Chương 3


Chương 2
Giọt nắng về trời

Chuyến máy bay đưa tôi trở về Huế đáp xuống phi trường Phú Bài đúng 12 giờ 30. Giờ Ngọ. Giờ này đúng là tuổi của đứa con trai tôi, và cũng là tuổi của người cha thân yêu, lúc này, đang nằm hấp hối trên giường bịnh.
Khi bước xuống sân bay, đứng chơ vơ đón những đám cát bụi do những chiếc quạt máy bay khác quạt tới, tôi cúi xuống nhìn chiếc bóng của mình ngắn ngủi nhú khỏi hai chân bằng một gang ngắn, lúc đó, hình như có một hình ảnh nào đó êm đềm vừa trôi qua trong tôi, lúc tôi kịp nhắm mắt để tránh những hạt cát đang quật vào mắt mũi. Một lời van xin đã bật ra trong đầu óc.
Tôi mở choàng mắt, những vạt nắng nấp sau những đám mây lam, thật thấp, chiếu xuống những tia vàng úa, buồn não. Cầu xin một sự yên lành. Ba ơi, chắc gì còn kịp. Chân tôi bước như muốn ríu lại, cuối cùng, tôi cũng qua hết chiếc sân rộng, vào dãy nhà đợi.
Buổi tối hôm trước, tôi đang còn ở thành phố Sài Gòn. Lâu lắm rồi tôi chưa về lại Huế. Nhiều dịp Tết trôi qua, lần nào cũng tự hứa sẽ trở về, nhưng những dịp tự hứa đó cũng bị những lười biếng, buông thả xoá mất hết. Lúc này thì không thể không trở về được. Tấm điện tín đến vào lúc 11 giờ đêm. Lúc đó tôi đang đưa ông Táo.
Tối 23 tháng chạp, không hiểu sao chỉ có lễ đưa ông Táo, tôi đã diện như đi một dạ hội. Áo dài đỏ chót, tóc tai chải đàng hoàng. Khi tôi mặc chiếc áo đỏ, người giúp việc đã buông một câu: Cúng ông Táo mà chị mặc cái áo đỏ chói. Tôi cười: Biết đâu sẽ hết dịp mặc. Lời nói của tôi linh ứng ngay lúc đó. Chỉ một phút sau, tôi nhận được điện tín từ Huế đánh vào. Về ngay, ba đang hấp hối. Đang hấp hối? Cái gì mà kỳ cục vậy. Lá thư ba tôi viết từ tuần trước còn rành rành nơi ngăn tủ. Con nhớ về ăn Tết, chúng con phải về, ba đã rời bệnh viện. Chúng tôi đã mua vé cho cả gia đình, sẽ về Huế vào ngày mồng Hai. Lâu lắm tôi mới trở lại Huế, và lần này, cả đoàn vợ chồng con cái lần đầu tiên trở về trình diện cái quê hương mà tôi vừa thương yêu vừa thù ghét. Không thể chờ đợi thêm được nữa. Em phải về trước, bằng mọi cách. Chồng tôi nói thế. Và sáng hôm sau, tôi đã theo một chuyến máy bay quân sự để trở về đây. Chiếc áo đỏ còn lung linh trong trí nhớ tôi như một nỗi kinh hoàng. Chiếc áo đỏ này cũng đã được xếp ngăn nắp cất kín.
Tôi theo một xe hơi đi đón người nhà lên thành phố. Không đủ sức chờ đợi chuyến xe đưa hành khách được nữa. Tôi muốn tức khắc có mặt ở nhà lúc này. May ra còn kịp, nhất định phải kịp. Ba không thể đi một chuyến đi dài mà không nhìn kịp mặt con. Phải thế.
Mấy năm rồi, tôi không trở về, những lá thư ba viết thật dài và những lá thư trả lời ngắn ngủi không đủ để nói gì hết. Lời nói thú tội của tôi đang còn chờ một dịp. Lần này, cầu mong cho con về kịp, và con sẽ nói, nói hết với ba. Không, tôi cũng chả cần phải nói gì, ba tôi cũng đã hiểu hết. Những ngày bỏ Huế dài bằng những lỗi lầm của tôi mà gia đình gánh chịu. Chiếc xe chạy qua những thửa ruộng nhỏ, phía xa là những rặng núi dài, con đường tráng nhựa ngày xưa nay đã cũ và đầy những ổ gà. Cảnh vật không có gì thay đổi hết.
