguyện thuộc các trung đoàn cho đến ngày nay còn là đầu đề của các cuộc tranh luận. Có vài người đả chối cải các trách nhiệm của Marty, dù đả có các chứng cớ hiển nhiên đè trên các hành động của Marty, và các chứng cớ khác để minh giải các trọng trách của Marty. El Campesino đả giải thích: '' Không còn nghi ngờ gì Marty đả phải trừ bỏ các phần tử nguy hiễm. Ông này đả ra lịnh hành quyết vài người, việc này không chối cải được, nhưng đó là các người đả phản bội, đào ngũ hay đả ám sát một người khác ''. Một nhơn chứng Gustave Regler đả từng làm ũy viên phó của trung đoàn 12 đả xác nhận các phương pháp này: Trong cuộc giao tranh gần Escurial, hai chiến sĩ của trung đoàn ( 2 người này khi trước thuộc phe vô chính phủ ) đả thối chí, Régler đả ra lịnh bắt giam 2 người này và đề nghị gởi 2 người này vào viện nghĩ dưởng sức. Ông Régler đả báo cáo cho Marty và ông này đả quyết định gởi 2 người chiến sỉ đi Alcalá de Henares. Chỉ mãi lâu về sau này, Régler mới được biết là Alcalá de Henares không phải là một viện nghỉ dưởng sức, mà là nơi trú quân của một phân đội chiến sĩ người Nga chuyên việc hành quyết ; Trong các văn khố tìm được ở Moscou, người ta đả tìm thấy một bản viết tay, với chử ký của Marty, để giải thích cho ũy ban trung ương đảng cộng-sản PCE: tôi đả lấy làm tiếc việc người ta đả gởi trở về Valencia các tên gián điệp và các tên phát-xít, mà đáng lẽ người ta phải gởi họ về Valencia để thủ tiêu. Các anh củng hiểu rằng các trung đoàn quốc tế không thể làm được việc này ở tại đây, ở Albacete ''. Người ta củng hiểu là việc hành quyết các tên gián điệp hay là phát-xít không phải là một chuyện dể làm ; ngay ở trung tâm một căn cứ quân sự và người ta củng không hiểu là Marty muốn chỉ định đến một người nào ; nhưng trong các trường hợp, Marty đả không muốn làm cái việc '' bẩn thiểu '' này và muốn để ở một nơi khác, một người khác thay thế làm các việc này, nhưng sẽ không vì vậy làm giãm bớt các trách nhiệm về tinh thần và luân lý của Marty.
Một cuốn phim sản xuất vào tháng 11 năm 1937, đả diển tả lại cảnh một cuộc hành quyết của Erich Frommelt, chiến sĩ của tiểu đoàn '' Thaelmann '', thuộc về trung đoàn 12 đả bị tuyên án tử hình vào hồi 23 giờ 15 và bị hành quyết vào ngày hôm sau vào lúc 16 giờ 45. Nhưng chính thức, Frommelt đả tử trận trong trận đánh ở Téruel. Một việc giấu diếm như vậy khiến người ta phải đặt câu hỏi về loại các người đào ngũ. Chiến sĩ trung đoàn tên Roger Codou người Pháp, đả có dịp tham khảo các hồ sơ ở trong nhà tù của các chiến sĩ các trung đoàn, đả nhận thấy xảy ra nhiều vụ chết đuối và theo sự suy tư của Codou đả che dấu các vụ hành quyết đơn giản. Hai khám đường được dành riêng cho các chiến sĩ của những trung đoàn: Một ở trong ở khu Harta ở Barcelone với 165 người bị giam vào năm 1937 và một ở Castellon de la Plana. Rất khó mà biết được con số của các chiến sĩ trong các trung đoàn đả bị thủ tiêu. Julian Gorkin đả tố cáo Anfré Marty là người chịu trách nhiệm và chỉ riêng y mà thôi về việc thủ tiêu lối 500 người vì tội vô kỹ luật hay là bị nghi ngờ là lợi dụng thời cơ.
Từ Glasgow thuộc nước Anh, Robert Martin đả nhận thấy ở Albacete thường xảy ra các cuộc bắt giam. Chính Martin cũng bị bắt giam với 70 chiến sĩ, trong số này có nhiều người bị thương tích. Việc giam cầm ở đây đả diển ra rất là khốn khổ, đả khiến các người bị giam cầm đả tuyệt thực để phản đối. Mặc dầu đả có tin là họ sẽ được trả lại tự do, các người được phân ra thành các nhóm nhỏ và đưa đi Barcelone. Robert Martin và các người bạn tù được đưa về Hôtel Falcon, trụ sở củ của đảng POUM đả được biến đổi thành nhà tù, và sau được đưa sang Calle Corsiga, nơi đây họ đả được chụp hình và lấy dấu tay. Một phép lạ đả giúp Georges Martin vượt ngục được và anh đả chạy trốn sang nước Pháp, và từ đó trở về sau anh không được biết gì cả về số phận các người '' Bạn tù '' của anh.
