Dịch giả : Nguyễn Hữu Kiệt
Chương 1
Một Gia Đình Nghệ Sĩ

Cuối thế kỷ 18, tại thành phố Naples miền Nam nước Ý, có một nghệ sĩ tài hoa tên là Gaetano Pisani. Y là một nhạc sĩ có thiên tài, nhưng không được sự ái mộ của công chúng, trong những nhạc phẩm của y có một cái gì lạ kỳ, ngáo ngổ, nó không phù hợp với cái thẩm quan của giới mộ điệu lúc đương thời. Y ưa những đề tài bí hiểm lạ lùng, và lồng vào đó những nhạc khúc êm dịu nhẹ nhàng, thánh thót du dương, nhưng thỉnh thoảng lại xen vào những âm thanh thác loạn điên rồ, nó gây cho thính giả một cảm giác hãi hùng sợ sệt. Cứ nghe quan những cái tựa các nhạc phẩm của y cũng có thể biết tính chất loại nhạc ấy là như thế nào, chẳng hạn như: "Buổi Tiệc Của Những Ác Phụ", "Những Mụ Phù Thủy Ở Benevento", "Orphée Xuống Địa Ngục" v.v.. và nhiều soạn phẩm khác nữa. Cũng may cho y, là Pisani không phải chỉ là một nhà soạn nhạc (vì nếu thế thì có lẽ y đã chết đói!), mà còn là một tay chơi đàn vĩ cầm có tài nghệ xuất sắc, nhờ đó mà y có thể sống phong lưu với tư cách một nhân viên trong dàn nhạc của đại Hí Viện San Carlo. Trong vai trò nầy, y được giao phó những công tác rõ ràng nhứt định, nó thu hẹp những cơn ngẫu hứng rồ dại của y trong một giới hạn hợp lý.
Người ta nói rằng y đã từng bị đuổi ra khỏi dàn nhạc ít nhất là năm lần vì trong những cơn ngẫu hứng bất thần, y đã gieo sự hoang mang kinh động trong hàng ngũ thính giả và gây náo loạn trong toàn thể ban nhạc với những biến điệu ngáo ngổ điên cuồng đến nỗi người ta tưởng rằng những mụ phù thủy và ác phụ, nguồn cảm hứng của y trong giới âm binh cô hồn, đã cào cấu những sợi dây đàn bằng những móng vuốt của họ! Tuy nhiên vì không thể kiếm được một nhạc sĩ nào tài giỏi hơn, ít nhất trong những lúc y bình tĩnh sáng suốt, nên Ban Giám Đốc Hí Viện buộc lòng phải thu nhận y trở lại. Sau cùng y đành an phận và chịu hãm mình gò bó với những điệp khúc đã vạch sẵn trong cuộc hòa tấu.
Pisani có vợ và một cô con gái đã gần đến tuổi trưởng thành. Bà Pisani là một người đàn bà Anh, trẻ hơn ông rất nhiều. Con gái ông tên gọi Kiều Dung, có một sắc đẹp lạ thường: sắc đẹp nầy là sự hòa hợp của những yếu tố trái ngược.
Nàng có một mái tóc vàng óng nuột còn phong phú và rực rỡ hơn cả những thiếu nữ miền Bắc Âu, nhưng đôi mắt màu nâu sậm của nàng lại chiếu một ánh sáng dịu hiền và hấp dẫn như các thiếu nữ phương Đông. Thật không lạ gì mà thấy cô con gái của nhạc sĩ tài hoa Pisani đã sớm biểu lộ sự thích thú về âm nhạc. Những khuynh hướng nầy đã phát triển đặc biệt nơi thính giác thẩm âm và một giọng hát thiên phú. Khi hãy còn là một trẻ thơ, nàng đã hát rất hay. Ngoài ra sự học vấn ở nhà trường, cha nàng còn nhờ các nhạc sư đồng nghiệp luyện tập cho giọng hát của nàng trở nên thành thục, và đồng thời cũng cho nàng theo học về môn kịch nghệ và diễn xuất trên sân khấu để chuẩn bị cho nàng vào giới ca kịch. Không bao lâu, nàng đã trở thành một mầm non đầy triển vọng tương lai và đã sẵn sàng bước vào cuộc đời nghệ sĩ.
 