Tôi tựa vào thành xe nghe tiếng tim mình đập rộn rã, tiếng rộn rã của một nỗi mừng cùng một nỗi khắc khoải chờ đợi. Bầu trời xám xịt, những ánh nắng vàng quái đồng tình với tôi về một nỗi quạnh hiu và những đám mây buồn như muốn chảy nước. Tôi lờ mờ hình dung hình ảnh ba tôi với nhiều khuôn mặt, nhưng hình ảnh nào cũng vội biến đi rất nhanh để nhường lại cho một đôi mắt đã hết tinh thần đang cố bám những làn hơi chờ đợi.
Xe qua một vài xóm nhỏ tới một thửa ruộng, cảnh vật không có gì đổi thay nhưng tôi không còn nhớ gì hết. Khi xe qua một con cầu, tôi mới thảng thốt rối rít xin dừng lại. An Cựu ở phía đằng sau lưng mất rồi. Tôi gọi chiếc xích lô và đi ngược trở lại. Tôi ôm mớ hành lý lên lòng, hành lý chả có gì cho một chuyến đi xa, tất cả được gói gọn bỏ trong cái túi nhỏ. Tối hôm trước, khi hay tin, tôi đã cầm tấm điện tín, ngồi trong màn mà khóc. Tất cả cái gói nhỏ này do chồng tôi xếp cho. Em cứ về, mồng Hai anh sẽ ra và đến sau. Anh sẽ cố gắng thu xếp công việc, đổi vé sớm hơn.
Cho tới lúc này, tôi vẫn không tin tưởng gì về sự có thể đổi vé được. Xe đi qua một đồn lính đến một ngã ba, rồi chạy thẳng xuống theo con lộ số 1. Tôi đưa tay ra dấu, xe chạy vào một con ngõ được chắn lại bằng một cánh cửa sắt khép hờ. Tôi nhảy lên từ trên xích lô xuống chạy một mạch từ ngõ qua khoảng sân và đứng sững lại giữa nhà. Nhiều tiếng gọi tên tôi cùng bật ra một lúc. Đứa em gái của tôi chạy ra sân, người phu xe đang tần ngần đợi ở đó.
Cả nhà đang ngồi quanh mâm cơm, nhưng chả ai ăn được miếng nào, tôi ngửi, thấy mùi canh cải cúc quen thuộc, vì một làn hơi mỏng bay lên từ tô canh, bên những chén cơm để nguội ngắt. Mẹ tôi đứng dậy trước tiên, hai tay bà đưa ra đằng trước. Nỗi mừng vừa chiếu một tia sáng nhỏ ở đôi mắt đã che khuất bởi làn lệ mỏng: Con ơi, ba con đợi con về kia, ba con nằm ở trong phòng kia. Nhiều tiếng khóc nổi lên. Cái túi nhỏ nơi tay tôi bỗng rơi xuống đất. Tôi khoát tấm màn nhỏ thay cánh cửa ngăn phòng, bước vào. Chân tôi cơ hồ muốn lướt trên mặt đất.
Tất cả những hình ảnh tôi tưởng tượng về ba tôi đã hoàn toàn sai lệch. Ba tôi bây giờ chỉ còn như bộ xương người. Khuôn mặt choắt lại, hai gò má nhô cao, hai mắt nửa khép nửa mở. Cả khuôn mặt đó cùng mớ tóc chưa kịp bạc hết, chải lật đằng sau được đặt trên chiếc gối cao. Nếu không còn nghe được tiếng thở nhẹ, đôi khi khò khè, tôi không thể tin ba tôi còn đang ở giữa lưng chừng sự sống và sự chết. Sự có mặt của tôi càng làm cho gia đình tôi mủi lòng, xung quanh tôi đầy cả tiếng khóc.
Tôi đứng sững một g lắng nghe tiếng cỏ đang cựa mình mọc lên trong đất đai câm nín của Huế, thay tôi góp hết sức sống còn lại của chúng ta vào Huế cho một mùa phục sinh mới Huế của chúng ta, của những người đã chết vùi chết dập và những người còn sống sót, thế nào rồi cũng phải phục sinh, phải thức dậy.
Làm thế nào được, phải không Ki? Sức sống của nhân loại vẫn mãnh liệt lắm. Như tôi đã mạnh mẽ vươn lên khỏi tuổi thơ ấu, bỏ Ki lại chơ vơ với những kỷ niệm của thành phố. Sức sống của Huế cũng vậy, Ki còn nhớ không? Ngày tôi sắp xa rời Ki, chúng ta đã cùng chụp chung một tấm hình với các bạn. Bức hình ba đứa với Kim Hường, Tâm Tuý, khuôn mặt Ki ở giữa. Người ta nói chụp hình ba đứa xui lắm. Thật rứa Ki ạ. Đã quá lâu rồi, ba đứa trong tấm hình ngày nào không còn dịp gặp nhau lại, nhưng Ki biết sao không, bữa kia, tôi đã vừa nghe người ta báo tin Tâm Tuý không còn nữa.