Anh Max Reventlow đả thuật lại là trong lúc lui quân liên tục, các toán quân cộng-hòa đả đem theo lối 600 người tù, khi phòng tuyến án ngữ của họ đả bị quân của tướng Franco  xuyên thủng ở nhiều nơi. Các toán quân cộng hòa lui quân về hướng biển Méditerranée, các toán quân của trung đoàn quốc tế củng rút về vùng Catalogne. Về đến nơi sau này số 600 người tù đả bị giam ở Horta và Castellón, hai nhà tù dưới sự quản đốc của Copic người Croate, và khi số người này vừa đến nơi đả bị xữ bắn hết 16 người. Ở trong các nhà tù, các ủy ban đả tuyên án tử hình mà không có công lý hay một can thiệp nào: Sau khi xảy ra cuộc vượt ngục của 50 người tù, các ủy ban này đả ra lịnh xữ bắn 50 người tù khác. Việc tra tấn các tù nhơn xảy ra thường xuyên ; trung úy người Đức Hans Rudolph đả bị tra tấn liên tục trong sáu ngày: tay và chân đều bị gảy, các móng tay đều bị nhổ hết và đả bị hành quyết ngày 14 tháng 6 năm 1938 với 6 người tù khác bằng cách bị bắn đằng sau đầu một viên đạn. Về sau tên Copic bị đüa ra xữ trước tòa án, vì bị tố cáo là làm gián điệp, hắn được em của hắn là đại tá Vladimir Copic, của de Luigi Longo Marty can thiệp nên được tha bổng.
Vì đả giết một tên lính SS của quân lực Đức, anh Hans Beimler một vị dân biểu Đức người cộng-sản đả bị giam vào trại Dachau và anh đả vượt thoát khỏi trại giam này và đi sang Espagne để tham gia cuộc nội chiến ở đây và tham dự vào việc tổ chức tiểu đoàn '' Thaelmann ''. Anh đả tử trận ở Palacete ngày 1 tháng 12 năm 1936. Gustav Regler đả quả quyết là Beimler đả bị chết bởi một viên đạn của quân Franco. Người bạn gái của anh Antonia Stern đả nói ngược lại: Beimler đả phê bình và chỉ trích các vụ xử án lớn ở Moscou do Staline đả ra lịnh và thêm nửa là anh đả liên lạc lại được với các người đảng viên cộng-sản KPD là Ruth Fisher, hai người này đang hoạt động với một nhóm người chống đối ở Paris. Cô Antonia Stern đả bị '' tước đoạt '' tất cả các tài liệu riêng và giấy tờ của cô và bị trục xuất ra khỏi nước Espagne. Căn cứ trên bản phúc trình của Servicio Secreto Intelligente, một ban đặc biệt của công an vùng Catalogne, ban này có các người '' điềm chỉ ''riêng trong hàng ngủ cộng-sản, ông Pierre Broué trong quyển sách viết chung với Julian Gorkin thiên về ý nghỉ đó là một cuôbc ám sát. Các trung đoàn quốc tế đả quy tụ một số đông chiến sĩ nam và nử trong hàng ngũ của họ. Các người chiến sĩ này với lý tưởng liên kết với nhau và quảng đại và họ đả sẳn sàng để tự hy sinh tính mạng của họ. Một lần nửa, Staline và các tổ chức của ông đả khai thác vô liêm sĩ tấm lòng cao cả của các người chiến sĩ này và sau cùng đả bỏ rơi các chiến sĩ của trung đoàn quốc tế mặc cho số phận buồn thãm của họ và luôn cả nước Espagne: Staline bắt đầu cuộc chuẩn bị để '' lại gần '' Hitler.