Người Lạ Mặt
 
Năm ấy, Kiều Dung đã được mười sáu tuổi. Cả thành phố Naples đang bàn tán xôn xao vì một chương trình nhạc kịch mới sắp được trình diễn tại hí viện với sự xuất hiện của một nữ ca sĩ mới. Đó là vở ca kịch "Ngư Nữ" (La Sirène) của nhạc sĩ Pisani do ái nữ ông ta là Kiều Dung đóng vai đào chính.
Đêm trình diễn đầu tiên gồm nhiều lúc rất hồi hộp cho cha con nhạc sĩ Pisani. Trong màn thứ nhất, có một lúc mà hy vọng thành công có vẻ rất mong manh và rất đáng nghi ngờ.
Đó là lúc nhạc khúc hợp tấu bước vào đoạn có dẫy đầy những âm giai "phá ngang" và ngông cuồng, với những âm thanh vang dội chát chúa lỗ tai và gây một cảm giác rợn người! Một luồng dư luận bất mãn đã thì thầm một cách đáng ngại trong thính đường. Những diễn viên và dàn nhạc, vô cùng nhạy cảm đối với những phản ứng của thính giả, lấy làm lo ngại về sự thì thầm bất mãn đó. Vào giai đoạn quyết liệt, dường như họ không còn đủ tinh thần và nghị lực cần thiết để có thể cứu vãn cái tình hình bất lợi kia và để đạt tới sự thành công.
Trong mọi rạp hát, bất cứ một soạn giả hay diễn viên mới nào cũng đều gặp phải những kẻ đối thủ đáng ngại: những người nầy gồm một thành phần không đáng kể, khi mà một cuộc trình diễn được mỹ mãn tốt đẹp, nhưng họ lại là một trở lực nguy hiểm khi có điều gì bất ngờ xảy ra có thể phương hại cho sự thành công của vở kịch. Một tiếng còi huýt lên trong bóng tối, tuy nó chỉ lẻ loi thật đấy, nhưng sự im lặng không vỗ tay của thính giả dường như báo hiệu rằng sắp đến lúc mà sự bất mãn sẽ trở nên truyền nhiễm. Vào lúc nguy kịch đó, Kiều Dung, nữ chúa của bọn ngư nữ, lần đầu tiên xuất hiện từ trong động đá ở dưới thủy phủ. Khi nàng bước ra sân khấu, thì sự mới lạ của hoàn cảnh, sự thản nhiên lạnh lùng của thính giả, những lời bình phẩm đầy ác ý của những đồng nghiệp cạnh tranh, ánh sáng chóa mắt của những ngọn đèn, và hơn tất cả mọi sự, cái tiếng huýt còi ác nghiệt lúc nãy nó đã lọt vào tận tai nàng ở hậu trường, tất cả những điều ấy làm tê liệt tinh thần và khuất nghẹn giọng nói của nàng. Và thay vì một sự xuất hiện lộng lẫy, trang trọng, huy hoàng, làm nổi bật vai trò của nàng giữa sân khấu, thì vị nữ chúa của bọn ngư nữ lúc ấy chỉ còn là một cô gái bé thơ mặt mầy tái xanh, run rẩy và câm lặng trước những hàng khán giả đang chĩa những cái nhìn soi mói, khắc nghiệt, lạnh lùng vào nàng.
Vào lúc ấy, trong khi mà nàng cảm thấy không còn ý thức tự chủ được nữa, và với cái nhìn nhút nhát e ngại, nàng có vẻ như van lơn toàn thể thính giả đang ngồi im lặng, thì nàng chợt nhìn thấy trên khán đài ở gần sân khấu, một người lạ mặt đang chăm chú nhìn nàng. Cái nhìn ấy dường như một phép mầu, trong giây phút đã gây cho nàng một ấn tượng lạ lùng không thể nào quên. Gương mặt ấy như nàng đã từng gặp trong những cơn mơ mộng vẩn vơ của nàng từ thuở bé thơ. Nàng không thể nào tách rời đôi mắt nàng ra khỏi gương mặt ấy, và trong khi nàng mắc bận nhìn chăm chú người ấy, thì sự sợ sệt, lúng túng và do dự lúc ban đầu bỗng nhiên tiêu tan như mây khói. Thật vậy, trong cái nhìn của người lạ mặt, có một sự khích lệ, an ủi, đi kèm với một lòng từ ái dịu dàng khôn tả làm sưởi ấm cõi lòng nàng, hỗ trợ tinh thần nàng và tăng cường lòng tự tin của nàng lên đến mức độ cao tột. Bất cứ người nào, dù là diễn viên, kịch sĩ, hay diễn giả đã từng được khích lệ tinh thần bởi một cái nhìn đầy ưu ái trước một cử tọa đông đảo, sẽ hiểu được dễ dàng cái ảnh hưởng ấm áp, tốt lành và đột ngột mà cái nhìn và nụ cười của người lạ mặt đã đem đến cho người ca sĩ non nớt ấy.
Trong khi nàng còn đang nhìn với lòng tự tin lên cao, thì người lạ mặt bỗng đứng dậy như để nhắc nhở toàn thể cử tọa về cái thái độ ưu ái, lịch sự mà họ cần phải có đối với một nữ nghệ sĩ trẻ đẹp mới ra đời. Và khi nàng vừa cất tiếng thì toàn thể khán đài đều đáp lại bằng một tràng pháo vỗ tay hoan nghinh nồng nhiệt.
Đó là bởi vì chính người lạ mặt ấy cũng là một nhân vật rất được chú ý, và sự xuất hiện của người tại Naples gần đây đã gây nên một luồng dư luận phẩm bình sôi nổi trong khắp thành phố. Khi những tràng vỗ tay đã dứt, thì giọng hát của nữ chúa dưới long cung, rõ ràng, phong phú và không bị chận nghẹn bởi một chướng ngại nào, mới phát ra cái âm thanh truyền cảm du dương của nó. Kể từ khi đó, Kiều Dung bèn quên hết tất cả đám đông, thính giả trên toàn thể thế giới, tất cả, ngoại trừ cái thế giới huyền ảo mà nàng đóng vai nữ chúa lúc ấy. Sự hiện diện của người khách làm cho nàng không còn ý thức gì về ngoại cảnh ngoài vòng nghệ thuật diễn xuất của nàng. Nàng cảm thấy rằng gương mặt an tĩnh và đôi mắt sáng ngời đó đem đến cho nàng một nguồn cảm hứng và đức tin mãnh liệt mà nàng chưa từng có bao giờ, nó làm cho nàng trổ hết tài nghệ một cách vượt bực ngoài sức tưởng tượng của mọi người.
Sau cùng, tấm màn từ từ rơi xuống giữa những tràng pháo vỗ tay ồ ạt như giông tố. Toàn thể thính giả khắp nơi trên khán đài đều đồng loạt đứng dậy dường như đó chỉ là một người, và đồng thanh cất tiếng hoan hô tài nghệ nàng ca sĩ! Nàng từ từ bước tới hơi rung vì cảm động, và chỉ nhìn thấy có cha nàng trong đám đông! Các thính giả theo dõi cái nhìn long lanh ứa lệ của nàng, và họ liều hiểu ngay tư tưởng của nàng lúc ấy. Nàng đang nghĩ đến người cha thân yêu đã đào tạo nên cho nàng một sự nghiệp mà kết quả đầu tiên đã cho thấy rất nhiều hứa hẹn trong tương lai.
Khi rời khỏi sân khấu, nàng cũng nhìn một cách vô tâm về phía người khách lạ mặt lúc nãy. Nụ cười bình tĩnh và cái nhìn lặng lẽ của người dường như đã để lại trong quả tim nàng một dấu vết sâu đậm, gồm những ký ức mơ màng phức tạp lẫn lộn vừa vui vừa buồn...
Khi về nhà, bữa cơm chiều đoàn tụ gia đình hôm ấy thật là vui. Nhạc sĩ Pisani lòng đầy hứng khởi do bởi sự kích thích của rượu nho khai vị cũng như do sự thành công rực rỡ của cả hai cha con lúc ban chiều, bèn day lại phía Kiều Dung và nói với một giọng thật thà ngây ngô và hơi lố bịch: "Cha không biết phải cám ơn ai nhiều hơn. Con đã đem cho cha một niềm vui sướng rất lớn. Con hỡi, cha rất hãnh diện về con và cả về cha nữa!"
Đêm ấy, Kiều Dung trằn trọc ngủ không yên giấc, và đó cũng là lẽ tự nhiên! Sự thành công làm cho nàng say sưa ngây ngất, niềm hạnh phúc đến với nàng do bởi nàng đã làm cho kẻ khác được sung sướng, tất cả những thứ đó còn quý hơn là một giấc ngủ ngon. Tuy vậy, nhiều khi tư tưởng của nàng đã tách rời khỏi những ấn tượng đó để nghĩ đến đôi mắt ám ảnh cùng nụ cười ấm áp của người đàn ông không hề quen biết, nó có liên hệ trực tiếp đến sự thành công rực rỡ và niềm vui của nàng hôm nay.
 
