CHƯƠNG IV - 27
Loa Thành và vụ thảm án nhà Lý

Giáp ngay làng bố vợ tôi là kinh thành Cổ Loa xưa.
Cổ Loa là đô thị đầu tiên ở nước ta. Trước đây người ta còn nghi ngờ toà thành hiện nay có thể do Mã Viện xây. Như vậy vào khoảng năm bốn mươi ba sau Công nguyên, hoặc do Ngô Quyền dựng năm 939. Tiếp đó có ý kiến rằng, Mã Viện đắp thành dựa trên cổ Loa cũ. Những phát hiện và nghiên cứu gần đây, như việc đào được hàng vạn mũi tên đồng, trống đồng, đã chứng minh cho ý kiến này.
Theo ý kiến của các nhà khoa học, hai vòng ngoài là vết tích thành cũ của An Dương Vương, và sau này Mã Viện lợi dụng thành cũ của An Dương Vương, bồi đắp thêm. Riêng vòng thành trong là phần mới do Mã Viện xây sau này. Ngưười ta cũng tìm thấy di vật Hán, như ngói, gạch, mộ táng... và nhiều viên gạch xây mộ mang niên hiệu thời Đông Hán. Vết thành hiện nay nằm trên diện tích khoảng bốn trăm ha. Thành gồm ba vòng bằng đất.
Theo truyền thuyết và sử cũ, Thục Phán sau khi thôn tính nước Văn Lang của vua Hùng đã hợp nhất nhà nước Văn Lang, lập nên nước âu Lạc và xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Châu, Bạch Hạc, Phú Thọ bây giờ. Năm 218 trước Công nguyên, quân nhà Tần tràn xuống phương Nam, chính phục đất Việt. Dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương, nhân dân Âu Lạc đánh tan quân xâm lược. Sau chiến thắng, An Dương Vương dời đô và dựng thành Cổ Loa. Truyền thuyết kể rằng: Đã nhiều lần, thành sắp xây xong, do yêu quái Gà Trắng phá hoại, nên bị đổ. Sau nhờ có thần Kim Quy, mới xây xong. Thành xây chín lớp, xoáy trôn ốc và có vũ khí lợi hại, nỏ thần.
Nhà Tần suy yếu, phong kiến các nơi ở Trung Hoa nổi lên cát cứ. Ở quận Nam Hải, vùng Quảng Đông, quan Nhâm Ngao đã nhiều lần nhòm ngó đất Âu Lạc, nhưng chưa thực hiện được mưu đồ thì mất. Rồi Triệu đà lên thay. Triệu Đà nhiều lần huy động binh mã chiếm Âu Lạc, song đều thất bại. Cuối cùng, Triệu Đà dùng kế giả hoà hiếu, cho con trai là Trọng Thuỷ sang làm rể An Dương Vương. Vì sự mất cảnh giác, năm 208 trước công nguyên, Triệu đà chiếm được nước Âu Lạc. Triệu Đà Sáp nhập Âu Lạc cùng quận Nam Hải, lập ra nước Nam Việt.
Triệu đà gốc người Hán, sinh năm 256 trước Công nguyên, quê ở tỉnh Hồ Nam. Sau khi chiếm nước Âu Lạc và lập ra nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung, nay là Quảng Châu, nhà Tần suy yếu, Triệu Đà xưng đế. Triệu Đà ở ngôi bảy mươi mốt năm, thọ 121 tuổi. Nhà Triệu trải qua năm đời vua. Năm 113 trước Công nguyên, nhà Triệu rối ren, nhà Hán đem quân sang, chiếm được Nam Việt, rồi đổi là bộ Giao Chỉ.
Năm 1983 các nhà khảo cổ Trung Quốc tình cờ phát hiện ra khu mộ cổ của Nam Việt Vương, cháu nội Triệu Đà. Ngôi mộ lưu giữ nhiều di vật và xác Nam Việt Vương, nhân vật liên quan đến cuộc đánh chiếm thành Cổ Loa, xoá nước Âu Lạc cùng vua Thục An Dương Vương.
Về nhân vật Triệu Đà và nhà Triệu, sử sách nước ta qua các thời đại có sự đánh giá, nhìn nhận khác nhau. Có quan điểm chỉ nhìn Triệu Đà ở góc độ là kẻ xâm lược có tội, nhưng có quan điểm lại đánh giá ông như ông vua khai sáng của nước ta. Bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ghi: Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước… Tại làng Đồng Xâm, huyện Kiến Xương, Thái Bình còn có đền thờ Triệu Đà, ông vua Nam Việt cách đây hơn hai ngàn hai trăm năm.
Làng bố vợ tôi còn giáp nơi xảy ra vụ án tàn sát tôn tộc nhà Lý. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử đồ sộ nhất còn lại của nước ta, bản khắc in cũ nhất năm Chính Hoà, năm 1697, ghi: “ Mùa đông năm ấy, năm 1232, nhân người họ Lý tế lễ các vua nhà Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết”. Các sách hiện nay khi ghi chép địa danh Thái Đường, Hoa Lâm đều chú thích nơi đó thuộc huyện Đông Ngàn cũ và ghi chú nay thuộc đất Tiên Sơn, Bắc Ninh.