Cuộc đi đày xứ xa và cái chết ở '' tổ quốc vô sản ''
Sau cuộc bại trận của chính phủ cộng-hòa Espagne, Togliatti đả tổ chức ở Paris vào tháng 3 năm 1939 một ủy ban để tuyển lựa các người dân Espagne được phép đi sang di trú ở tổ quốc các người vô sản. Và sau đây El Campesino đả mô tả ở trong các điều kiện nói về chuyến đi của ông qua lãnh thổ URSS. Ngày 14 tháng 5 năm 1939, từ bến Havre ông đả lên tàu Sibéria cùng với 350 gồm có các thành viên của văn phòng chính trị và của ủy ban trung ương của đảng cộng-sản PCE, các vị dân biểu cộng-sản, các vị chỉ huy trung đoàn 5 và lối 30 vị chỉ huy của các trung đoàn quốc tế. El Campesino đả dự kiến việc tái tổ chức lại ủy ban trung ương đảng cộng sản PCE dưới sự che chở của các nhơn viên của cơ quan NKVD. Tân ủy ban này có nhiệm vụ kiễm soát số người là 3 961 người tị nạn dân Espagne và được chia ra là 18 nhóm, được phân chia đi đînh cư ở nhiều thành phố khác nhau. Trong lúc sống ở xứ lạ, ủy ban này có nhiệm vụ '' gián điệp kiểm soát '' và tố cáo các đòng bào, các đòng chí của mình như trường hợp viên cựu thơ ký đảng PCE ở Jaén đả tố cáo để bắt giam nửa số các người dân Espagne di cư sang sinh sống ở tỉnh Kharkov, hay là tên Cortina đả tố cáo để đưa đi lưu đày ở Sibéria nhiều phế nhơn. El Campesino bị đuổi ra khỏi viện đại học quân sự Frounzé vì bị tố cáo là có khuynh hướng '' trốt-kít '' và đả phải đi làm công nhơn sở xe điện dưới đất ở Moscou. Về sau ông bị đày đi Ouzbékistan, rồi sau đưa sang Sibérie cho đến năm 1948 ông đả trốn thoát được qua Iran.
Ngày 19 tháng 3 năm 1942, trong lúc vợ và con gái của ông đi vắng, ông José Diaz tổng thư ký đảng cộng-sản PCE, đả nhảy từ từng lầu thứ 4 qua cửa sổ để tự tử và đả chết. Ông El Campesino cùng các bạn của ông đều tin chắc đây là một cuộc ám sát. Trong thời gian trước khi qua đời, Diaz đả viết một quyển sách nói về các kinh nghiệm đấu tranh của cá nhơn ông, và ông tỏ vẽ đả bị lợi dụng và cũng đả gởi nhiều bức thư cho các nhà cầm quyền Tiflis, để phản đối cách hình phạt và đối xữ tệ với các trẻ em người Espagne ở trong các trại thiếu nhi ở vùng này.
Trong thời gian xảy ra nội chiến hàng ngàn thiếu nhi Espagne đả được đưa sang URSS. Các em này tuổi từ 5 cho đến 12 tuổi. Khi chế độ cộng-hòa đả thua trận chiến, thì ở bên URSS nếp sống vật chất của các em liền thay đổi. Đến năm 1939, các vị giáo viên người Espagne cùng với các em, đả bị tố cáo là có tư tưởng '' trốt-kít '' và 60 % các vị giáo viên này đả bị bắt giam tại nhà giam Lioubanka ở Moscou. Còn các vị giáo viên khác thì bị đưa đi lao động ở các công xưỡng, El Campesino đả tiết lộ sự kiện này. Một nử giáo viên đả bị tra tấn suốt 20 tháng liền và sau thì bị xữ bắn. Số phận của các thiếu nhi trở nên khốn khổ  và các giáo viên người Nga sô-viết thay thế các người Espagne. Ở Kalouga, vì không tôn trọng kỹ luật, các trẻ em dưới sự kiễm soát toàn quyền của tên Juan Modesto, một vị tướng đả phục vụ ở trung đoàn 5, và của tên Lister. Vào năm 1941, theo sự tiết lộ của Jésus Hernandez, 50% các trẻ em đả mắc bệnh ho lao, và 750 trẻ em ( tức là lối 15% ) đả chết trong lúc di tản vì quân đội Đức-quốc-xã xâm lăng đả tiến tới quá gần. Các trẻ em đả được đưa về vùng Oural và vùng trung Sibérie ở Kokand. Cắc trẻ em này đả họp thành đoàn để đi ăn cắp, còn các em gái thì làm mãi dâm. Có nhiều em đả tự sát. Củng do sự tiết lộ của Jésus Hernandez, trong số 5000 thiếu nhi thì 2000 đả chết. Đến năm 1947, kỹ niệm 10 năm các thiếu nhi này đến đất Nga. Một cuộc lễ đả được tổ chức ở rạp hát Stanilavski ở Moscou và có 2000 thiếu nhi Espagne tham dự ; sau đó 534 em được đưa trả về Espagne vào tháng 9 năm 1956. Cuối cùng chỉ còn 1500 em được trả về Espagne. Nhiều người Espagne khác đả nếm mùi '' sinh sống và chết '' ở trên đất URSS. Đó là các người lính hải quân và không quân người Espagne, không phải là cộng-sản được gởi sang URSS, để thụ huấn kỹ thuật. Ông El Campesino đả được biết rõ về số phận của 218 người phi công trẻ tuổi được gởi đi huấn luyện vào năm 1938 ; theo một khóa học dài từ 6 đến 7 tháng ở Kirovabad. Cuối năm 1939, viên đại tá người Espagne tên Martinez Carton thành viên của văn phòng chính trị của đảng cộng-sản PCE và củng là nhơn viên của cơ quan NKVD đả họp các sinh viên phi công lại và bắt buộc họ phải lựa chọn: Ở lại đất URSS hay là đi ra nước ngoài. Những người nào lựa chọn đi ra nước ngoài liền bị gởi đi lao động trong các cơ xưởng. Đến ngày 1 tháng 9 năm 1939 tất cả các người này đều bị bắt giam và một cuộc tố tụng được bắt đầu cho họ. Có nhiều người đả bị tra tấn, có nhiều người khác đả bị hành quyết, phần lớn đều bị kêu án từ 10 đến 15 năm và giam ở các trại lao động. Một nhóm người được gởi đi Petchoraliev, chả còn có người nào sống sót. Và kết cuộc trong số 128 người phi công này chỉ còn có 6 người sống sót.
