Học vị Trạng nguyên là học vị cao nhất, giành cho người đỗ đầu kho thi Đình. Người đi học trước đây phải qua ba kỳ thi lớn (không kể những cuộc sát hạch) gồm có: Thi Hương: Là thi ở các trấn, các tỉnh. KHông phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Người ta chia ra làm nhiều vùng, gọi là các trường. Ba bốn (hoặc nhiều hơn) trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi, thí dụ trường Nam là tập trung thí sinh ở các tỉnh chung quanh Nam Định, trường Hà là tập trung thí sinh ở các tỉnh chung quanh Hà Nội v.v... Tùy theo qui định của các triều đại, các trường thi gồm các kỳ: đệ nhất, đê. nhị, đệ tam, đệ tứ. Đỗ được tất cả các kỳ thi là đỗ thi Hương. Những người đỗ thi Hương đạt học vị Cử nhân và Tú tài (xưa gọi là Hương cống, Sinh đồ ). Số thí sinh kể có hàng nghìn, nhưng số lấy đỗ chỉ có 72 tú tài và 32 Cử nhân. Những người đỗ Cử nhân sẽ được bổ dụng ra làm quan, đầu tiên có thể được làm việc ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hơn. Những người đỗ Tú tài thì chưa được sử dụng đến, dó đó mà có nhiều người loay hoay thi cử nhiều lần để cố đạt cho được học vị Cử nhân. Lần thứ nhất đỗ gọi là ông Tú, lần thứ hai vẫn đỗ Tú tài thì gọi là ông Kép, lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là ông Mền (có nơi gọi ngược lại) v.v... cũng vẫn chưa được nhận chức vụ gì cả (trừ một vài trường hợp được tiến cử hay được nhà vua biết đến, nhưng cũng chỉ tuyển dụng vào các cơ quan chuyên môn chứ không vào chính ngạch quan cai trị ). 2. Thi Hội Kỳ thi Hội là kỳ thi ở cấp nhà nước. Số lượng thi Hội cũng rất đông, tất cả những người đã đỗ Cử nhân đều được dự thi. Có người đã ra làm quan cũng được thi để giành học vị cao và được bổ dụng cao hơn. Những người đỗ thi Hội đều vào thi một kỳ thi cuối cùng rồi mới chính thức nhận học vị. Kỳ thi ấy gọi là Thi Đình. 3. Thi Đình Gọi là thi Đình, có nghĩa là thi ở sân đình nhà vua. Nơi thi là một cái nghè lớn, nên sau này người ta thường gọi các vị vào thi là các ông nghè. Nhà vua trực tiếp ra đầu đề, và sao khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm sổ, chính nhà vua tự tay phê lấy đỗ. Có ba loại học vị trong kết quả thi Đình, được xếp vào ba cái bảng gọi là giáp: (chữ khoa giáp hay khoa bảng từ đây mà ra). a. Đệ I giáp: Những người giỏi 1 được ghi tên vào bảng này, gọi là các ông Tiến sĩ cập đệ. Bảng này chỉ lấy có 3 người đệ nhất giáp: đệ nhất danh, đệ nhị danh và đệ tam danh. b. Đệ II giáp: Những người được ghi tên vào bảng này gọi là các ông Tiến sĩ xuất thân. Còn một tên gọi khác để chỉ các ông này, gọi là hoàng giáp. Vậy những người đỗ hoàng giáp, tức là đỗ Tiến sĩ xuất thân, được ghi tên vào bảng thứ 2: đệ nhị giáp. c. Đệ III giáp: Trừ những người đỗ I giáp, nhị giáp ra, còn những người xuất sắc kah'c đều ghi tên vào bảng này, gọi là bảng đệ tam giác. Học vị của họ là đồng Tiến sĩ xuất thân (hoặc chỉ gọi gọn là đồng Tiến sĩ ) Tiếng thông thường gọi vị này hay vị kia là đỗ tam giáp, có nghĩa là đỗ đồng Tiến sĩ. Ở triều Nguyễn, còn có thêm học vị phó bảng, để ghi tên những người, thực ra học lực cũng xứng đáng là Tiến sĩ, nhưng vì có một thiếu sót đó nên không được ghi tên vào bảng chính, mà chỉ ở bảng thứ. Tuy vậy, đây vẫn là những người đã đỗ đại khoa, cũng vào hàng ngũ các ông nghè. Số lượng người đựơc ghi tên vào đệ nhất giáp, gọi là đỗ Tiến sĩ cập đệ, chỉ có 3 người. Người đứng đầu là Trạng nguyên, người thứ hai là Bảng nhãn, thứ 3 là Th'am hoa. Tên gọi ông Trạng, ông Bảng, ông Thám là từ đây mà có. Đỗ Trạng Nguyên là một vinh dự rất lớn. C'ac ông nghè, từ đời nhà Lê đã được tôn vinh. Có những lễ xướng danh, lễ vinh qui (vua ban cờ biển cho rước về huyện làng ) và được ghi tên vào bia đá đặc ở Văn Miếu. Đỗ TrTr.ng nguyên, tất nhiên được trọng vọng nữa. Đỗ Tiến sĩ, được bổ dụng đi làm quan, tối thiểu cũng làm quan tri phủ. Trạng nguyên, Bãng nhãn, Thám Hoa thì ở những chức vụ cao hơn.