Lời Cảnh Giác
 
Buổi trưa hôm ấy, Kiều Dung ngồi trước cửa nhìn ra bãi biển đằng trước mặt với những chiếc tàu buồm xa xa ở ngoài khơi. Khi nàng đang ngồi mơ mộng, một người kỵ mã từ trên đường cái đi qua trước nhà. Kiều Dung vừa ngước mặt lên nhìn, bèn lấy làm vô cùng xúc động mà nhận ra đó là người lạ mặt trong rạp hát chiều hôm trước.
Nàng bất giác thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, và người kỵ mã vừa quay đầu lại nhìn thấy nàng, bèn gò cương ngựa. Người ấy đứng yên một lúc ngắm nhìn gương mặt người đẹp lúc ấy hơi ửng hồng và cất tiếng nói với một giọng thân mật:
- Cô có lấy làm sung sướng về cuộc đời nghệ sĩ đang hé mở trước mặt cô hay chăng? Vào lứa tuổi trẻ như cô, nghe tiếng hoan hô khen tặng của người đời còn đậm đà thú vị hơn là nghe tất cả những bài nhạc của cô hát trên sân khấu.
Kiều Dung còn do dự, nhưng giọng nói dịu dàng và trong trẻo của người lạ mặt làm cho nàng thình lình cảm thấy phấn khởi tinh thần. Nàng bèn đáp:
- Thưa tiên sinh, tôi không biết hôm nay tôi có sung sướng không, nhưng hôm qua thì hẳn là có. Và tôi cũng cảm thấy rằng tôi phải cám ơn ông, tuy ông sẽ khó mà hiểu tại sao.
Người kỵ mã mỉm cười và nói:
- Cô lầm rồi. Tôi biết rằng tôi có góp phần vào sự thành công chánh đáng của cô đêm qua, nhưng chính cô mới là thật không biết lý do tại sao. Để tôi nói cho cô nghe: tôi nhìn thấy trong tâm hồn cô có một ước vọng cao quý hơn lòng kiêu hãnh của phụ nữ. Tôi chiêm ngưỡng nơi cô một cái gì thanh cao thuần khiết của người con gái. Có lẽ cô thích được tôi chiêm ngưỡng cái tính chất nghệ sĩ của cô hơn?
- Ấy, không phải thế đâu. thưa tiên sinh!
- Tôi tin lời cô. Và bây giờ, vì lẽ chúng ta đã gặp nhau, tôi cần khuyên cô một điều. Khi cô trở lại hý viện, tất cả giới thanh niên trai trẻ ở Naples sẽ quỳ mọp dưới chân cô. Họ sẽ đến với cô như những con thiêu thân nhìn thấy đèn sáng. Thương thay! Ngọn lửa chóa mắt của ngọn đèn cũng có thể đốt cháy đôi cánh của chúng. Cô hãy nhớ rằng sự ái mộ duy nhất nó không làm tổn thương, hoen ố, lại chính là điều mà những kẻ si tình ấy không thể dâng hiến cho cô. Dù cho những mộng tương lai của cô như thế nào, cô cũng phải nhớ là hãy lấy gia đình làm trụ cột. Đó mới là những mộng nên thực hiện!
Người ấy ngừng lại, Kiều Dung cảm thấy quả tim nàng đập mạnh. Nàng vẫn chưa hiểu rõ hết tầm mức quan trọng của những lời khuyên đó. Với sự xúc động tự nhiên và ngây thơ, nàng đáp:
- Thưa tiên sinh! Ông có biết đâu một mái gia đình vẫn là điều quý báu nhất đối với tôi!
Một nét mơ buồn thoáng hiện trên gương mặt người kỵ mã. Người ấy ngắm nhìn ngôi nhà yên tĩnh khuất dạng dưới tàn lá rậm rạp của giàn nho tươi, rồi đưa mắr nhìn những nét linh động trên mặt nàng và nói:
- Tốt lắm. Một quả tim đơn sơ thường là điều tốt nhất của con người. Chúc cô được sung sướng luôn! Chào cô nữ ca sĩ xinh đẹp!
- Kính chào tiên sinh... Ấy nhưng...
Một sự xúc cảm mãnh liệt, khó cưỡng lại được, gồm cả ngại ngùng và hy vọng, làm cho nàng bất giác thốt lên câu hỏi: "Tôi sẽ gặp lại tiên sinh ở hý viện San Carlo nữa chăng?"
- Chắc là phải sau một thời gian. Tôi rời khỏi Naples ngay ngày hôm nay.
- Ủa! Thật vậy sao?...
Kiều Dung cảm thấy tim nàng ngừng đập, ýnghĩ thơ mộng về sự gặp gỡ nơi hý viện đã biến tan
Người kỵ mã day lại vừa đặt bàn tay lên bàn tay nàng vừa nói:
- Nhưng trước khi chúng ta gặp lại nhau, có lẽ cô sẽ phải chịu đắng cay, cô sẽ trải qua những sự buồn khổ đầu tiên của cuộc đời, và được biết rằng mọi sự thụ hưởng vật chất trần gian không thể nào bù lại được sự mất mát của quả tim! Nhưng cô hãy can đảm và chớ có mềm lòng.
Cô hãy nhìn xem cái cây kia mọc từ trong kẹt đá chui ra. Thân cây bị đá che lấp, còi cọc, vặn vẹo, vẫn cố gắng vươn mình ra ngoài để tăng trưởng và vẫn có cành lá sum sê như mọi cây khác. Cuộc đời nó chỉ làmột cuộc tranh đấu không ngường để tìm ánh sáng. Ánh sáng, chính là cái nguyên lý cần thiết của sự sống! Tranh đấu cho ánh sáng, tức là sớm muộn gì cũng sẽ thực hiện được sự chinh phục ánh sáng! Cũng y như vậy, tranh đấu với bản thân để đạt sự an tịnh của nội tâm, với một ý chí kiên cường và quả cảm, bất chấp mọi va chạm xô xát của đau khổ và định mệnh, đó là điều đem tới sự minh triết, an lạc và hạnh phúc.
Trước khi chúng ta gặp lại nhau, cô sẽ có dịp nhìn lại nhiều lần những cành lá của cái cây còi cọc ấy. Cô hãy lãnh hội bài học ấy của thiên nhiên, và chính cô, cô hãy tự vạch lấy một con đường xuyên qua bóng tối để đi đến ánh sáng!
Người kỵ mã vừa nói câu cuối cùng vừa lặng lẽ ra đi, để Kiều Dung ngồi lại một mình với sự ngạc nhiên, câm lặng và u sầu vì lời báo trước một chuyện đau buồn trong tương lai. Tuy vậy, trong cơn buồn nàng vẫn cảm thấy sung sướng. Nàng đưa mắt nhìn theo người kỵ mã một cách vô tâm, và cũng vô tâm, nàng bất giác đưa cả hai tay ra dường như để gọi chàng trở lại. Có lẽ nàng sẵn sàng chịu trả với bất cứ giá nào để được thấy chàng quay trở lại, để được nghe lần nữa cái giọng nói trầm hùng, trong trẻo của chàng, để được cảm giác lần nữa cái bàn tay chàng đặt nhẹ lên bàn tay nàng.
Người lạ mặt noi theo con đường dài đưa đến các tòa lâu đài một bên những khu vườn hoa công cộng, và đưa đến những khu vực đông dân cư trong thành phố.
Một nhóm thanh niên trưởng giả chơi bời đang tựu họp ở phía trước cửa một nhà chứa bạc, bèn dang ra khi người kỵ mã đến gần. Đó là một nơi tiêu khiển công cộng được mở ra cho khách làng chơi vào hồi thời đó, những người giàu có sang trọng trong các giới quý tộc thường tới lui ăn chơi bài bạc tại đây.
Người kỵ mã đi qua trước mặt họ và hơi khẽ nghiêng đầu. Một người trong bọn cất tiếng nói:
- Nầy, có phải đó là tay cự phú Zanoni mà cả thành phố đều bàn tán đó chăng?
- Phải đấy, người ta nói rằng y có một tài sản khổng lồ không thể nào đếm cho hết!
- "Người ta" là ai? Họ căn cứ vào đâu mà nói thế? Ông ta chỉ mới đến Naples có vài ngày, và cho đến bây giờ tôi chưa tìm ra được một người nào có thể biết gì về nguồn gốc, xứ sở, gia đình, và điều quan trọng nhất là... tài sản của y.
- Đúng vậy, nhưng ông ta đến đây trên một chiếc tàu buồm lớn mà người ta nói rằng đó là chiếc tàu riêng của y. Chiếc tàu ấy chúng ta không thể thấy được từ nơi đây, nhưng nó bỏ neo ở ngoài bờ biển. Những tay chủ ngân hàng mà y thương lượng công việc đều nói một cách kín cẩn về những số tiền mà y giao phó trong tay họ.
- Y từ đâu đến?
- Từ một hải cảng nào đó ỏ vùng Trung Đông. Một người nhà của tôi được biết, do những thủy thủ dưới tàu của y nói lại, rằng y đã từng sống nhiều năm trong vùng nội địa của xứ Ấn Độ.
- Ừ, họ nói rằng bên Ấn Độ, người ta lượm vàng như lượm sỏi, và có những vùng thung lũng tại đó loài chim làm tổ bằng những viên ngọc bích để thu hút những com bươm bướm!
Đến đây, thì bá tước Thố Xa, ông vua cờ bạc, bèn xuất hiện. Chắc hẳn là y đã làm quen với những người kỵ mã giàu sang. Y có tật bị chất vàng thu hút cũng như đá nam châm hút sắt!
- À nầy Thố Xa, có những tin tức nào mới nhất về số vàng của Zanoni tiên sinh chưa?
- Ồ! Của ông bạn tôi hả? - Thố Xa nói một cách buông trôi.
- À! À! Các anh nghe chưa, bạn của y đó! - Đúng đấy. Ông bạn Zanoni của tôi sẽ đi La Mã trong vài ngày, y có hứa bận về sẽ hẹn ngày đến dùng cơm tối với tôi. Chừng đó tôi sẽ giới thiệu y với các bạn và với xã hội thượng lưu ở Naples. Các bạn biết chăng đó là một nhà quý phái sẽ mến nhất và vui tính nhất mà người ta có thể gặp!
- Anh hãy cho biết anh đã làm quen với y bằng cách nào?
- À! Ông bạn Bân Dư thân mến! Có gì lạ đâu! Y đang tìm một chỗ ngồi trên khán đài của hí viện San Carlo. Khỏi nói thì ai cũng biết rằng việc loan báo một chương trình ca kịch mới với một đào hát mới đã làm cho thiên hạ giữ hết chỗ trong rạp từ trước. Tôi được biết rằng Zanoni muốn có dịp thưởng thức tài năng của các nghệ sĩ thành Naples, và do bởi tính chất lịch sự quen thuộc của tôi đối với những ngoại nhân dòng sang nên tôi đã nhường cái "loge" của tôi cho y.
Y chấp thuận, tôi đợi gặp y vào lúc "ăng-trắc" y tỏ ra lịch sự và mời tôi dùng cơm tối tại tư gia. Chà chà! Y tiếp đãi sang trọng như ông hoàng! Chúng tôi thức rất khuya, tôi thuật cho y nghe những tin tức của thành phố, chúng tôi trở nên hai người bàn thân tình... và lúc chia tay ra về, y bắt buộc tôi nhận chiếc kim cương nầy như một món quà của y. Y nói: "Đó chỉ là đồ bỏ không đáng kể!" Nhưng các tay thợ kim hoàn ở đây đánh giá nó tới năm nghìn "bích-tôn!" Đó là đêm vui nhất của đời tôi từ mười năm nay!
Cả bọn đều vây chung quanh Thố Xa để chiêm ngưỡng hột kim cương của y. Một nhân vật có dáng vẻ nghiêm trang đạo mạo, đã làm dấu thánh giá hai lần trong khi nghe chuyện, bèn cất tiếng nói:
- Bá tước Thố Xa tiên sinh, ông có nghe chăng những lời đồn của thiên hạ về người lạ mặt ấy, và ông không sợ rằng nhận quà của y có thể đưa đến những hậu quả tai hại hay sao? Người ta nói rằng y là một nhà phù thủy, rằng y có vía xấu, và...
- Thôi, tôi xin ông hãy dẹp ngay tất cả những sự say mê tín cổ lỗ đó đi, - Thố Xa đáp một cách ngạo nghễ. - Sự dị đoan nhảm nhí đã lỗi thời, ngày nay là thời đại của triết lý và của sự hoài nghi. Dầu sao, những lời đồn đãi đó xuất phát từ đâu? Đây là nguồn gốc của sự tin nhảm! Một lão già ngu ngốc tám mươi sáu tuổi đã long trọng quả quyết rằng chính y đã nhìn thấy Zanoni cách đây bảy mươi năm ở tại Milan khi mà lão ấy hãy còn là một đứa trẻ. Hết thảy các bạn đều thấy rõ: Zanoni cũng chỉ vào lứa tuổi còn trẻ như anh và tôi thôi, phải chăng bạn Bân Dư.
Người khách kia nghiêm nghị nói tiếp:
- Ấy, chính đó mới là điều bí mật! Lão già Avelli tuyên bố rằng Zanoni không có vẻ thay đổi chút nào so với hồi mà lão thấy y tại Milan bảy mươi năm về trước. Lão còn nói thêm rằng, hồi y ở tại Milan dưới một cái tên khác, Zanoni đã xuất hiện với một cái phong độ giống y như bây giờ, cũng được bao trùm trong một màn bí mật tương tự, và tại đó một ông già khác cũng nhớ rằng đã từng gặp y các đó sáu mươi năm về trước ở bên xứ Thụy Điển!
Thố Xa đáp:
- Chà chà, đó chỉ là những huyền thoại! Người ta cũng nói y như vậy đối với tên bịp bợm Cagliostro. Tôi chỉ tin những điều đó khi nào tôi thấy hột kim cương nầy biến thành một bó rạ!
Y bèn nghiêm sắc mặt và nói tiếp:
- Vả lại, tôi coi Zanoni tiên sinh như bạn thân của tôi, và từ nay về sau, tôi sẽ coi như một sự mạ lỵ cá nhân bất cứ lời nói nào đụng chạm đến danh dự hay tổn thương đến tiếng tăm của bạn tôi.
Thố Xa vốn là tay kiếm sĩ cừ khôi mà cả nước Ý đều biết tiếng. Ông khách nghiêm trang, đạo mạo, mặc dầu lo lắng cho sự lành mạnh tâm linh của bá tước, đồng thời cũng lo ngại không kém cho bộ da của chính mình, bèn phóng cho bá tước một cái nhìn thương hại và bước qua cửa để đi lên phòng đánh bạc ở trên lầu.
- Ha ha! - Thố Xa vừa cười vừa nói, - lão già đó ganh tị với hột kim cương của tôi! Nầy các bạn! Các bạn sẽ tới dùng cơm tối với tôi chiều nay. Tôi cam đoan rằng tôi chưa bao giờ gặp một người bạn nào vui tính, dễ thương và lý thú như Zanoni tiên sinh!
 