Vào năm 1947, chỉ có vài người Espagne đi tị nạn ở URSS đả thoát khỏi ra nước này. Những người còn ở lại được yêu cầu là phải ký giấy xin ở lại URSS. Vào tháng 4 năm 1948, José Ester ( tù bị đi đày vì chính trị, số tù là 64533 ở Mauthausen ) và José Domenech ( tù chính trị bị đưa đi đày ở Neuengamme số tù 40202 ) đả tổ chức một cuộc họp báo ở Paris, nhơn danh liên đoàn các người Espagne bị lưu đày, và các người bị quản thúc về chính trị Fédéración Espagnola de Déportados e Internados Politicos ) hầu để phổ biến công khai các tin tức về số phận của các người Espagne bị giam ở trại số 99 Kanraganda nằm ở tây-bắc vùng hồ Balkach thuộc Kazakhstan. Họ đả phổ biến một danh sách gồm có tên của 59 người bị đüa đi lưu đày, trong số này có tên của 24 người phi công và 33 người lính hải quân. Trong một bản tuyên ngôn ra ngày 1 tháng 3 năm 1948, hai người tù chính trị này đả tuyên bố lý do của cuộc vận động này: '' Đây là bổn phận khẩn thiết của chúng tôi, cho tất cả các ai đả phải chịu nạn đói và lạnh giá băng cùng với sự sầu nảo, tiêu điều dưới sự thống trị tra khảo của cơ quan Gestapo và của các tên lính SS. Và đây cũng chính là chức vụ của mọi người công dân, khi mà các câu tự do và nhân quyền của con người đả được các đạo luật ghi thành văn, phải đòi hỏi và bắt buộc, vì tình liên đới, phải giải phóng các người này vì họ đang bị sự '' chết chóc '' đang đe dọa họ nặng nề.
Sau đệ nhị thế chiến, các người cộng-sản và các tổ chức đặc biệt của họ vẫn tiếp tục việc thủ tiêu các người đối lập: Ông Joan Farré Gasso cựu lãnh tụ của đảng POUM ở Lézida, đả tham gia kháng chiến ở Pháp chống lại Đức-quốc-xã. Ông bị chế độ Vichy bắt giam ở Moissac và sau khi được trả tự do, ông muốn trở về một làng nhỏ nằm ở vùng Catalogne thuộc Pháp để thăm vợ ông. Trên đường đi Montauban ông đả bị các người kháng chiến cộng-sản Espagne chận bắt và đả đơn giản hạ sát ông. Việc ám sát này đả làm kéo dài cuộc nội chiến Espagne, và có thêm một hành động tai hại: Xữ dụng đến phương tiện ám sát và thủ tiêu, mà nạn nhơn là là hàng ngàn người chiến sĩ chống phát-xít, những người quyết liệt và can đãm. Trường hợp của nước Espagne đả chứng minh việc không thể có là tách rời các tổ chức tội ác, công an và của các người cộng-sản, mà mục tiêu của họ là đạt được những gì họ muốn về chính trị. Phải nhìn nhận sự thật là trong thời gian giửa hai cuộc thế chiến, bạo động vẫn thường xảy ra ở Espagne, và trận nội chiến đả cho phép các vụ bạo động '' tự do diển ra '', và lại còn được cộng thêm với sự hổ trợ của các người sô-viết. Họ đả đem thêm vào sức mạnh toàn bộ của một đảng-nhà nước đả thoát thai và trưởng thành bằng chiến tranh và bạo động, để đạt được các mục tiêu đả được quyết định về quyền lợi của URSS được che dấu dưới hình thức ''chống phát xít''.