Theo lời kể lại, hồi Tết Mậu Thân vừa rồi, Tuý sửa soạn về bên chồng. Trước tết, Tuý cắt tóc ngắn, đánh móng tay, rạo rực với bao nhiêu dự định. Sáng mồng Một Tết, Tuý còn mặc áo đẹp, nhởn nhơ mừng năm mới. Nhưng chỉ hôm sau, sáng mùng Hai Tết, Tuý đã bị bắt, rồi bị chôn trong khu vườn ngay khi hoa mai còn đang nở.
Sau này, khi những người thân sống sót trở về đào xác Tuý lên, Ki tưởng tượng được không, dù bị vùi xuống không hòm không chiếu, thể xác Tuý không những vẫn nguyên vẹn, mà mái tóc Tuý, móng chân móng tay của Tuý còn mọc dài hơn ra. Ki ơi, có thể thật rứa không Ki. Mà thật rứa, thì mần răng giải thích, ngoài điều tôi đã nói với Ki: sức sống của con người vốn mãnh liệt lắm.
Phải chăng, khi bị vùi xuống đất giữa lúc còn rạo rực sống, dù tim đã ngừng đập, ngực đã ngừng thở, giữa lòng đất đen lạnh, cô bạn nhỏ của chúng ta, Tâm Tuý, vẫn còn cố gắng trải thêm chút sức sống mà cái chết hối hả không kịp dập tắt, để thể xác còn tiếp tục nở thêm.
Mi Ki thân mến,
Ki thấy đó, như Tâm Tuý, như bao nhiêu người khác, Huế của chúng ta, dù bị vùi dập và tàn phá, vẫn nhất định hồi sinh, nhất định thức dậy, như cỏ nhất định phải mọc trên mặt đất.
Hãy chịu đựng nhé, Huế. Nhưng đừng quên chờ đợi, hy vọng. Giữa những xương trắng vừa được bới đào lên, giữa những đám tang tập thể, giữa đêm tối chưa ngớt kinh hoàng vì những trận đánh lớn quanh quẩn đe doạ, Ki nghe thấy không, lời hứa phục sinh của Huế vẫn nhất định chưa tắt, Ki tin tôi đi, trong lòng tôi, ngay lúc còn đi giữa máu me đổ nát của Huế vẫn còn giữ được nguyên biết bao kỷ niệm mà ngày nào, đôi chân ngắn ngủi của chúng ta đã từng bước tới.
Dù sao Ki ơi, những buổi chiều gió nổi trên mặt sông Hương gợn sóng bạc, những buổi sáng mùa hạ rực rỡ trong Thành Nội, những ngày mưa mù mịt hàng cây sầu đông sau trường Đồng Khánh, hay những cơn giông thịnh nộ, cũng vẫn còn trở lại.
Tôi xin gửi về Ki, về Huế, tập truyện nhỏ này, như những tình ca được viết riêng cho Huế và quê hương đổ nát.
Mong rằng những tình ca vụn vặt, đầy nước mắt ấy, sẽ góp thêm phần nào vào việc lay gọi Huế thức giấc, để những tình ca khác sẽ tiếp tục, thơ mộng hơn, tươi sáng hơn.
Mi Ki ơi,
Ki đã làm tôi cảm động quá. Sống mãi giùm tôi với Huế nhé, Ki nhé.
Sài Gòn, 4.1969

Truyện Chương 3 Chương I Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 ng ba tôi cử động. Đôi mắt của ba tôi, trời ơi, hình như gió đang run nhẹ những ngọn lá ngoài vườn, giọt nắng từ cuối giường cũng vừa giọt lên, nhảy nhót cùng với tia mắt mừng vui, và tất cả sự lung linh bày tỏ tột cùng nỗi mừng rỡ đó chiếu ngời những sinh lực. Ba tôi sống lại rồi. Ba, ba. Nhưng giọt nắng bỗng chìm đi, rồi hai cánh tay ba tôi, hai cánh tay đã chết từ đầu hôm bỗng từ từ giơ lên, cố gắng, cố gắng một chút nữa. Một cánh tay chụp lấy vai tôi, còn một tay kia, chạm nhẹ vào khuỷu tay tôi rồi lưng chừng ở đó. Không một tiếng nấc nhỏ, đôi tròng mắt ba tôi đứng sững. Thôi rồi, chú tôi đang làm gì vậy, mẹ tôi đang làm gì vậy? Bàn tay bà đưa lên vuốt mắt ba tôi, hai con mắt vừa long lanh báo tin mừng vui kia đã khép lại, bình yên trong giấc ngủ muôn đời. Hai cánh tay ba tôi cũng được chú tôi gỡ xuống, vuốt nhẹ ngay ngắn. Thế là hết. Tôi đưa tay lên ngực ba tôi, nơi ngực ba tôi còn nóng hổi.
