Chương 1
Thiên hạ thái bình

Ba mươi năm ăn mừng chiến thắng
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử của dân tộc. Khi chiếc xe tăng T54 mang số 390 húc văng hai cánh cổng chính tiến thẳng vào dinh độc lập, Bùi Quang Thận nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào, leo lên nóc dinh độc lập hạ lá cờ ba sọc xuống và kéo lá cờ giải phóng xanh đỏ sao vàng lên. Khoảnh khắc đó là 11h30' trưa ngày 30/4 đã mở ra một kỷ nguyên mới của nước Việt Nam thống nhất và hoà bình.
Ba mươi năm chiến tranh đã lùi xa. Bước ra khỏi cuộc chiến với tư cách là người chiến thắng. Không thể không hân hoan, không thể không kiêu hãnh. Người ta tán thưởng mình cũng nhiều, mình tự khen mình cũng lắm. Hạnh phúc và tự hào lắm chứ!. Là người lớn lên trong giai đoạn lịch sử này, mỗi buổi sáng ngủ dậy nghe bản nhạc khúc quân hành tâm trạng tôi cũng lâng lâng như bay trên chín tầng mây. Hình ảnh người anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh chói lòa, tỏa sáng khắp non sông. Tưởng như, chỉ còn một bước nhỏ nữa là Việt Nam  lên thiên đường.
Trên đỉnh cao chót vót của lòng tự hào, thế giới như nhỏ bé lại. Đó cũng là lúc mà chủ nghĩa Marx- Lênin trở nên “bách chiến bách thắng”, khi cao hứng, có người còn gọi nó là “đỉnh cao của trí tuệ nhân loại”.
Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ quá lớn. Ánh hào quang của chiến thắng bao trùm lên tất cả mọi mặt đời sống xã hội. Cộng thêm sự khuyếch trương của bộ máy tuyên truyền theo định hướng của Đảng, thời đại Hồ Chí Minh lấn át cả lịch sử ba nghìn năm của dân tộc.
Nước Việt Nam thân yêu, vừa trải qua hàng nghìn năm đối mặt với những bức xúc tối thiểu của đời sống, của cái đói, cảncét, nơi trú thân, nay được cởi bỏ ách nô lệ, được giải thoát, được học hành… Đó là lý do để cả dân tộc sùng tín vào nhà nước, vào đảng, cơ quan quyền lực cao nhất định đoạt số phận của dân tộc.
Ba mươi năm qua, bản nhạc ăn mừng chiến thắng vẫn reo vang, bất kể ngày đêm, bất kể thời điểm, lúc vui lúc buồn, bản nhạc ấy chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim của người Việt Nam.
Người Việt Nam như mê, như say với vinh quang chiến thắng. Hơn mười năm sau khi thống nhất, khi Đông Âu và Liên Xô đang trên đà tan rã, khi tiêu hết đồng tiền viện trợ cuối cùng cũng là lúc mà đất nước có nguy cơ đi vào bờ vực của sự sụp đổ, người ta mới có dịp tỉnh ngộ. Đó là lúc mà Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới. Đất nước thoát hiểm, nhưng cũng là lúc mà đảng lấy lại uy tín.
Sự sùng tín vào sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, cộng với chính sách truyền thông một chiều, khiến đại đa số dân chúng hiện nay chỉ biết có đảng có chủ nghĩa Max. Những khái niệm về Quyền sống, quyền Công dân, xã hội Pháp quyền… vẫn là những khái niệm mơ hồ, một thế giới mới lạ, quyến rũ nhưng còn quá xa xôi.
Do bản năng của những người mới thoát nghèo lại bị bưng bít thông tin, người Việt Nam không thể liều thân chiến đấu với cường quyền chỉ để đạt tới một thế giới hứa hẹn nhưng còn ở ngoài tầm tay. Những tư tưởng dân chủ, phản kháng đều bị bóp chết từ trứng nước như những mầm sống nhỏ nhoi bị điều trị bởi “kháng sinh mạnh” của bộ máy quyền lực khiến những tư tưởng phản kháng trở nên lẻ loi, yếu ớt.