Kiềm Mâu Đạo Sư
 
  Ở một vùng đồi núi hoang vu hẻo lánh ngoài thành La Mã, giữa những bãi gai góc và cỏ dạ, hãy còn di tích của một triều đại vua chúa của đế quốc La Mã. Tại đây, vẫn còn thấy những nền đá, gạch đã lở, những dãy cột trụ bằng cẩm thạch, có cái còn nguyên vẹn, có cái gẫy đôi hoặc sụp đổ, dấu vết những cung điện cũ của vị bạo chúa Néron.
Giữa cảnh hoang tàn đó, nhô lên một tòa nhà lầu cũ kỹ dựng lên từ thời Trung Cổ, nay là nơi trú ngụ của một nhân vật dị kỳ mà người ta được biết dưới cái danh hiệu là Kiềm Mâu đạo sư. Trong mùa hè nóng nực, bịnh sốt rét hoành hành dữ dội, người dân cư sống trong vùng đồng lầy nước đọng nầy phải di tản để tránh xa sơn lam chướng khí, nhưng Kiềm Mâu đạo sư vẫn cứ ở nguyên tại chỗ và vẫn sống an toàn giữa bầu không khí ôn dịch truyền nhiễm.
  Ông ta không có bạn bè thân thích hay thuộc viên nào ngoài ra những chồng sách vở và những đồ khí cụ khoa học. Người ta thường thấy y đi rảo một mình trên những ngọn đồi đầy cỏ dại, hoặc đi lang thang trên những đường vắng trong thành phố. Y đã có tuổi nhưng không lụm cụm hay có bịnh tật chi, lưng thẳng và đi đứng mạnh bạo dường như còn đương thời niên thiếu. Không ai biết y giàu hay nghèo. Y không xin ai trợ giúp, cũng không bố thí trợ giúp ai, y không làm điều quấy và dường như cũng không làm điều thiện. Đó là một người dường như không biết có thế giới bên ngoài, nhưng cái vẻ bề ngoài đôi khi cũng rất phỉnh lừa, và nó có thể che dấu sự minh triết cùng lòng nhân từ bác ái ở bên trong. Chính ngôi nhà lầu cổ lỗ đó, kẻ từ ngày nó bắt đầu có người đến cư trú, nầy là lần đầu tiên mà nó đón tiếp một người khách lạ, ấy là Zanoni.
Kiềm Mâu vá Zanoni cùng ngồi gần bên nhau và thảo luận với nhau một cách trang trọng. Một thời gian rất dài đã trôi qua kể từ khi họ gặp nhau lần cuối cùng, ít nhất là trong thể xác vật chất. Vì họ là những bậc siêu nhân, hiền triết, nên họ có thể gặp nhau bằng tư tưởng vào giao cảm với nhau bằng tinh thần, dẫu cho thể xác họ các biệt nhau hằng muôn dặm trùng dương. chí đến sự chết cũng không thể ngăn cách được những bậc siêu nhân!
Hai vị nói chuyện hàn huyên, trao đổi với nhau những tâm sự thầm kín, nhắc lại những chuyện cũ trong quá khứ, nhưng những kỷ niệm nầy lại gây nơi họ những phản ứng khác nhau. Trên gương mặt của Zanoni, mặc dù sự bình tĩnh thường nhật của y, người ta thấy biểu lộ những xúc cảm liên tiếp. Y đã sống lại cái dĩ vãng mà y đang ngắm nhìn, nhưng trên gương mặt lạnh lùng thản nhiên của Kiềm Mâu, không hề thấy biểu lộ một mảy may dấu vết nào về sự sướng khổ của lòng người. Đối với vị đạo sư nầy, dĩ vãng cũng như hiện tại, là một cái gì giống như cõi thiên nhiên đối với nhà hiền triết, hay quyển sách đối với người học trò: một cuộc sống tâm linh bình thản, một sự nghiên cứu tìm tòi, phân tích và ngắm trông trong thầm lặng, thế thôi!
Từ những việc trong quá khứ, họ nói sang những việc tương lai. Vào cuối thế kỷ 18, tương lai dường như đã trở nên một cái gì cụ thể, nó thể hiện ở khắp nơi trong làn sóng sợ sệt và niềm hy vọng của người đương thời, trong giai đoạn tiền Cách Mạng ở nước Pháp.
 