Ba tôi vừa mới đưa tay lên ôm tôi, vậy mà ba ơi, ba ngủ sao tài tình đến như vậy? Thôi con mất ba thật rồi, ba nằm đó mà con biết con mất ba. Nhưng ba, ba còn kịp gặp mặt con, rồi con còn kịp chứng kiến giây phút giữa sự sống chết, và ba ơi, ba kịp nhìn ra khuôn mặt đứa con hư. Trong sự đau đớn đến lịm người, tôi còn đủ chỗ để sung sướng một cách ngu xuẩn.
Ai cũng được dịp khóc thả cửa. Vệt nắng trên người ba tôi cũng đã tắt tự bao giờ.
Giọt nắng đã về trời, ba ơi, linh hồn ba đang nương theo giọt nắng.
Không, tôi phải bật khóc, phải lăn lộn như mọi người kia. Tiếng khóc nào làm đầu tôi tê nhức đến như thế? Giọt nắng nào làm tôi gửi hồn bay bổng mơ màng? Tấm vải đỏ phủ lên khuôn mặt của ba tôi, và giữa bao nhiêu tiếng động đó, mùi trầm hương đã xông lên thơm ngát. Một chén cơm, một quả trứng, một bát nhang. Ba tôi đó ư? Sức sống vừa cựa quậy trong người ba tôi, nơi hơi thở mong manh của ba tôi, biến mất từ lúc nào thật tài tình. Ba tôi đã chết, chết thực rồi, tôi còn mơ mộng làm chi nữa. Hãy gắng một chút nữa đi, những tiếng binh binh đang gõ nhẹ trong đầu óc. Gắng hơn một chút nữa đi, tôi đang lo buồn hay đang trống rỗng vì bụng đói. Thôi đừng khó chịu vì những tiếng kêu la nữa. Hãy đấm tay xuống bàn, đấm mạnh vào tường, đấm cho dội ngược cho biết đau đớn.
Ba mày chết đó kia. Mày có thương xót gì không? Đã thấy thương xót gì chưa? Oà khóc ra chứ? Tôi đứng dựa vào tường, thảng thốt nhìn những người khác khóc, tôi muốn được tham dự hay muốn được cười khan một tiếng. Phật ơi, Chúa ơi, lúc này sao ông cũng dửng dưng vậy. Cho con được bình tĩnh, cho con được dựa vào chút tỉnh táo của ông với.
Một cánh cửa sổ đã được gió khép lại tự bao giờ. Ngoài vườn, những lá cây đã rũ xuống, những vệt nắng mỏng manh cũng biến mất. Giữa chiếc sân rộng cây mai trổ hoa sớm vàng rực. Vài tiếng pháo đã nổ lẻ tẻ.
Tôi nhìn đồng hồ: 4 giờ 15 phút. Trừ đi 10 phút khóc là ba tôi chết lúc 4 giờ 5 phút. Đã quá giờ xấu. Chú tôi vừa khóc vừa nói với một người hàng xóm tới thăm.
Chiều 24, tháng Chạp đã mang về một trời đầy mây dày, báo hiệu cho những cơn mưa sầu thảm cuối năm, linh hồn của ba tôi đã nương theo giọt nắng về trời cùng một lúc. Giữa tiếng khóc kể như ri, tôi dở tấm khăn điều phủ mặt, cúi hôn lên vầng trán lạnh ngắt của ba tôi, và giơ tay lên chùi nhanh giọt lệ đang muốn nhỏ xuống khuôn mặt đã bất tỉnh từ làn da tới sợi tóc. Ba tôi đã dứt hết mọi phiền luỵ.
°
Để tôi nhớ những gì tôi đã làm trong những ngày buồn thảm đó. Tôi đã làm gì? Tôi đã khóc như thế nào, đau đớn rã rời như thế nào? Không biết bao nhiêu chi tiết vụn vặt, bao nhiêu lần rơi lệ, bao nhiêu lần mủi lòng, tất cả đều được tôi đón nhận bằng khối óc trơn lì như một cơn mê bởi sự đồng thiếp. Cơn đồng đã nhập vào cơn mê. Tôi được đưa đẩy bằng những công việc ma chay và tôi sợ nhất là một phút nào đó, cơn đồng thiếp vụt rời ra khỏi tâm thức mình, tôi trở lại những đau đớn bắt đầu cho tới khi được hôn mê trở lại là một khoảng thời gian xa cách đầy kinh khủng.