Bản nhạc ăn mừng chiến thắng như lấn át mọi dư luận, trước mắt người dân là bức màn huyền thoại Chống Mỹ Cứu nước, là bộ máy chuyên chính không ngừng được tô son điểm phấn cho hợp thời. Điều này giải thích vì sao người Việt Nam lại cam chịu đến thế, lại trung thành với đảng đến thế. Dẫu còn tồn tại không ít bất công oan trái, nhưng dường như người Việt Nam không còn sự lựa chọn nào khác và quả thực nền chính trị Việt Nam thuần khiết đến mức dân chúng không thể nhìn thấy một lực lượng khác để lựa chọn. Đây cũng là lý do để chúng ta nói với thế giới rằng, đảng là lực lượng chính trị duy nhất để lãnh đạo đất nước.
Đảng tồn tại khắp mọi lúc mọi nơi. Hơn 700 tờ báo gần 100 nhà xuất bản đều tuyên truyền rặt một giọng điệu. Chủ nghĩa Marx, tư tưởng Hồ Chí Minh được giảng dạy từ 12 lớp của trường phổ thông đến bậc đại học. Hàng trăm nhà khoa học hàng ngày cày xới trên hệ thống lý luận đó. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa hàng ngày hàng giờ nhồi nhét tư tưởng bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Marx về đấu tranh giai cấp, về kẻ thù số 1 của thế giới với một niềm tin sắt đá không thay đổi.
Sự vật dẫu có vần xoay, kinh tế có thể hưng thịnh, nhưng Đảng không bao giờ sai, chủ nghĩa Marx là đỉnh cao của trí tuệ nhân loại,. Bằng chứng của sự bách chiến bách thắng là chiến thắng 30 tháng 4; Việt nam đã chiến thắng một đế quốc hùng mạnh nhất của lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọ chọn của người Việt Nam. Bằng chứng là chủ nghĩa xã hội từ một nước đã đi từ thắng lợi này sang thắng lợi khác. Không chỉ ở Việt Nam, Liên xô xã hội chủ nghĩa cũng đã từng chiến thắng chủ nghĩa phát xít và chuyện thắng Mỹ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Mọi sự giao động đều được trấn an rằng, chúng ta đang ở thời kỳ quá độ. Cùng với chiến thắng Điện biên phủ năm 1954, chiến thắng 30 tháng 4 được sử dụng như một chiếc bùa hộ mệnh để trấn áp mọi ý kiến khác biệt. Niềm tin của chủ nghĩa xã hội luôn luôn được củng cố.
2- “Thiên hạ thái bình, bệ hạ yên tâm”
Đó là câu nói điệp khúc mà Hoàng Hạo, một hoạn quan thời Tam Quốc thường xuyên bẩm với hậu chủ Lưu Thiền. Mỗi khi có thông tin về tình hình bất ổn  của đất nước, Hậu chủ thường hỏi người thân cận nhất là Hoàng Hạo và nhận được câu trả lời như vậy. Chính vì tin rằng “thiên hạ thái bình” mà triều đại của Lưu Thiền đã kết thúc ít lâu sau đó. Chấm dứt một sản nghiệp mà Lưu Bị và những cộng sự của ông đã mất nhiều công sức mới gây dựng nên.
Trên đây là câu chuyện ngày xưa, còn ngày nay, những chuyện như vậy cũng không thiếu. Ngày 13/12/2003 tại thành phố al-Dawr, một nhân vật chính trị khá nổi tiếng của Iraq là Saddam Hussein đã bị bắt. Một người đồng hương của Saddam Hussein đã bán đứng ông ta. Trong lịch Iraq cũng như lịch sử thế giới, đã có thời Saddam Hussein đã trở thành một chân dung chính trị đầy bản sắc, xung quanh ông ta được phủ đầy những huyền thoại. Giới báo chí đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực vì vị tổng thống đầy tham vọng này.
