Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn và hạnh nguyện nào cũng khiến tôi chân thành ngưỡng mộ. Ngày xưa, mỗi khi đọc tụng suy tư về hạnh nguyện cao cả của quý Ngài, thân tâm tôi cực kỳ khích động, tôi hân hoan, tôi kinh ngạc, tôi thần phục... rồi tự nhiên nước mắt tôi ràn rụa trong niềm hỷ lạc khôn nguôi. Gần đây, nhân tụng kinh Đại Bảo Tích, “Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi thọ ký”, chiêm ngưỡng hạnh nguyện của Ngài Văn Thù, tôi bỗng khám phá rằng niềm xúc động của tôi vẫn dạt dào cao ngất như thời trai trẻ không sai khác. Niềm tin tưởng Phật đạo của tôi gắn liền với lòng ngưỡng mộ chư Bồ Tát, do đó, tuy vẫn tự thẹn mình tài hèn, đức mỏng, chí khí kém cỏi nhưng bao giờ tôi cũng tha thiết mong ước hành được phần nào Bồ Tát hạnh, dù rằng tôi chỉ có thể thực hiện trong khả năng hạn hẹp nhỏ nhoi của mình. Thuở ban đầu học Phật, tôi rất cảm khích đại nguyện “địa ngục chưa trống không thì chưa thành Phật” của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nên thường nhủ lòng gần gũi với những kẻ lâm cảnh tù tội, những kẻ chìm trong tăm tối u mê... để an ủi, chia xẻ nỗi khổ với họ. Tôi cũng say mê hạnh nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát, lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để ban vui cứu khổ. Tuy cứu độ người mà tùy hỷ không câu nệ hình tướng, cứu người mà tùy thuận người... lòng từ bi của Ngài thật là bất khả thuyết, bất khả thuyết. Thời trung niên, đường đời trắc trở, tôi thường chiêm bái tượng Bồ Tát Di Lạc, tạc theo hình dáng của Ngài Bố Đại hòa thượng, với nụ cười hoan hỷ trước sự khuấy phá của sáu đứa nhỏ - lục tặc -. Tôi nguyện nương theo Ngài học tập hạnh hỷ xả - buông bỏ -, dẫu rằng hành vi thả lỏng sáu căn tiếp xúc không ngăn ngại với sáu trần mà lòng không xao động là chuyện thiên nan vạn nan tôi chưa bao giờ thực hiện nổi. Tuổi đời chồng chất, tôi bắt đầu biết nhìn lại mình, nhờ vậy ngày càng khám phá ra con người thật hư đốn của mình. Nhận thấy mình tội chướng sâu dầy, ngày đêm cần phải chân thành sám hối, nên tôi hết lòng quy ngưỡng Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, để tích cực tu tập vun bồi đạo đức. Thật ra, trong thập nguyện Phổ Hiền, thì ngay như đệ nhứt nguyện “Lễ kính chư Phật” tôi vẫn chưa thực hành nổi, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng nhờ nương theo Phổ Hiền Đại Nguyện tu tập mà đạo hạnh của tôi lần lần được cải sửa đôi chút. Nhân duyên tu tập “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” của tôi rất đặc biệt: khi tôi đọc tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện lần đầu tôi nghe rúng động cả toàn thân vì man mán như đã từng tụng phẩm kinh nầy nhiều lần tự kiếp nào rồi. Tôi chân thành tha thiết quy ngưỡng Bồ Tát Phổ Hiền, tương tợ như đứa con bơ vơ lạc lõng bỗng tìm về mái nhà xưa ấp ủ trong lòng mẹ. Do niềm tin kính vô biên với chư Bồ Tát mà trong các tập truyện của tôi, tôi thường nhắc nhở đến hạnh nguyện của chư Bồ Tát để tán thán, để ngưỡng vọng và chân thành hướng về quý Ngài để nương tựa mà tu tập. Tôi cũng tha thiết mơ ước hội đủ thiện duyên hành hương Trung Quốc, chiêm bái bốn đại danh sơn: Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà và Cửu Hoa, nơi mà chư cổ đức ca ngợi rằng chư Bồ Tát trong bước đường hành hóa đã từng xuất hiện. Ước mơ của tôi may mắn đã biến thành sự thật, tôi đã có phước duyên hy hữu chiêm bái tứ đại danh sơn vào mùa thu năm 1999, và tuy thời gian hành hương ngắn ngủi không thánh tích nào được chiêm bái đầy đủ, nhưng ở địa điểm nào tôi cũng xúc động dạt dào để dâng hiến tất cả lòng thành kính thiết tha của mình lên chư Bồ Tát, nên tôi đã mãn nguyện lắm rồi. Tập truyện nầy bắt đầu viết khi những hình ảnh của chư Bồ Tát và tứ đại danh sơn vẫn còn bàng bạc trong tâm khảm, tác giả hi vọng những hình ảnh hùng vĩ, thiêng liêng của thánh địa sẽ còn phản phất trong những mẩu chuyện đạo để ưu ái trao đến bạn đọc, mong bạn đọc có thể đón nhận được niềm tin tưởng vô biên vào đạo pháp vẫn tràn ngập trong lòng tác giả. Trân trọng.