Huế ơi, tha thứ cho lần trở về này. Đôi mắt của tôi đã trông nhìn thấy Huế, đã che lấp bởi giải khăn tang. Thành phố Huế đối với tôi đã là một sự thao thức kinh khủng, bao nhiêu lần mơ ước được trở về để ba dẫn đi ăn một tô bún bò, để cùng với ba ngồi trên một chuyến đò ngang qua sông Hương, để nhìn mái tóc bạc của ba lất phất bay trong gió, để cùng soi hai mái tóc xuống mặt nước sông Hương và hưởng sự sung sướng tuyệt diệu của niềm im lặng được tha thứ. Ba ơi, ba ơi.
Làm thế nào để có một phút đó nữa, làm thế nào để còn ước mơ được nữa. Ba ơi, làm sao để con được trông thấy ba với một bản đàn cổ nhạc, với chiếc đàn bầu, trông thấy ba cặm cụi bên những khóm hoa, bên chuồng gà, nơi mái hiên, nơi con dốc Nam Giao ba đi xe đạp, xe Honda xuống, ba đi ra đi vô nơi chiếc sân rộng ở sân Công Chánh, ba giảng cho nghe một bài Nam Ai, Nam Bình, ba ngồi cầm cây đàn ghi-ta, đàn một bài tân nhạc. Làm sao còn dám nhìn những con đường ba đã đi xe đạp, xe Honda, nhìn con sông ba vẫn dắt con qua những chuyến đò.
Không, tôi chỉ nhìn thấy Huế như một thứ bội bạc. Tại sao Huế lại đốt pháo, lại ăn mừng, lại vui, lại tĩnh tâm được trước sự đớn đau của tôi. Những người Huế đó họ đang đến đầy sân, chật nhà. Tôi thấy họ cười hỏi đầu đường, họ rầu rĩ khi vào đến sân, họ âm thầm khi đứng trước quan tài. Tôi cầu cứu đám đông luôn luôn chật nhà ban ngày và buồn đến chín người khi ngồi một mình nhìn những ngọn đèn cầy lung linh. Tôi nằm sấp dưới sàn nhà, nhìn cái tim đèn dầu phụng le lói dưới quan tài. Tôi thổn thức gọi ba ơi, gọi ba rồi Huế ơi. Chiếc quan tài màu lam, in những hoa sen trắng. Lúc chết ba tôi mặc bộ quần áo màu vải lam, đội mũ vải lam và khuôn mặt ba tôi, cũng cứng lạnh như chì, ba tôi về với đất thật rồi.
Đám tang ba tôi đưa khỏi nhà vào sáng 28 Tết. Năm cùng tháng tận rồi, phần người sống vẫn phải rình rang. Tôi vướng víu trong bộ quần áo tang và mũ mấn che kín tóc tai, mặt mũi. Tôi đi sát đằng sau quan tài, một tay níu lấy mép áo quan phải mủi lòng theo những lời kể lể, phải lúc nào cũng nước mắt dầm dề như người ta nói về chữ hiếu, tôi khổ sở bực bội và muốn phát điên trong sự bó mình đó.
Người anh cả đã về kịp, áo thụng, gậy tre, làm mọi cử chỉ như máy theo sự sai bảo của mọi người. Tôi muốn được làm đàn ông như anh, không khóc lóc, không kể lể gì hết. Ba ơi, ba đi cho vui vẻ, ba đi cho bình yên. Khi con lên máy bay người ta nói: Thượng lộ bình yên. Thượng lộ bình yên nghe ba. Khi con đi xa, ai cũng chúc con may mắn, ai cũng nhìn con với ánh mắt trìu mến. Con cũng chúc ba: May mắn nghe ba. Đáng lẽ ra đoạn đường đưa ba phải về nơi quê hương của ba. Quê hương của ba ở ngoài Thanh Hoá, con chưa biết gì hết, ba ơi. Ba chết rồi ai đưa con về quê hương của ba.
Thôi thời thế giặc giã, ba nằm ở quê hương của chúng con vậy nghe ba. Đám tang ba, khi lên ngọn núi, đường dốc quá, và nhiều tiếng khóc quá, con mê người đi rồi, một phần vì bị đồng thiếp, một phần vì bị mệt mỏi. Nhưng con cũng còn đủ sức để ước rằng, giá con được đứng ngoài, nhìn người ta đưa đám ba, bàn luận với ba về đám ma, chắc ba vui lòng hơn, phải không ba?