Còn nhớ trước đó không lâu, ngày 15/09/2002, dưới triều đại Saddam Hussein, dân chúng Iraq đã đi bỏ phiếu cho cuộc trưng cầu dân ý tín nhiệm đương kim tổng thống của mình và kết quả là 99% dân số ủng hộ ông (!?). Vì lý do đó, ông tiếp tục tại vị thêm một nhiệm kỳ 7 năm nữa. Các nhà chính trị lỗi lạc trên toàn cầu, kể cả những thiên tài từng mang lại cơm ăn áo mặc cho cả một dân tộc khi bầu cử nếu thu được 90% số phiếu đã coi là một thành công. Còn Saddam, ông là ai mà được sùng tín như vậy?
Sinh năm 1937, và chính thức trở thành tổng thống Iraq từ năm 1979 khi mới bước sang tuổi 42. Thời gian đầu dưới triều đại Saddam Hussein đã để lại những dấu ấn đáng ghi nhận cho lịch sử Iraq như việc cải cách giáo dục, xoá nạn mù chữ cho phụ nữ… Uy tín Saddam nổi lên như diều gặp gió. Sự tâng bốc quá mức của dân chúng và những kẻ dưới quyền khiến Saddam không coi ai ra gì. Năm 1980, ông phát động cuộc chiến với Iran. Đây được coi là khởi đầu cho một chuỗi sai lầm của một vị hoàng đế không dừng tham vọng của mình ở một quốc gia. Năm 1991, ông xua quân sang chiếm đóng Kuwait, khởi đầu cho cuộc chiến vùng vịnh lần 1. Đây cũng chính là lý do đễ Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào khu vực giàu tiềm năng này.
Sau sự kiện 1991, dưới chính sách cai trị hiếu chiến của Saddam, Iraq gần như bị cô lập với thế giới bên ngoài. Kinh tế kiệt quệ, nhân dân đói khổ, nhưng sự sùng tín của dân chúng vào Saddam vẫn không giảm, bởi họ không biết gì hơn ngoài những thông tin ca ngợi công lao của Tổng thống. Cuộc bầu cử cuối cùng người đứng đầu quốc gia Iraq diễn ra ngày 15/10/1995. Theo số liệu mà chính phủ của ông Saddam công bố, có 99,66 % người tham gia bầu cử bỏ phiếu cho Saddam Hussein. Trong hoàn cảnh đang bị Mỹ đe dọa tấn công, khẩu hiệu chính của chiến dịch chuẩn bị, hãy lặp lại "cuộc duyệt binh vĩ đại", bằng cách trả lời "đồng ý" bầu Saddam Hussein, và "tập hợp lại xung quanh người đứng đầu đất nước".
Khi tin về việc bắt giữ Saddam Hussein được phát đi, hàng nghìn người dân Iraq đã đổ ra đường bắn súng chỉ thiên ăn mừng. Đài phát thanh Iraq phát đi các bản nhạc kỷ niệm. Nhiều người đi trên xe buýt hò reo: "Saddam bị bắt rồi. Saddam bị bắt rồi". Một số người dân ở thị trấn al Adwar thì lại nhắc đến chuyện Hussein bị bắt với thái độ buồn bã vì cựu tổng thống Iraq đã từng ưu ái với họ, nhưng đó chỉ là con số quá nhỏ trong số 23 triệu người dân Iraq.
 Bi kịch chính trị của Saddam khiến người ta không khỏi liên tưởng đến những thần tượng chính trị đang chễm chệ trên ngai vàng quyền lực. Họ luôn luôn là người chiến thắng và đã trải qua nhiều nhiệm kỳ chiến thắng trong những cuộc bầu cử “dân chủ”. Họ biện minh cho sự ngự trị lâu dài của mình: Vì sự tín nhiệm của dân chúng nên phải cung cúc tận tuỵ, phải “chiến đấu” đến hơi thở cuối cùng, phải đảm đương trọng trách vì hạnh phúc của dân chúng… Nếu không có những biến động quân sự ở Vùng Vịnh, sự ngự trị trên ngai vàng của Saddam là không thể thay đổi cho tới khi ông tắt thở, bởi ông luôn luôn thu được 99% dân chúng ủng hộ!. Sự kết thúc sự nghiệp chính trị tưởng như trường tồn của Saddam Husein đã cho thấy, thế giới ngày nay đã đổi khác. Một cá nhân có thể mê hoặc một dân tộc, nhưng không thể đẩy một dân tộc vào thế tự cô lập mình với thế giới.