Một Giai Thoại Tiền Cách Mạng
 
Nhiều tháng sau đó, một buổi tối ở tại Ba Lê, vài nhà thượng lưu trí thức tiếng tăm nhất của thời đại đang tựu họp tại nhà một nhân vật cũng quý phái và hào sảng không kém. Phần nhiều các quan khách cùng đồng chia sẻ cái quan niệm chung của thời bấy giờ. Cũng như về sau có lúc mà người ta cho rằng không gì táo bạo cho bằng dân chúng, thì ngay khi đó có một thời kỳ người ta cho rằng không có gì thô bỉ cho bằng giai cấp quý tộc. Người quý phái sang trọng và vị lãnh chúa quyền thế nhất đều tuyên dương sự bình đẳng và xây dựng lý thuyết của họ trên sự tiến bộ xã hội.
Trong số những thực khách tối hôm ấy, có hầu tước Condorcet, hồi ấy đang lên tới tột đỉnh của danh vọng, ông ta từng giao thiệp với quốc vương nước Phổ, vừa là bạn thân của nhà văn hào Voltaire, vừa là nhân viên Hàn Lâm Viện của nhiều nước Âu Châu. Ông vốn con nhà quý tộc, cốt cách phong lưu và có tư tưởng Cộng Hòa. Ngoài ra, còn có các ông Malesherbes và Jean Silvain Bailly, đều là những nhân vật ưu tú có nhiều uy tín trong nước Pháp thời đó. Đó là những cuộc hội họp có tính cách văn nghệ, chính trị, rất được các văn nhân, trí giả hâm mộ và đến dự thường xuyên tại thủ đô Ba Lê. Sự góp mặt của nhiều vị mệnh phụ phu nhân thuộc dòng quý phái càng làm cho những cuộc hội họp ấy thêm phần thanh lịch, hào hứng và vui nhộn. Chính các bà phu nhân, mệnh phụ nầy là những người đã từng phát biểu những lời bình phẩm chỉ trích táo bạo nhất cùng những ý kiến và tư tưởng phóng khoáng tự do nhất.
Trong khi các vị quan khách đang thảo luận sôi nổi về tất cả mọi vấn đề thời sự, chính trị, văn chương, nghệ thuật... có hai người ngồi gần nhau riêng một góc trong phòng khách, nhưng không tham dự vào câu chuyện của mọi người. Trong hai người đó, có một người lạ mặt mới đến thủ đô Ba Lê, tại đây y đã được mọi giới chú ý và mời mọc do bởi tính chất hào hoa phong nhã, sự giàu có và những kiến thức rộng rãi của y. Còn người kia, một ông già độ bảy mươi tuổi, chính là thi sĩ trào lộng Jacques Cazotte, tác giả tập thơ "Con Quỷ Phong Lưu" (Le Diable Amoureux). Hai người nói chuyện riêng với nhau một cách thân mật và chỉ thỉnh thoảng mới biểu lộ sự chú ý của họ trong câu chuyện của mọi người bằng một nụ cười xã giao. Người lạ mặt nói:
- Phải đấy, chúng ta đã từng gặp nhau trước đây.
- Tôi không thể quên gương mặt của ông, nhưng không làm sao nhớ rõ là đã gặp ông trong trường hợp nào, - người kia đáp
- Để tôi giúp ông, ông có nhớ chăng có một thời kỳ do sự thúc đẩy của óc tò mò hoặc có lẽ do sự mong muốn học hỏi hiểu biết, ông đã xin gia nhập vào triết phái Huyền Môn của Martinez de Pasqualis?
- A! Có thể vậy chăng? Vậy ông cũng là đạo đồ của môn phái đó?
- Không. Tôi có tham dự những cuộc lễ, nhưng chỉ là để nhận xét ý nghĩa của nó mà thôi.
- Ông có thích sự học hỏi đó không? Riêng tôi, tôi đã dứt bỏ mọi ảnh hưởng của nói nó từ lâu?
Người lạ mặt một cách nghiêm nghị:
- Ông không có dứt bỏ ảnh hưởng đó chút nào. Vào giờ phút nầy, nó vẫn còn thấm nhuần nơi ông, nó đập trong quả tim ông, nó vận dụng lý trí ông, nó muốn biểu lộ qua lời nói của ông.
Rồi vừa hạ thấp giọng, người lạ mặt tiếp tục nói chuyện, nhắc lại vài cuộc lễ, giải thích ý nghĩa và đối chiếu với những giai đoạn trong cuộc đời của người kia. Người nầy vô cùng ngạc nhiên mà thấy một người xa lạ lại biết rõ tất cả những chi tiết bí ẩn về cuộc đời của mình. Gương mặt khả ái và hiền từ của ông lão từ từ sa sầm lại, và người ta thấy ông thỉnh thoảng lại đưa về phía người khách lạ một cái nhìn soi mói, tò mò và e ngại.
Bà quận công De Gramont thấy vậy, bằng một giọng tinh nghịch, bèn chỉ cho quan khách thấy gương mặt sa sần của nhà thi sĩ già. Hầu tước Codorcet bèn hỏi Cazotte:
- Ông có thể cho biết những lời tiên tri của ông về thời cuộc chăng, và ảnh hưởng của cuộc Cách Mạng đối với chúng ta như thế nào?
Cazotte rùng mình, mặt y tái ngắt, cặp môi run run, trán y toát mồ hôi từng giọt lớn. Các quan khách đều nhìn y một cách ngạc nhiên. Người lạ mặt vừa đặt nhẹ bàn tay lên tay ông lão vào nói:
- Ông hãy nói đi!
Cazotte bèn đanh nét mặt, đôi mắt lặng lờ nhìn vào khoảng không và với một giọng nói trống rỗng nghẹn ngào, y nói:
- Quý vị muốn biết ảnh hưởng của Cách Mạng đối với chính mình ư? Tôi sẽ nói cho quý vị biết! Hầu tước Condorcet, ông sẽ bỏ mình trong ngục tối, không phải dưới tay người đao phủ, mà do một liều thuốc độc. Còn bà chị Gramont quận công thì sẽ thọ hình trên đoạn đầu đài!
Condorcet đáp với một nụ cười dịu dàng:
- Hỡi bạn Cazotte đáng thương, các nhà giam, đao phủ và thuốc độc chắc sẽ phải bị dẹp bỏ với một thế hệ tự do, bình đẳng và bác ái đại đồng mà Cách Mạng sẽ đem lại cho chúng ta.
- Chính vì nhân danh tự do, bình đẳng và bác ái mà các nhà giam mới đầy nghẹt những tù nhân, và đao phủ quân sẽ làm việc không xuể!
Đến đây, trong khi mọi người còn đang xúc động và sửng sốt, thì nhà văn Chamfort bèn xen vào câu chuyện và nói:
- Còn tôi, ông có thể tiên tri về phần tôi điều gì?
- Ông sẽ tự tử để tránh khỏi ngục hình. Còn các ông Malesherbes, Aimar Nicolai và Bailly, thì tôi nhìn thấy dựng đứng trước mặt các ông một cái máy chém. Và dẫu cho đến lúc đó, hỡi quý vị, những người lên án hành hình các ông cũng không nói gì khác hơn là họ nhân danh những lý thuyết rất từ bi và nhân đạo!
Cơn im lặng trở nên thâm trầm và tuyệt đối trong gian phòng. Khi đó, La Harpe, một đồ đệ của Voltaire, là người nổi bật nhất trong những người theo phái Hoài Nghi, phát lên một chuỗi cười ngạo nghễ và nói:
- Hỡi nhà tiên tri! Xin ông đừng gạt bỏ tôi ra ngoài cái số phận của các bạn tôi. Phải chăng tôi cũng có một vai trò nào đó trong tấn bi kịch mà ông vừa đoán trước những diễn biến rùng rợn?
Gương mặt của Cazotte bèn mất đi những nét kinh hoàng phờ phạc lúc đầu, mà trở nên hóm hỉnh với một cái nhìn long lanh:
- Ừ, La Harpe, vai trò của anh sẽ lạ lùng hơn tất cả, anh sẽ trở nên một tín đồ... đạo Gia Tô!
Tất cả quan khách đang im lặng nghiêm trang, bỗng nhiên phát tiếng cười nghiêng ngửa, còn Cazotte thì dường như mệt mỏi nên vừa ngả mình trên ghế bành vừa thở dốc một cách khó khăn.
Bà quận công De Gramont nói:
- Bây giờ, sau khi ông đã tiên tri những điều kinh khủng cho chúng tôi, xin ông cũng tiên tri vài điều về định mệnh của ông chứ!
Nhà tiên tri bất giác run rẩy thân mình, sắc mặt tái nhợt, nhưng sau một lúc im lặng, gương mặt ông ta bình tĩnh trở lại, có vẻ như đành cam số phận và nói:
- Thưa bà, lịch sử có chép rằng trong trận đánh vây thành Jérusalem một người đã đi suốt bảy ngày vòng quanh bốn bức tường thành và kêu to: "Tai họa sẽ đến với Jérusalem! Tai họa cũng sẽ đến với tôi!"
- Rồi sao nữa, Cazotte... sao nữa?
- Đến ngày thứ bảy, trong khi y vẫn kêu như thế, thình lình một tảng đá do những máy phóng đá của quân La Mã bắn ra nghiền nát thân mình y ra từng mảnh vụn!
Nói đến đây, Cazotte đứng dậy ra về, và những quan khách, vô cùng xúc động về những lời tiên tri chẳng lành đó, cũng lần lượt giải tán.
 