Tôi cố kìm lại những giọng thì thầm lảm nhảm. Đi cho yên, dừng bước mau. Đáy huyệt sẽ hiện ra một lát nữa thôi. Đi chầm chậm bớ anh em hậu thập, tiền ngang. Dô ta, nghe đây anh em, chậm bước, sang bên trái đi thẳng.
Hồn ma yên chủ thương. Đồ con khỉ, cho thêm dăm ba trăm một ngàn. Tao cấm gọi cái kiểu đó. Tôi giận dữ muốn hét lớn chửi vào mặt tên đầu đám. Má tôi đã ra giá một tiền thưởng. Mấy cái mặt rạng rỡ hẳn lên. Những ngọn nến trắng trên quan tài chập chờn. Tôi nhìn lên chóp núi, những đám mây lam gợi hình ảnh ba tôi, nằm yên lặng trong phòng mắt nhắm, một ngọn nến một bát hương một chén cơm đặt phía trên đầu. Rồi một đám tang khác của ba tôi cử hành ngoài hư vô, những miếng giấy vàng bay bay như từ chân mây rớt xuống.
Lúc đứng lưng chừng ngọn núi Tam Thái, tôi hất mũ mấn lên, nhìn xuống thành phố Huế, tôi không nhìn thấy gì nhiều ngoài những mái ngói cũ kỹ, ẩn hiện trong những ngôi vườn um tùm cây xanh. Nhưng tôi cũng tưởng tượng sau những vườn cây kia con đường thẳng trước trường Quốc Học và Đồng Khánh, trước mặt nó là sông Hương, và qua bên kia sông là Phú Văn Lâu, là cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Huế ngàn năm không thay đổi. Tôi cũng nhìn thấy xung quanh tôi, những người đưa đám có người mang áo trắng, tóc thề, những cô bạn gái của em tôi, những bà con thân thuộc. Quen thì có quen, nhưng tôi không nhích nổi môi để tỏ cử chỉ chào hỏi, làm quen được.
Những vàng hương được đốt lên, những ánh lửa lăn theo tàn giấy xuống chân núi, vướng trên bụi cây, những mồ mả. Mộ ba tôi chôn tít trên cao, nằm riêng rẽ. Ba ơi, ba không thích đám đông, khi ba sống, ba thích được một mình. Chúng con chọn cho ba một nơi yên tĩnh, ở đây, ba có thể nhìn xuống vườn nhà, nơi những đọt dừa xanh cao nhất vươn lên đó.
Áo quan được đặt xuống huyệt, hai đầu đứt đã được bút rút lên. Xung quanh tôi sao nhiều tiếng khóc thế. Cho ba tôi bình yên. Đừng khóc, đừng khóc.
Nhưng chính tôi vừa kêu lên một tiếng thảm thiết quá chừng, tôi khóc lúc nào vậy? Anh tôi rũ xuống như một người bị rút hết xương sống. Những nắm đất ném lên tới tấp. Những người phu đám nhảy xuống huyệt đứng lên quan tài, những tiếng gõ như xé rách tim tôi cùng với tiếng hát nện mồ: Ngày nào nói nói cười cười… Ới khoan, khoan hỡi hò khoan… Bây giờ đã trở thành người hư vô… Ngày nào… Khoan hỡi hò khoan, hết khoan là đến hụi. Ngày nào gác tía lầu son, bây giờ một đống xương tàn thảm chưa… Ngày nào ngày nào… Khoan hỡi khoan. Ngày nào tiếng khóc trong nôi, ngày nào tiếng nói tiếng cười lớn khôn, ngày nào điện ngọc lầu vàng… Dại khôn cũng nắm xương tàn lúc ni… Ối ông ơi… Khoan hỡi hò khoan, ới khoan, ngày nào, ngày nào…
Ngày nào ba ơi. Tôi có là gỗ đá mới không khóc ròng vì những lời bộc trực một cách tàn ác thê lương của đám phu mộ. Xương sống tôi đã gãy, tôi cũng rũ người xuống bên cạnh đống đất chưa vun. Ba ơi, tôi muốn kêu to cho tiếng lọt xuống mồ đất sâu nhưng tiếng kêu của tôi không bao giờ còn lọt ra khỏi miệng nữa, bởi tôi biết ba tôi đã chết.