Và nếu chúng ta có một cách nhìn rộng ra thế giới bên ngòai và tự đặt ra những câu hỏi; ví dụ như: tại sao chất lượng sống của nhân dân Hàn Quốc cao hơn hẳn, so với chất lượng sống của nhân dân Bắc Triều Tiên. Nhưng trong khi 2 vị cựu tổng thống của Nam Hàn, trước áp lực của xã hội đã phải dắt díu nhau ra tòa về tội tham nhũng thì ở Bắc Hàn, nhân dân vẫn cứ phải hô mãi cái khẩu hiệu nhàm chán: “Đời đời nhớ ơn chủ tịch Kim Nhật Thành muôn vàn kính yêu”?
Ba mươi năm qua, đời sống kinh tế lúc đói lúc no, lúc thăng lúc trầm, nhưng về cơ bản là ổn định, hòa bình. Đó là thành tựu vô cùng quan trọng. Là đất nước vừa thoát khỏi ách nô lệ 80 năm của thực dân Pháp, lại phải trải qua hai mươi năm chiến tranh, máu chảy thành sông, xương chất thành núi, được thế này là mãn nguyện lắm rồi. Nếu ai đó tỏ thái độ không hài lòng với hiện tại liền được cho ngay một bài học về quá khứ, về giai đoạn hào hùng của dân tộc.
Trong vài ba thập kỷ vừa qua, cứ lưu truyền tự nhiên một tâm lý và một lối nói rất truyền thống và hài hước. Tâm lý và lối nói này, nếu chúng tôi không nhầm là bắt nguồn từ truyền thống Cụ cố Hồng của Vũ Trọng Phụng:
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!
Có nhiều người còn cẩn thận nâng cấp:
- Trung ương cũng biết cả rồi!
Cứ dội nước lạnh vào gáy nhau kiểu ấy, thử hỏi ai còn muốn nói năng, phát biểu gì nữa, nhất là khi lối mỉa mai này lại từ cửa miệng các bậc "thức giả".
Điều nguy hiểm là với sức ép của dư luận cộng đồng, chẳng ai còn muốn phát hiện, nói năng gì nữa. Nói không được, dần dần cũng khỏi cần nghĩ. Nghĩ làm gì cho thêm mệt rồi lại sinh trầm uất, sinh "đại cuồng". Thế là nghiễm nhiên, không ai bảo ai, truyền thống "nghĩ theo", "nói theo", "chép theo" từ thời Nguyễn liền được phục hồi và phát huy rực rỡ (vấn đề này sẽ được bàn thêm phần nói về tình hình nghiên cứu KHXH và tổ chức hội thảo khoa học).
Trở lại chuyện "biết". Biết không phải là phạm trù độc quyền của con người. Loài vật cũng biết nhưng có giới hạn và thuần theo bản năng. Nhưng từ biết đến hiểu là hai cấp độ không hề có chung đường biên. Có thể biết mà chẳng hiểu gì cả. Vì thế, đã có người nói: "Muốn biết một sự vật, cần phải vào trong nó. Nhưng muốn hiểu một sự vật thì cần ra khỏi nó". Mỗi quá trình tư duy đòi hỏi những thao tác thích ứng. Mọi mối quan hệ trong cộng đồng nhỏ cũng như cộng đồng lớn nảy sinh những sự lộn xộn phức tạp và hậu quả tai hại khôn lường, hầu hết là do người ta biết không đến nơi và hiểu không đến chốn. Chính ông cựu bộ trưởng bộ quốc phòng Mỹ Mac-na-ma-ra đã phải thú nhận trong hồi ký của mình: do các nhà chính trị và các tướng lĩnh Mỹ hiểu biết lơ mơ về lịch sử và văn hóa Việt Nam, nên đã phạm sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi ngờ rằng cho đến những tháng năm cuối thế kỷ XX này, những lực lượng thù địch với Việt Nam ta vẫn chưa chịu biếthiểu Việt Nam một cách khách quan chính xác. Cho đến nay, họ vẫn khăng khăng hiểu Việt Nam "theo kiểu của họ", họ vẫn không tránh được vết xe đổ. Rất tiếc nhiều người Việt Nam ta cũng không hiểu Việt Nam mình, do đó cứ vô tư đem râu ông nọ cắm cằm bà kia và yên chí rằng mọi chuyện đều sẽ tốt đẹp.