Gặp My Cốt Lần Thứ Nhất
 
 Sau buổi hội họp tối hôm đó, khi người lạ mặt trở về nơi cú trú thì đã gần nửa đêm. Đó là một chỗ ở tọa lạc trong một cư xá rộng lớn. Những gian phòng ở dưới hầm cư xá nầy là chổ ở của những dân lao động nghèo, hoặc những kẻ du đãng côn đồ ngoài vòng pháp luật. Đôi khi, đó cũng là nơi ẩn náu của các nhà văn táo bạo, sau khi đã phổ biến trong dân chúng những lý thuyết hay những truyền đơn nẩy lửa để chống đối nhà vua, chế độ quân chủ và giáo hội, họ đến đây tìm nơi trú ẩn và làm bạn với chuột để tránh sự bắt bớ ngược đãi của nhà cầm quyền. Những gian nhà trệt và trên lầu là chỗ cư ngụ của những người thuộc đủ mọi giới, nghệ sĩ, công chức, hoặc các nhà quý phái...
Khi người lạ mặt bước lên thang lầu, thì một người thanh niên có một bộ mặt xấu xí và hình thù dị dạng từ một gian phòng bước ra và đi qua mau trước mặt. Y có một cái nhìn lấm lét, hung ác và gian trá, sắc mặt tái nhợt như màu tro xám, những nét trên mặt và làn môi hơi run dường như có sự gì bất an trong tâm hồn. Người lạ mặt ngưhg lại và nhìn theo dõi người thanh niên một cách suy tư. Trong khi đó thì chàng nghe có một tiếng rên từ trong gian phòng mà người thanh niên dị dạng vừa bước ra. Chàng bèn đẩy cánh cửa phòng ấy bước vào. Đó là một gian phòng nhỏ, bàn ghế sơ sài, kế bên là một buồng ngủ có vẻ luộm thuộm và thiếu tiện nghi. Trên giường là một ông lão đang nằm rên la quằn quại trong cơn đau đớn. Một ngọn nến bạch lạp chiếu ánh sáng lập lòe trên gương mặt nhăn nheo co rúm như cái xác chết. Không có ai trong phòng để canh chừng hay săn sóc ông lão, dường như người ta cố ý để cho ông ta ở đó một mình để trút hơi thở cuối cùng. Ông lão vừa rên khừ khừ vừa thốt ra những tiếng nói yếu ớt, đứt đoạn:
- Uống nước... Tôi khát quá... Cháy ruột. Cho tôi uống nước.
Người lạ mặt bước đến gần, khom lưng xuống gần kề ông lão và nắm một bàn tay ông ta. Ông lão lại vừa rên vừa nói:
- À! Hỡi My Cốt, con đã gọi bác sĩ lại đây à? Thưa ông, tôi nghèo, nhưng tôi có thể trả thù lao xứng đáng cho ông. Tôi chưa muốn chết vội, vì tôi còn phải lo cho người con trai nầy.
Kế đó ông lão cố ngoi mình dậy và băn khoăn nhìn người khách lạ bằng đôi mắt đã mờ.
- Ông làm sao vậy? Ông đang đau bịnh chi?
- Quả tim tôi đau nhói, ruột tôi nóng như lửa đốt. Tôi như nằm trên lò lửa!
Hồi chiều tới giờ ông có ăn gì không?
- Tôi chỉ ăn có một chén súp vào lúc sáu giờ. Cái chén hãy còn đây kia. Vừa ăn xong thì như lửa đốt trong ruột.
Người lạ mặt bước lại xem xét cái chén, dưới đáy chén hãy còn một chút cặn nước súp.
- Ai cho ông ăn chén súp nầy?
- My Cốt chứ còn ai! Tôi không có người giúp việc nhà. Tôi nghèo, thưa ông, nghèo lắm. Ấy không! Giới y sĩ các ông không cần lo cho kẻ nghèo! Tôi quên mất! Tôi có tiền. Ông có thể chữa trị cho tôi được không?
- Được nếu có Ơn Trên giúp. Ông hãy chịu khó chờ một lát.
Sức khỏe ông lão đã giảm sút rất mau chóng dưới ảnh hưởng khốc hại của chất thuốc độc. Người lạ mặt chạy về phòng mình và sau đó một lúc đã trở lại với một loại thuốc giải độc nó gây cho ông lão một phản ứng thuận lợi trong khoảnh khắc. Cơn đau đớn đã dứt, đôi môi không còn xám xịt và gương mặt đã có khí sắc trở lại, ông lão bèn thiếp đi trong một giấc ngủ mê man.
Người lạ mặt kéo màn khép kín giường ngủ cho ông lão, rồi ngồi trên ghế bên cạnh giường ở phía trong, tấm màn che khuất bên ngoài.
Đồng hồ vừa điểm hai giờ sáng, thì nghe có tiếng chân người ở ngoài cửa. Núp phía sau tấm màn như một bức bình phong, người lạ mặt nhìn thấy một người vừa mở cửa bước vào với một bước chân rón rén không gây một tiếng động: đó là người mà chàng gặp lúc nãy trên cầu thang. Người ấy cầm ngọn nến bạch lạp và bước đến bên giường. Ông lão nằm day mặt vào gối, hơi thở quá nhẹ đến nỗi không ai nhận thấy rõ, và người kia mới nhìn thoáng qua tưởng rằng ông lão đã chết. Y bèn quay trở ra với một nụ cười tinh quái hiện trên gương mặt, đặt ngọn nến trở lại chỗ cũ, móc túi lấy chìa khóa mở tủ và kéo từ trong hộc tủ ra nhiều thoi vàng nén. Ngay lúc đó ông lão thức giấc, mở mắt nhìn về phía ngọn đèn cầy sắp tắt trên cái chân đèn bằng đồng. Ông ta thấy tên trộm đang loay hoay cạy tủ, bèn ngồi nhổm dậy một lúc, rồi lặng người đi như trong cơn ngạc nhiên tột độ. Sau cùng, ông ta bước chân xuống đất và kêu lên:
- Trời đất hỡi! Phải chăng tôi đang ngủ mê? Mi đó ư? Vì mi mà ta chịu khó nhọc làm việc và sống trong cảnh cùng cực. Và nay, mi...
Tên trộm giật nẩy mình, làm rơi những thoi vàng lăn kềnh dưới đất rồi quay lại trố mắt nhìn, miệng há hốc, và bất giác thốt lên:
- Ủa! Lão chưa chết sao?
Ông lão thốt lên một tiếng, lấy hai bàn tay che mặt, và với một niềm xúc động mãnh liệt, ông ta kêu lên:
- My Cốt! Tao nghe lầm chăng? Mầy hãy lấy trộm, cướp của của tao nếu mầy muốn, nhưng mầy đừng nói rằng mầy muốn ám sát một người chỉ sống vì mầy! Vàng nầy mầy hãy lấy hết đi. Chỉ vì mầy mà tao đã ký cóp dành dụm bấy lâu! Mầy hãy lấy hết rồi cút đi!
Sau cơn xúc động và nói to tiếng, ông lão kiệt sức mệt lả và ngã quỵ xuống chân tên hung thủ. Ông ta nằm quằn quại dưới đất trong cơn đau khổ tinh thần, nó còn ray rứt bi thương hơn là cơn đau đớn thể xác mà ông ta vừa thoát khỏi. Tên ác ôn chỉ đứng nhìn ông lão với vẻ mặt lạnh lùng. Ông lão thở hổn hển và nói tiếp:
- Tao đã làm gì đối với mầy bấy lâu nay? Mầy là đứa con mồ côi và bị đời ruồng bỏ. Tao đã đón nhận mầy và nuôi mầy như con tao. Đời tao chỉ thương yêu có một mình mầy. Nếu tao hà tiện, ấy là để sau khi tao chết, mầy sẽ thừa hưởng được một sản nghiệp gia tài để khỏi bị đời khinh bạc hất hủi, khi mà trời sinh ra mầy có cái hình thù xấu xa dị dạng. Mầy nỡ nào giết tao, khi tao không còn sống được bao lâu nữa!
- Ông cứ sống lây lất mãi mà không chịu làm tờ di chúc!
- Trời ơi! Trời ơi!
- Lão già điên! Lão còn kêu trời nữa sao? Phải chăng lão đã dạy tôi từ khi còn nhỏ rằng không có ông Trời kia mà! Lão há chẳng dạy tôi môn triết học đó sao? Phải chăng lão đã nói với tôi: "Con hãy ăn ở tốt lành lương thiện và ngay chính để phụng sự nhân loại, nhưng sau cuộc đời hiện tại thì là hết, không còn gì nữa?" Nhân loại! Tại sao tôi phải thương yêu nhân loại? Hình thù xấu xí và mang ác tật như tôi, nhân loại chỉ có chế diễu và khinh thường tôi khi tôi đi ngoài đường! Lão đã làm gì tôi ư? Đối với tôi là một kẻ mạt hạng, cặn bã của thế gian nầy, lão đã làm cho tôi mất đi mọi niềm hy vọng nơi cuộc đời sau và một thế giới khác! A! Không có cuộc đời sau! Thế thì tôi muốn số vàng của lão, vì tôi muốn ít nhất hãy mau mau hưởng thụ, kẻo rồi không còn kịp thời giờ!
- Loài ác ôn! Tai họa sẽ đến với mầy, đồ vô ơn bạc nghĩa!
- Ai còn nghe lời nguyền rủa của lão? Lão đã biết rằng không có ông Trời! Lão hãy nghe đây: tôi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi việc để "chuồn". Nào giấy thông hành, ngựa đã đợi sẵn ở dưới...
Y vừa nói vừa lấy những thoi vàng đựng đầy các túi.
- Và bây giờ, nếu tôi để cho lão sống, thì có gì đảm bảo rằng lão không đi tố cáo tôi?
Nói đến đây, y tiến đến gần ông lão với một vẻ mặt hiểm ác rùng rợn. Ông lão đổi từ cơn giận qua cơn sợ hãi và toàn thân rung rẩy trước đứa ác ôn.
- Hãy để tao yên. Để tao sống để mà...
- Để làm gì?
- Tao tha tội cho mầy. Ừ! Mầy khỏi phải sợ gì cả. Tao thề tằng tao sẽ không đi tố giác mầy đâu.
- Lão thề à? Thề với ai và ai chứng cho lão, hử lão già? Tôi không thể nào tin lời của lão nếu lão đã không tin nơi Thượng Đế. Ha ha! Đó là hậu quả của những bài học triết lý mà lão đã dạy tôi!
Chỉ còn trong giây phút nữa là hai bàn tay sát nhân kia đã siết chặt cổ họng của ông lão. Nhưng ngay khi đó, giữa kẻ hung thủ và nạn nhân bỗng xuất hiện ra một nhân vật bí hiểm dường như xuất xứ từ một cõi vô hình, hay từ dưới lòng đất vừa chui lên! Đó là một nhân vật có cái phong độ đầy vẻ cao quý tôn nghiêm và đẹp một cách lộng lẫy huy hoàng, làm cho người ta phải kính nể. Tên hung thủ bèn lui lại, vừa nhìn người ấy vừa run sợ, rồi quay lưng lẻn chuồn mất ra ngoài cửa. Ông lão lại một lần nữa ngã quỵ xuống đất, bất tỉnh nhân sự.
 