Tội nghiệp cho gia đình tôi, khi đã khóc lóc đến lả người ở phần mộ trở về nhà, ai nấy bỗng im lìm như tượng đá. Má tôi nằm nơi chiếc giường mà trước đây ba tôi đã nằm. Bà úp mặt vào tường không còn lệ để khóc. Tôi cũng buồn chán không muốn ra khỏi nhà, việc nhìn lại Huế, sống lại với một vài kỷ niệm của tôi lúc này cũng trở thành vô nghĩa. Nhưng đến ngày 29 Tết, tôi chợt nhớ đến Nga, cô bạn gái đã lâu không gặp. Tôi đi bằng một chuyến xe buýt qua phố Trần Hưng Đạo gặp Nga, không tiện đi long dong với nhau ở phố, chúng tôi đứng ở cửa hàng nói chuyện. Nga không biết gì tới việc ba tôi mất. Mày nói gì kỳ vậy, mấy tuần trước bác còn qua đây biểu Nga chọn len cho bác mà. Tôi nói với Nga như thế còn lâu, nhìn thấy phút trước, phút sau chết lúc này đầy khắp mọi nơi. Nga nói ở đâu chứ Huế thì yên lắm. Nga không tin có gì xảy ra làm thay đổi Huế được, Nga hỏi thăm về đám tang ba tôi và hẹn chiều sẽ sang. Chiều 29 là ngày cuối năm. Buổi chiều Nga sang thật. Khi hai đứa mở cái ví cũ đặt nơi bàn thờ ba tôi, cả hai đều nhìn nhau và cùng ứa nước mắt khi nhìn cái ảnh cũ chụp chung hai đứa còn bé ở ví ba tôi. Chiếc ảnh đã cũ, ngày hai đứa còn đi học.
Tôi cũng thấy ở một ngăn khác, chiếc ảnh của tôi ngày còn bé tóc cúp ngắn, đeo kiềng vàng. Chắc đó là hình ảnh về tôi mà ba tôi quý nhất. Sau đó hai đứa đi bộ ra phía cầu, rồi leo lên một chuyến xe buýt sang phố Trần Hưng Đạo. Huế chỉ có con đường này là phố chính, đi dọc phố Trần Hưng Đạo ngược lên là Phú Văn Lâu rồi đến cầu Bạch Hổ. Tôi cũng chưa nhìn được Huế gì ngoài một vài con đường xe buýt An Cựu - Đông Ba đi qua và cầu Tràng Tiền, đài phát thanh Huế. Nhưng tôi vẫn nhớ như in từng hình ảnh khác của Huế, dù tôi không nhìn thấy, nhưng hình ảnh vẫn đứng ở vị trí cũ, tôi đã thuộc như in vào đầu. Huế của tuổi thơ ấu và Huế bây giờ chắc chắn không có gì thay đổi hết. Lúc đứng với Nga ở cửa hàng, tôi nhìn thấy những áo trắng, những mái tóc thề. Những thứ đó tôi đã từng thấy ở khắp các vùng tôi đến, nhưng ở đâu tôi cũng thấy hình ảnh đó kệch cỡm, lố bịch. Tôi chỉ thấy đẹp khi những hình ảnh đó xuất hiện tại Huế, trên những dáng dấp của những đôi mắt mang màu mây nước sông Hương và dáng gầy tha thướt. Chợ Đông Ba chiều Ba mươi Tết vẫn đông, năm nay không có ngày 30, người ta lấy ngày 29 Tết làm buổi chợ chiều 30, cảnh tấp nập, cổ kính, trầm tĩnh như mọi năm về trước. Tôi nghĩ sau một vài xáo động, Huế vẫn không bao giờ có thể thay đổi được. Nga kể cho tôi nghe một vài mẩu chuyện về Huế, vài sinh hoạt tuổi trẻ. Tôi hỏi Nga về phần các cô thì sao? Nga nói chả có gì thay đổi đâu, có vài cô đi Sài Gòn mang những mini jupe, mang những quần áo thời trang về, nhưng thấy không ai hưởng ứng thành thử cũng bỏ luôn. Nga nói: Kệ, Huế quê một cục vậy mà hơn. Đố ai làm Huế thay đổi. Cũng như Vân, bây giờ Vân cột chặt với Huế rồi, bác ở chung quê hương với Vân rồi. Nga nói đúng, ba tôi không cách chi trở về quê hương của ông nữa.
Và ba tôi cũng đã tha thứ hết cho tôi khi tay ông đưa lên muốn ôm lấy tôi: Con đừng nói gì nữa hết, ba đã hiểu con. Trong một lần trước khi làm một bài thơ nói tới Huế, tôi đã kết bằng câu: Cho tôi trở về đứng mê sảng ngó. Bây giờ tôi đang đứng đây, đứng tại Huế, phút mê sảng đã qua. Nhưng tôi đã được mê sảng.
Chiều hôm đó Nga đưa tôi về, khu An Cựu tôi ở giới nghiêm 7 giờ, mặc dù tình hình Huế vẫn rất an ninh. Xuống xe buýt, chúng tôi đi dạo một quãng. Khi chúng tôi chia tay nhau, Nga nói: Hẹn mồng Hai Tết, nhớ nghe.