Chuyện phổ biến trên đời là từ việc nhỏ đến việc lớn cứ hiểu sai thì hành động sai, rồi lãnh đủ hậu quả. Mọi sự sám hối đều là muộn màng. Cho nên, không bao giờ được tự cho là mình đã biết hết hoặc đã hiểu hoàn toàn chính xác. Cần nhớ rằng, ở đời, nhiều khi nhìn mà không thấy, thấy mà không biết, biết mà không hiểu, hiểu mà không thể hành động. Hành động mới chính là thước đo mọi giá trị.
"Không phải kiến thức định đoạt giá trị mà chính là hành động của anh vậy" (Fichte).
Cái chuyện tưởng như có thể yên chí lấy Liên Xô trước đây làm mẫu mực, đùng một cái người ta phải suy nghĩ và "xét lại" toàn bộ.
- Chủ nghĩa xã hội là gì?
- Chủ nghĩa xã hội có phải là giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng sản hay không?
- Và chủ nghĩa cộng sản có đúng là giai đoạn phát triển tất yếu của nhân loại hay không?
- Chủ nghĩa xã hội vẫn được coi là một giai đoạn quá độ lên CNCS, nhưng ở một nước tư bản kém phát triển như nước Nga hồi thập kỷ 20, các nước Đông Ấu thập kỷ 50 và nhất là những nước như nước Việt Nam ta còn ở thời kỳ kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa thì CNXH nằm ở đoạn nào?
Nga hồi thập kỷ 20, các nước Đông Ấu thập kỷ 50 và nhất là những nước như nước Việt Nam ta còn ở thời kỳ kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa thì CNXH nằm ở đoạn nào?
Đã có một thời, các ông Prudon, Saint Simon, Fourrier - những con người thật lòng yêu thương nhân loại đau khổ vì chủ nghĩa tư bản, đã mơ tưởng hình dung ra một xã hội tương lai tốt đẹp, trong đó người với người là bạn. Mọi người lao động vui vẻ thương yêu nhau, không còn áp bức bóc lột, không còn chiến tranh. Tất nhiên, cái xã hội các ông mong ước mà ta thường chê lên chê xuống là CNXH không tưởng có những nét tương đồng nhưng cụ thể và cao hơn cái thế giới đại đồng mà nhiều nhà hiền triết phương Đông mơ ước. Còn các nhà lý luận của ta thì luôn miệng, luôn tay, luôn bút cứ nói chắc như đinh đóng cột rằng chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học.
Hỏi CNXH ấy nó như thế nào thì họ chỉ sang Liên Xô "Liên Xô hôm nay là Việt Nam ngày mai". Có thắc mắc thêm nữa thì họ trích dẫn đủ thứ kinh điển với những thuật ngữ cao siêu đầy tính chất triết học, kinh tế chính trị học... rối mù cả trời đất không hiểu ra sao cả. Biết rõ họ sai nhưng không thể phản đối, bác bỏ được. Phản đối lý luận sai của họ tức là phản đối CNXH. Mà phản đối CNXH thì lập tức mang họa vào thân. Kể cả khi Đảng ta đã nhận ra sai lầm rồi nhưng nhiều nhà lý luận của ta vẫn cứ tiếp tục nhai lại đủ các thứ luận điệu cũ rích đồng thời vẫn tiếp tục chỉ vào mặt người khác rồi ra sức răn đe chụp mũ, xuyên tạc. Một điều rất lạ là các vị cơ hội tả khuynh này vẫn được tin dùng, được khen là "trung thành với CNXH". Thực chất, họ là hữu, hữu một cách đáng sợ, luôn luôn nối dáo, tiếp tay một cách không tự giác cho những lực lượng chống lại Đảng, chống lại Dân tộc. Họ thường gào lên là phải bảo vệ CNXH nhưng chính họ lại không hiểu thế nào là CNXH.