Vậy vùng đất Thái Đường xưa nay là đâu? Vùng đất ấy, nay chính là đất xã Mai Lâm huyện Đông Anh. Nếu ai có dịp từ Hà Nội qua cầu Đuống sang Đông Anh, quãng năm trăm mét, đến dốc Vân, phía bên tay trái chính là vùng đất Hoa Lâm Viên xưa.
Thái Đường, Hoa Lâm thuộc huyện Đông Ngàn, một huyện nổi tiếng đất Kinh Bắc và cả nước bởi số người đỗ đạt cao nhất thời xưa trong các phủ huyện cũ dưới thời phong kiến Việt Nam. Năm 1905 một phần huyện Đông Ngàn nhập vào tỉnh Phúc Yên, phần còn lại, có Thái Đường Hoa Lâm, nhập vào phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Từ năm 1961 vùng đất Thái Đường về huyện Đông Anh, Hà Nội.
Xưa các vua Lý lập vườn hoa lớn ở Thái Đường, với tên Lâm Hoa Viên. Từ Thăng Long theo đường thuỷ độ non chục cây số, các vua Lý về chơi vườn thượng uyển Hoa Lâm. Tại vùng này, huyện Đông Anh ngày nay còn rất nhiều di tích, truyền thuyết gắn với vườn hoa xưa và các vua triều Lý. Các tên như Danh Lâm, Du Lâm, Mai Hiên, Đông Trù,… là gắn với Hoa Lâm xưa. Dân xã Mai Lâm ngày nay đều biết về truyền thuyết thảm án tôn tộc nhà Lý. Tám thôn thuộc xã Mai Lâm nay đều có đền chùa đình miếu thờ cúng, tế lễ liên quan đến sự kiện xưa.
Đình làng Thái Bình, một di tích liên quan trực tiếp đến sự kiện vụ “thảm án”, thờ ba vị thành hoàng là Lý Chiêu Hoàng, Trần Cảnh và Trần Thủ Độ.
Trước đình ở ven sông Đuống, sau bờ lở, sông chạy sát vào đình, năm 1990, dân làng chuyển đình vào trong đê. Đặc biệt là khu rừng Mai Lâm, dấu tích Hoa Lâm Viên xưa, nhiều người ở đây còn biết cánh rừng cũ. Họ kể lại, khi sang ga Yên Viên phải qua khu rừng Mai Lâm rậm rạp. Trong rừng, sung là loại cây nhiều nhất. Đến tận năm năm bảy, vì lấy đất hàn khẩu đê vỡ, vụ vỡ đê nổi tiếng hồi đó, rừng Mai Lâm bị chặt phá. Khu rừng xưa thành bãi đất, trồng ngô khoai như hiện nay.
Vậy tại sao nhà Lý lập vườn thượng uyển ở Mai Lâm? Đất Cổ Pháp, Đình Bảng là quê nội nhà Lý, còn quê ngoại nhà Lý ở đâu? Trong cuốn lịch sử xã Mai Lâm, thì thôn Thái Bình có ngôi mộ bà Phạm Thị Ngà, mẹ vua Lý Thái Tổ. Vậy phải chăng quê ngoại ở đây nên nhà Lý lập Lâm Hoa Viên?
Sau khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, vai trò của nhà Lý chấm dứt vào năm 1225. Thái sư Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông phải tự vẫn ở chùa Chân Giáo, nay thuộc địa phận quận Ba Đình. Trong bộ sử Đại việt sử ký toàn thư có ghi về vụ "thảm sát" tôn tộc nhà Lý ở Thái Đường, nhưng cũng chính trong bộ sử này còn tồn nghi sự kiện đó và chua rằng: " việc này chưa chắc đã có thực", lại dẫn thêm, vào đời vua Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng.
Cứ theo bộ sử trên ghi vụ "thảm án" thì lúc đó tôn tộc nhà Lý đến tế lễ các đời vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm. Tại sao không tiến hành tế lễ các vua Lý tại Đình Bảng là quê nội nhà Lý, một điều thông thường của phong tục người Việt Nam, mà lại tiến hành tại quê ngoại?
Vào năm xảy ra vụ án, lúc đó nhà Trần đã cầm quyền được sáu năm, tình hình chính trị đã tương đối ổn định, bởi trước đó, vào năm 1228, Chiêm Thành phải sang triều cống Đại Việt; tiếp năm sau, hai lực lượng chống đối tương đối quyết liệt là lực lượng của Nguyễn Nộn cát cứ ở vùng Bắc Giang, lực lượng chống đối của Đoàn Thượng cát cứ vùng Hải Dương và Hưng Yên, đều đã bị tiêu diệt; đặc biệt cùng năm đó nhà Tống chính thức công nhận và phong vương cho vua Trần là An Nam Quốc vương.
Với tình hình như vậy, một con người khôn ngoan, mưu lược như Thái Sư Trần Thủ Độ, ông đủ sáng suốt thấy không cần thiết phải tàn sát tôn tộc nhà Lý, để lại tiếng xấu muôn đời cho mình.