Một Dự Cảm Khó Hiểu
 
Khi người lạ mặt trở lại phòng ông lão vào ngày hôm sau, thì thấy ông ta đã bình tĩnh, hầu như đã hoàn toàn bình phục sau những cơn xúc động, đau khổ và xáo trộn tinh thần trong đêm trước. Ông lão tỏ sự biết ơn đối với chàng về sự cứu tử với những lời lẽ rất thống thiết, và cho chàng biết rằng ông ta đã cho gọi một người thân thuộc đến để chăm sóc ông ta trong những ngày tàn lụn của tuổi già. Lão nói:
- Tôi cũng còn lại một ít tiền, và từ nay trở đi, tôi không có lý do gì để hà tiện nữa.
Kế đó, ông lão thuật đại khái đầu đuôi câu chuyện về mối liên hệ giữa ông và tên hung thủ đã muốn ám sát ông ta. Vì sống cô độc một mình và không con, ông ta mới nuôi một người con nuôi. Ông ta bèn chọn một đứa trẻ mồ côi trong giới hạ lưu thấp kém nhất của xã hội. Thân hình xấu xí và mang ác tật của đứa trẻ nầy trước hết gây cho ông ta một niềm trắc ẩn, và sau đó là một tình thương thật sự. Thấy đứa trẻ tỏ ra có năng khiếu về môn hội họa, ông ta mới cho nó học nghề với họa sư David. Đứa trẻ đã sớm có ý thức về hình dạng xấu xí của nó, một nét xấu thật là phản tự nhiên. Ông lão mới dùng lời lẽ triết lý để an ủi nó, nhưng vô hiệu. Nhưng khi ông ta dạy nó rằng ở cõi đời nầy, tiền bạc, cũng như lòng từ thiện, có thể che đậy vô số những điều thiếu sót bất toàn, thì đứa trẻ nghe một cách thích thú say mê và nhận thấy trong những lời lẽ đó một niềm an ủi thật sự. Từ đó, người cha nuôi nầy bỗng có một sự đam mê mãnh liệt là cố gắng thâu thập tiền bạc của cải để gây dựng một sản nghiệp gia tài cho người con đỡ đầu của ông, là người duy nhất mà ông ta thương yêu ở trên đời nầy. Thế rồi ông ta đã được đáp ứng lại một cách đích đáng, như câu chuyện vừa xảy ra!
Ông lão vừa lau mắt vừa nói:
- Tôi cũng lấy làm sung sướng mà để cho nó trốn đi. Dẫu cho nó xô đẩy tôi vào một hoàn cảnh cùng khốn hoàn toàn, tôi cũng không nỡ lòng nào đi tố giác nó.
- Không, bởi vì ông phải chịu trách nhiệm về những tội ác của nó.
- Ủa, sao lạ vậy? Tôi là người luôn luôn dạy nó sống một cuộc đời lương thiện và đạo đức kia mà? Ông nói sao?
- Than ôi! Nếu đứa con nuôi của ông, chính nó không nói rõ cho ông biết hồi đêm qua, thì dẫu cho thiên thần giáng thế cũng không làm sao chứng minh điều đó cho ông được!
Ông lão có vẻ lúng túng và sắp sửa trả lời, thì người thân quyến mà ông ta đã cho gọi đến nơi, đáng lẽ còn ở tận Nancy, nhưng tình cờ trong lúc ấy lại đang có mặt ở Ba Lê, bèn bước vào phòng.
Đó là một người độ trên ba mươi tuổi, có gương mặt xương xẩy khắc khổ, ít nói, đôi mắt luôn luôn nhìn láo liên không ngừng, cặp môi mỏng dính luôn luôn mím chặt. Người ấy vừa nghe ông lão thuật lại câu chuyện đã xảy ra vừa rồi, vừa bất giác thốt lên những tiếng kêu bất nhẫn, và cố gắng thuyết phục ông lão hãy tố giác tên bất lương. Ông lão nói:
- Thôi đi, chú Duy Mật, chú là luật sư, nên chú đã quen coi thường mạng sống con người. Hễ có kẻ nào vi phạm luật pháp là chú liền kêu lên: hay đem nó ra xử tử!
Duy Mật đáp với một giọng bất bình:
- Tôi hử, hỡi triết gia khả kính, ông xét lầm tôi như thế sao? Không ai từng phản đối bộ hình luật nghiêm khốc của nước Pháp như tôi. Quốc gia không bao giờ nên áp dụng án tử hình, dẫu cho để xử tội kẻ sát nhân. Tôi đồng ý với chánh trị gia trẻ tuổi Robert (Robespierre) khi ông ta nói rằng người đao phủ là một phát minh của những tay bạo chúa. Sở dĩ tôi thành thật tham gia Cách Mạng, chính là vì tôi tin chắc rằntg chế độ mới sẽ bãi bỏ sự tàn sát đó vậy.
Vị luật sư ngưng nói để lấy lại hơi thở. Người lạ mặt chăm chú nhìn Duy Mật rồi biến sắc. Duy Mật nói:
- Thưa ông, thái độ của ông cho tôi thấy rằng ông không đồng ý với tôi, phải vậy chăng?
- Xin lỗi ông, ấy là vì tôi đang muốn đè nén nơi tôi một cơn sợ hãi mơ màng nó có vẻ như một điềm báo trước!
- Và sự sợ hãi đó do đâu mà ra?
- Tôi có cái linh cảm rằng chúng ta sẽ có ngày lặp lại nhau, nhưng chừng đó thì những ý nghĩ của ông về sự chết và về triết lý cách mạng sẽ thay đổi!
- Điều đó thì... không bao giờ!
Ông lão nãy giờ đã vừa nghe vừa tán thành những lời nói của người em họ luật sư, bèn nói:
- Chú Duy Mật nói nghe được đấy. Tôi thấy chú có một quan niệm rất chính xác về công lý và lòng vị tha, biết thương người. Vậy mà từ bấy lâu nay tôi vẫn chưa được biết rõ chú đấy. Chú hoan nghinh Cách Mạng là phải, vì cũng như tôi, chú cũng ghét chế độ độc tài của nền quân chủ chuyên chế và sự giả dối tham lam của bọn quý tộc.
Duy Mật nói:
- Ghét bọn vua chúa và quý tộc là chuyện đương nhiên. Làm sao tôi có thể thương yêu nhân loại mà không ghét bọn ấy.
Ông lão có vẻ do dự khi ông nói tiếp:
- Và chú có nghĩ như ông khách nầy chăng, rằng tôi đã lầm lạc mà muốn truyền dạy những triết lý của tôi cho thằng khốn khiếp đó?
- Tự nhiên là không. Ai lại đi phiền trách triết gia socrate bởi vì người môn đồ Alcibiade phạm tội tà dâm và phản bội?
Ông lão bèn day lại người khách lạ và nói:
- Ông nghe chưa? Ông có nghe chú em họ tôi vừa nói đó chăng? Nhưng Socrate cũng là một Platon. Từ nay, chú sẽ là Platon của tôi.
Nhưng người khác lạ đã bước ra cửa. Ai còn muốn thảo luận với những kẻ khư khư cuồng tín, nhất là sự cuồng tín của kẻ vô thần?
Duy Mật kêu lên:
- Ông đi sao? Tôi chưa có thời giờ để tạ ơn ông về việc cứu tử cho ông anh họ quý mến của tôi. Nếu có dịp nào ông cần đến tôi, tôi nguyện sẽ ra công khuyển mã để đền đáp ơn ấy.
Duy Mật vừa thốt lên lời biết ơn vừa tiễn đưa người khách lạ ra đến cửa ngoài. Đến ngưỡng cửa, y vừa đưa tay giữ người khách vừa quay đầu nhìn lại phía sau để xem chừng, và nói thấp giọng:
- Tôi phải trở về Nancy để khỏi mất thời giờ. Thưa ông, ông có nghĩ rằng thằng bất lương kia đã lấy hết tiền của lão già điên nầy chăng?
- Thưa tiên sinh Duy Mật, Platon có nói lén Socrate như vậy sao?
- A! Ông nói móc họng tôi! Nhưng thôi, ông có quyền nói như vậy. Xin chào ông. Chúng ta sẽ gặp lại nhau một ngày khác.
- Một ngày khác! - Người lạ mặt thì thầm một mình, rồi bỗng dưng nét mặt sa sầm. Chàng hối hả trở về phòng, đóng cửa ở nhà một mình suốt ngày. Định mệnh của chàng có thể dính líu bằng cách nào đến Duy Mật và tên hung thủ đang bôn đào? Tại sao chàng cảm thấy bầu không khí của thành phố Ba Lê dường như phảng phất có mùi máu và chứa đầy sát khí? Một linh cảm gì khiến cho chàng thình lình từ bỏ cái xã hội phồn hoa vui tươi của thủ đô Ba Lê, trung tâm của Ánh Sáng, văn minh và hy vọng của thế giới để không bao giờ trở lại? Một đời sống siêu việt của một nhân vật đặc biệt như chàng làm sao có thể bị ảnh hưởng bởi thế cuộc xoay vần, khiến cho chàng phải băn khoăn lo ngại?
Dầu sao, chàng đã gác bỏ những dự cảm có tính cách báo điềm đó. Chàng bèn rời khỏi nước Pháp và trở về nước Ý xinh tươi êm đềm với những nơi thắng cảnh cổ tích hùng vĩ. Chàng lại trở về một lần nữa với Kiều Dung, người giai nhân trên bờ sông xanh Parthénope, gần ngôi cổ mộ của thi hào Virgile bất hả ở ngoại ô thành phố Naples đầy thơ mộng.
 