Trước đây, trong tác phẩm "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển" chúng tôi đã chỉ ra cái nhầm của Stalin và giới lý luận Mácxít-Lêninnít của phe ta. Cả Viện hàn lâm Liên Xô trước đây không hiểu rằng: Lênin thực hiện "CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI" (NEP) thực chất là hoàn thiện nền kinh tế TBCN Nga vốn rất thấp kém so với các nước tư bản phát triển ở châu Ấu đương thời nhằm tạo cơ sở vật chất cho CNXH. (Chắc có người hiểu nhưng không dám nói)
Trước khi bàn luận tiếp, chúng tôi xin phép được nói thẳng thắn rằng những ai không hiểu hoặc không muốn công nhận học thuyết duy vật lịch sử của Marx, cụ thể là không chấp nhận 5 phương thức sản xuất trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại thì xin miễn đối thoại.
Theo Mác, sau phương thức s/x tư bản chủ nghĩa sẽ là phương thức s/x cộng sản chủ nghĩa, cũng như trước đó, sau phương thức PKCN thì bắt buộc phải là phương thức TBCN. Sức sản xuất là một nhân tố biến động không ngừng trong lịch sử. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm nó thì nó phải phá vỡ đi để kiến lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó. Cái chân lý đơn giản này thì anh có thể yêu nó hay ghét nó nhưng không thể bác bỏ hoặc xóa bỏ.
Các nhà lý luận tư sản ra sức chống chủ nghĩa Mác từ hơn một thế kỷ nay nhưng vô ích. Có một nghịch lý tức cười là kẻ thù thì chịu bất lực trước chủ nghĩa Mác nhưng chính những nhà lý luận của phe ta trong khi hô to "chủ nghĩa Mác vô địch muôn năm" (mà họ tin thật lòng như thế) thì họ lại chống lại học thuyết Mác một cách rất hồn nhiên, chân thật. Đầu tiên họ gọi sách vở của Mác là kinh điển, nghĩa là họ coi sách lý luận của Mác là một thứ kinh thánh, chỉ cần tụng đọc, trích dẫn nguyên văn từng câu từng chữ mà làm theo. Ngay cả khi Mác và Ắng-ghen đã căn dặn trong lần tái bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản rằng có nhiều điều cần phải viết lại cho thích hợp với điều kiện lịch sử và thực tiễn cách mạng đang không ngừng phát triển, họ cũng lờ đi. Nhưng nếu ai theo đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác, làm theo lời dặn của Mác thì họ chụp cho đủ các thứ mũ và tìm cách hãm hại. Điển hình là các cuộc thanh trừng ở Liên Xô dưới thời Stalin và cuộc đại cách mạng văn hóa ở Trung Quốc dưới thời Mao. Ở ta thì nhẹ nhàng hơn, những vị được chụp cho cái mũ "xét lại chống Đảng" chỉ bị giam cầm qua loa dăm mười năm hoặc bị quản thúc tại gia, hoặc bị đình chỉ công tác vài ba chục năm là cùng.
Còn các vị giáo điều lại tự nhận mình là những người Mácxít chân chính, nghĩ ra đủ các thứ lý luận, các thứ nghị quyết, chủ trương, chính sách để kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.
Nói riêng lĩnh vực nông nghiệp, họ bày ra đủ thứ: hợp tác xã thấp cấp, cao cấp, nông trường quốc doanh, nông trang tập thể, công xã nhân dân, v.v. đến nỗi càng "đẩy mạnh sản xuất" lại càng lâm vào tình trạng thiếu đói. Ngay Liên Xô hàng năm đã phải nhập hàng triệu tấn lúa mì từ các nước tư bản. Còn ngành nông nghiệp Liên Xô thì chạy sau nền nông nghiệp tư bản Hoa Kỳ chừng nửa thế kỷ. Trừ lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và vũ trụ, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế khác của Liên Xô đều lạc hậu thảm hại.
“Thiên hạ thái bình, bệ hạ yên tâm” đây là câu mà hoạn quan Hoàng Hạo hàng ngày nói với hậu chủ Lưu Thiền. Nhờ tin vào Hoàng Hạo mà Lưu Thiền hàng ngày yên tâm hưởng lạc. Và đây cũng là tín hiệu về sự tàn lụi của triều đại nhà Hán.