Nga dặn tôi mồng Hai đừng đi đâu, nó sang và hai đứa đi thăm mộ ba, đi chơi, dạo một vòng thăm lại Huế. Tôi gật đầu bừa, ngày mồng Hai chồng tôi sẽ về cùng với hai đứa con nhỏ nhưng ít nhất cũng 1 giờ trưa mới tới. Buổi sáng, tôi với Nga tha hồ mà đi trước trên những kỷ niệm.
Trời xuống lạnh thật bất ngờ và những tiếng pháo nổi lên tứ phía. Ngang qua nhiều nhà tôi đã ngửi thấy mùi trầm hương, và bên trong những cánh cửa khép hờ đã có bình hoa mai vàng đẹp một cách trang nghiêm đang bình tĩnh đợi chờ đêm giao thừa.
Những tà áo bay ngược chiều hoặc cùng chiều lại phía tôi nhởn nhơ trong gió chiều đằm thắm, làm tà áo trắng của tôi bị chìm nghỉm lẫn trong niềm riêng u tịch.
Cái chết của ba tôi làm tôi gần lại với Huế, mà bao năm vì tuổi trẻ tôi đã coi Huế như một chỗ không phải để những người như tôi dung thân và tôi không có cảm tình được. Lúc này tôi nhìn Huế, như một nước nhỏ thanh bình lặng lờ nào thật xa lạ với cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
°
Ngày mồng Hai Tết của Nga và tôi không bao giờ có nữa, ngày mồng hai Tết của chồng con tôi trở về cũng không bao giờ tới. Đêm mồng Một, những tràng pháo đang ròn rã nổ vui mừng chào đón Xuân, bỗng bị những tràng AK50, B40 làm im nghỉm. Một ngày hai ngày, một tuần hai tuần rồi một tháng chạy loạn. Tôi trú ẩn ở Dòng Chúa Cứu Thế và cung An Định, sang bên này Tân Lăng, về tuốt Thuỷ Dương trở lên An Cựu, rồi vội vã thoát thân một mình, và tới Sài Gòn rồi, tôi mới tin rằng tôi đã xa được địa ngục Huế.
Địa ngục Huế trong một tháng đã làm thay đổi tất cả điều mà trước đó một ngày tôi quả quyết Huế không bao giờ thay đổi. Tôi trở về một mình lành lặn tay chân, đẹp đẽ mặt mũi. Và nửa tháng sau tôi lại theo dõi tin tức ở các báo chí về những thảm cảnh Huế một cách say sưa hồi hộp thương cảm như chính mình đã xa Huế lâu năm chưa biết gì về cảnh tan nát đó.
Trong những ngày chạy loạn ở Huế, tôi khoác chiếc áo măng tô hai mặt vải của ba tôi và thường trực nhớ tới những phút cuối cùng của đời người đó, và tôi đã lợi dụng sự thương nhớ đó để cầu xin sự phù hộ. Khi tôi đã bình yên ở Sài Gòn, bốn ngày sau tôi tìm thăm Phương ở Huế cũng mới trốn thoát vào và hỏi thăm những bạn bè cũ. Tôi được biết một bạn cũ là Tâm Tuý đã chết và Nga còn sống.
Phương thấy Nga đang ngồi tìm kiếm gì đó trên đống gạch vụn của ngôi nhà vừa mới xây mà đã thành ngôi nhà xưa.
Thưa ba,
Con đã thoát chết, chiếc áo mưa của ba con cũng đã mang theo vào tới Sài Gòn, nơi ba ao ước được vào thăm cho biết mà chưa vào được.
Con còn rất mừng và sung sướng cho ba được chết trong lúc thành phố còn nguyên lành. Và mặc dù quanh ngôi mộ ba những hoa lan đã bị tàn phá cày xới, nhưng con tin rằng không bao lâu cỏ cũng sẽ mọc, cây sẽ trổ hoa lấp hết dấu vết cũ rồi con cũng sẽ được trở về nữa.
Và Nga thân mến.
Phương có nói cho mình biết rằng, Phương có trông thấy Nga đang ngồi tìm kiếm gì đó trên đống gạch vụn của ngôi nhà cũ ở phố Trần Hưng đạo. Nga ơi, mình cũng hình dung ra được hình ảnh ấy và những bức tường còn lại lỗ chỗ những vết đạn, cùng những giọt nắng khô trên những giọt lệ nhỏ. Dù sao cũng mừng là Nga còn sống.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 24 tháng 7 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--