Lòng Người Trinh Nữ
 
Kiều Dung đã trở nên một nữ hoàng của sân khấu kịch nghệ, một thần tượng của giới hâm mộ ca nhạc và là trọng tâm mọi sự chú ý của tất cả thành phố Naples. Tuy nhiên, danh vọng cao sang vẫn không làm thay đổi bản tính giản dị và hồn nhiên của nàng. Nàng vẫn có thói quen ngồi chơi một mình trước ngưỡng cửa, phóng tầm mắt ra bờ biển, ngắm nhìn những chiếc buồm trắng xóa ở tận ngoài khơi và thả hồn trong thế giới mộng mơ. Đã bao lần nàng nhìn cái cây còi cọc vặn vẹo từ trong kẹt đá chui ra với những cành lá xanh tươi! Đã bao lần, trong cơn mơ mộng viễn vông, nàng đã soi gương tranh đấu của cái cây ấy mà cố gắng vươn mình ra ánh sáng, nhưng đây không phải là thứ ánh sáng đèn màu. Hỡi người con gái ngây thơ! Nàng hãy bằng lòng an phận với một ánh sáng trong lành. Trong một mái gia đình ấm cúng, một ngọn đèn dầu nho nhỏ có khi còn hữu ích hơn tất cả những ngôi sao trên trời.
Nhiều tuần lễ trôi qua, người khách lạ vẫn không thấy trở lại. Nhiều tháng cũng đã trôi qua, nhưng lời tiên tri về hoàn cảnh khổ đau của nàng chưa thấy thực hiện. Trong thời gian đó, đã xảy ra những cái tang trong gia đình: hai ông bà Pisani đã nối gót nhau qua đời, để lại một mình Kiều Dung mồ côi với một bà vú già gọi là Dì Nết, bà nầy đã săn sóc nuôi nấng nàng từ thuở lọt lòng mẹ, và từ nay sẽ là người tâm phúc của nàng.
Nhiều tháng buồn bã và dài lê thê cũng đã lại trôi qua. Cả thành phố Naples đều bồn chồn vì sân khấu nhạc kịch đã vắng bóng nàng quá lâu, và họ muốn đặt nàng lên ngai thần tượng trở lại để cho họ chiêm ngưỡng như trước. Thế gian, như con mực khổng lồ vươn nghìn cánh tay, luôn luôn muốn kéo ta ra khỏi cuộc sống riêng tư của mình để cuốn hút ta vào vòng cương tỏa của trần ai tục lụy. Thế là một lần nữa giọng ca thánh thót của Kiều Dung lại ngân vang trên sân khấu kịch trường. Tiền tài, danh vọng lại đến với nàng, nhưng không vì thế mà nàng thay đổi nếp sống giản dị, ngôi nhà khiêm tốn, và bà vú trung thành duy nhất của nàng. Nàng bị vây phủ chung quanh bởi bao nhiêu cạm bẫy, bao nhiêu những cám dỗ nó có thể khuynh đảo cái sắc đẹp không phòng vệ và sự nghiệp cầm ca nguy hiểm của nàng. Nhưng đức hạnh khiêm tốn của nàng đã giúp nàng vượt qua tất cả mà không bị ô nhiễm bởi cuộc đời gió bụi. Cha mẹ nàng lúc còn sanh tiền đã từng dạy cho nàng biết những bổn phận mà danh dự và tôn giáo bắt buộc phải có nơi người con gái. Bởi đó, bất cứ một sự tỏ tình nào mà không nói tới hôn nhân, đối với nàng là một sự sỉ nhục và liền bị từ chối ngay.
Trong sự ngây thơ chất phác của lòng người trinh nữ, nàng đã đặt cho mình một lý tưởng tình yêu chân thành. Cái lý tưởng đó đã thể hiện một cách vô ý thức nơi nàng trong hình ảnh và giọng nói, âm thanh của người lạ mặt đã có liên hệ trực tiếp với sự thành công đầu tiên của nàng.
Gần hai năm đã trôi qua kể từ khi người ấy xuất hiện ở Naples. Tất cả những gì người ta được biết về chàng là vài tháng sau khi chàng ra đi, chiếc tàu của chàng lại được lịnh lên đường tới một nơi vô định. Trong sự sinh hoạt nhộn nhịp của thành phố, đời sống của chàng mà người ta mô tả dưới những nét dị kỳ, đã hầu như bị lãng quên, nhưng quả tim của Kiều Dung vẫn không hề thay đổi. Thỉnh thoảng, người lạ mặt đã xuất hiện trong giấc mơ của người nghệ sĩ, và khi ngọn gió rít xuyên qua những cành lá của cái cây lùn và còi cọc bên thềm nhà thì nàng cảm thấy xúc động lòng dường như nàng nghe văng vẳng âm thanh của chàng.
Trong số những người ngưỡng một nàng, có một người mà nàng có cảm tình nhiều hơn những người khác, một phần là bởi vì y là người đồng hương với mẹ nàng, một phần cũng vì tánh rụt rè của y không có gì làm cho nàng phải ngại ngùng hay sợ sệt. Hơn nữa, giai cấp xã hội của y có vẻ gần gũi với địa vị của nàng hơn là những người quý phái giàu sang, và như vậy, sự ngưỡng mộ của y không có tính cách mỉa mai sỉ nhục như của hạng người sau nầy.
Sau cùng, với bản tính mơ mộng của người nghệ sĩ, y thường biểu lộ những tư tưởng hoàn toàn giống như những ý nghĩa thầm kín nhất của nàng. Nàng dành cho y một tình bạn, có thể là tình thương, nhưng đó là tình thương của một người em gái, và bởi đó giữa hai người có một sự qua lại trong thân tình. Trong sự giao thiệp thân mật đó, nếu trong quả tim của chàng nghệ sĩ Anh Quốc kia có chớm nở những hy vọng điên rồ hay vô lý, thì ít nhất y cũng không bao giờ thố lộ ra cho nàng biết.