 
3- Thành tựu đích thực và nguy cơ tụt hậu
Những con số thống kê về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây được báo chí trong nước đưa tin với những lời lẽ trang trọng. “Trong tình hình thế giới có nhiều bất ổn, kinh tế Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 7,7%/năm…” Cùng với lời tán tụng của một vài tổ chức, cá nhân người nước ngoài khiến dân chúng không khỏi nức lòng.
Kinh tế tăng trưởng cao ai cũng mừng, khi tỷ lệ tăng trưởng chung của toàn cầu chỉ đạt vài ba phần trăm thì Việt Nam đạt tốc độ 7,7%, có người cao hứng còn cho rằng, Việt Nam có thể “thành hổ thành rồng” nay mai. Tuy nhiên, muốn “hoá rồng”, nếu chỉ kỳ vọng thôi thì chưa đủ. Chúng ta đã từng phải trả giá cho sự lạc quan quá mức, thời điểm này cũng không phải là một ngoại lệ. Vậy thực chất vấn đề này thế nào, chúng ta có thể hoá rồng trong một tương lai gần? đâu là chìa khoá để Việt Nam đạt được kỳ vọng này?
Trong phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng 12/2004 tại TP Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phan Văn Khải nhận định: “Năm 2004 mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn…  nhưng nền kinh tế của nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá cao, với xu thế quý sau cao hơn quý trước. Tốc độ tăng trưởng của các ngành đều tăng khá và vượt kế hoạch đề ra… Tính chung cả năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt gần 7,7%...”
Để ý kỹ hơn, với GDP năm 2003 ước đạt hơn 40 tỷ USD, trong đó chúng ta có lợi thế từ ngoại lực rất lớn, nguồn thu từ  kiều hối khoảng 3,8 tỷ USD chiếm 7,7%. Như vậy, chúng ta đã đạt được thành tích tăng trưởng GDP khoảng 7,7%, nhỉnh hơn một chút nguồn lực tiếp sức từ bên ngoài. Đó là chưa kể đến nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô khoảng 5,2 tỷ USD/năm với mức lợi nhuận cỡ vài tỷ USD/năm. Nếu so với Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore trong những năm 60 đã liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trên 10%, cá biệt có năm tăng trưởng tới hơn 15% mà không trông chờ vào những nguồn lợi trời cho, cũng không trông chờ vào nguồn hỗ trợ từ bên ngoài đổ về.
Theo mục tiêu mà kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI đặt ra cho Chính phủ, trong kế hoạch 5 năm tới, nền kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8,5%/năm, nếu mục tiêu này trở thành hiện thực, ta sẽ có lộ trình tăng GDP trong 10 năm tới như sau: (đv tính GDP: tỷ USD) 
Nhìn sang nước bên cạnh, Thái Lan có 62 triệu dân nhưng GDP của họ năm 2003 đạt 200 tỷ USD; Đài Loan với 22,5 triệu dân, GDP năm 2003 đạt 330 tỷ USD. Với đà tăng trưởng như hiện nay, phải mất 10 năm sau, GDP Việt Nam mới đạt 89,6 tỷ USD, bằng 44,8% của Thái Lan hiện nay và phải mất hơn 20 năm sau mới bằng Thái Lan ở thời điểm hiện tại.
Theo báo cáo Cạnh tranh toàn cầu 2004-2005 của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum's Global Competitiveness Report) vừa công bố, thứ hạng của VN được xếp thứ 77 trên 104 nước, giảm 17 bậc so với năm ngoái.
Sự sụt giảm này có phải là điều ngạc nhiên, hay chỉ là hàn thử biểu phản ánh căn bệnh vốn có từ nhiều năm nay của Việt Nam mà chưa có liều thuốc chữa trị hữu hiệu? về vấn đề này, chúng ta sẽ phân tích kỹ trong phần sau.
Xin được nói thêm, chỉ số về cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index) bao gồm 3 chỉ tiêu: chất lượng môi trường kinh tế vĩ mô, tình trạng của các định chế quốc gia, và sự sẵn sàng tiếp cận công nghệ cao của đất nước. Đây là một chỉ số rất quan trọng phản ánh sức cạnh tranh của nền kinh tế. Không thể có một tương lai sáng sủa cho nền kinh tế nếu chỉ số này quá thấp. Điều đáng buồn là thứ hạng về chỉ số này của chúng ta lại thấp hơn cả Indonesia, Thái Lan là những nước láng giềng hứng chịu nhiều bất ổn về chính trị.
Báo cáo của Diễn đàn KT thế giới ghi nhận sự tụt hạng mạnh của Việt Nam, đặc biệt xếp hạng về chi tiêu ngoài pháp luật. Chi tiêu ngoài pháp luật khi đi vay tín dụng 102/104, mức độ vận dụng tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán 100/104, chi tiêu ngoài pháp luật trong ký hợp đồng có chi tiêu ngân sách 99/104, mức độ cởi mở của hệ thống hải quan 96/104, mức độ sáng tỏ và ổn định của quy định pháp luật 91/104.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí cho biết: “Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới được đánh giá là một trong những công cụ kiểm tra hàng đầu về điều kiện cạnh tranh của các nền kinh tế toàn cầu với sự cộng tác của 109 viện nghiên cứu đối tác (trong đó có CIEM). Họ có những đánh giá độc lập của mình và khó có thể nghi ngờ tính khách quan của báo cáo.” Rõ ràng, việc đánh giá của một tổ chức phi chính phủ có uy tín như WEF, kết hợp với trường đại học danh tiếng Harvard rất đáng để chúng ta phải suy ngẫm.
Chỉ số về thể chế mà WEF đưa ra bao gồm khung pháp lý, quyền sở hữu trí tuệ, đất đai, tính chất độc lập của Toà án, mức độ an toàn về kinh doanh… Điều đáng lưu ý là, những chỉ số này được đánh giá khi chúng ta đã biết quá rõ những căn bệnh của nền kinh tế và đã sửa đổi và ban hành rất nhiều luật mới nhằm làm cho môi trường kinh doanh ngày càng trở nên thông thoáng hơn, song quá trình thực thi của bộ máy hành chính còn chậm trễ và nhiều nhiêu khê. Đặc biệt là việc thực thi các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện luật còn nhiều yếu kém, lủng củng. Tình trạng ra các Nghị định, Thông tư mâu thuẫn với Luật vẫn tồn tại. Tình trạng "trên mở dưới khép", “trên bảo dưới không nghe”, bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu lực là những căn bệnh đã từng tồn tại hàng chục năm nay mà không có cách nào chữa trị.
Báo cáo của WEF được coi như là một “xét nghiệm” của nền kinh tế giúp chính phủ các nước sẽ nhìn vào bảng xếp hạng này để thấy trong năm nay, nước mình có sự thay đổi như thế nào, vị trí ra sao trong tương quan với các nước khác. Từ đó, xem xét lại tất cả các chính sách của mình, nhất là đối với các lĩnh vực được xếp hạng. Báo cáo của WEF cũng có tính chỉ dẫn, tham khảo cho các nhà đầu tư khi họ lựa chọn đầu tư vào một nước nào đó. Đối với một doanh nhân khi tìm kiếm nơi đầu tư sẽ chọn nơi nào có chỉ số tốt hơn.
Như đã nói ở phần trên, tỷ lệ tăng trưởng 7,7% trong bối cảnh có sự tiếp sức mạnh mẽ của nguồn kiều hối từ nước ngoài chưa phải là thành tích gì đặc biệt, nếu không muốn nói là quá tệ.  Sự đánh giá khách quan của một tổ chức kinh tế có uy tín như Diễn đàn kinh tế thế giới không khỏi làm cho chúng ta lo âu. Dẫu có yêu mình đến mấy cũng nên nhìn thẳng vào thực trạng này. Chừng nào còn né tránh, chúng ta vẫn sống trong vòng luẩn quẩn của nghèo nàn và nguy cơ tụt hậu là quá rõ. Để có một cách nhìn thấu đáo vào thực trạng nền kinh tế, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét trong bài sau: Những lực cản của nền kinh tế.