hoa về huyện Phụ Dực thăm Vĩnh. Đường số 10 nhan nhản những hầm hố chưa kịp lấp, những nhịp cầu bị phá gục chưa kịp bắc, những chiếc xe tăng, cam nhông chạm mìn nổ tung nằm phơi xác bên đường hay văng xuống ruộng. Lâu lắm Khoa mới có dịp đi trên con đường này. Trời tháng tám, nắng còn gay gắt. Đồng ruộng bỏ hoang, cỏ dại chen nhau mọc. Mùi bùn ngai ngái đưa lên. Khoa gò lưng đạp xe, mồ hôi chảy ướt áo, nhễ nhãi mặt. Khoa không cảm thấy mệt. Khoa nghĩ tới lúc gặp Vĩnh. Từ ngày Vĩnh bỏ Hà Nội trở về quê ngoại, Khoa bặt tin Vĩnh. Khoa vẫn tự hỏi với mẫu người như Vĩnh thì cuộc sống sẽ ra sao ở miền quê heo hút bốn bề giăng giăng bom đạn. Hai năm rồi hai năm thương nhớ. Khoa hằng tin tưởng tâm hồn Vĩnh đã trang trải hơn xưa. Cuộc đời dễ chừng cũng ngưng dạy Vĩnh nhiều bài học se sắt. Khoa tưởng tượng Vĩnh đang cười thầm khi mọi người cười lớn. Ý nghĩ khôi hài ấy làm Khoa phấn khởi. Khoa huýt sáo một điệu hành khúc tiếp nhịp đôi bàn chân.Đến Vũ Hạ, đáng lẽ Khoa rẽ lối tắt ra bến đò Hạ sang huyện ly cho gần, nghĩ sao Khoa lại đi thẳng. Tới ngã tư Môi, Khoa dừng xe ngơ ngác kiếm tìm. Phong cảnh thay đổi cả. Chinh chiến vừa lướt qua để rơi rớt xuống mảnh đất này sự điêu tàn lạnh rợn. Xưởng máy của cụ cả Xưởng xiêu vẹo hằn lên từng vết đạn bắn nứt rạn tường dầy. Vài quán hàng theo khói lửa ra tro. Cơn gió tha hồ thổi qua, hàng tre, dãy nhà hết án ngữ. Khoa nhìn mãi mới nhận được con đường rải đá lởm chỏm dẫn vào huyện ly. Con đường nho nhỏ quen thuộc ngày xưa, bà Huyện, chị Hiền, Vĩnh, Bảo và Khoa ngồi trên xe song mã từ huyện ra ngã tư Môi đón ông Huyện ở tỉnh về. Ông Huyện đáp ô tô Thái Bình - Hải Phòng. Ông quen đi xe con Thỏ nên bọn Khoa, Vĩnh, Bảo hễ trông thấy xe con Thỏ dừng bến tạm ngã tư Mơi là vội vàng đổ xổ tới vì thế nào cũng có ông Huyện trong chuyến xe buổi chiều. Rồi người đón đưa vừa khuất bóng, nỗi buồn tìm đến ngay.Ngã tư Môi vốn đã quạnh hiu, bây giờ hiu quạnh gấp nghìn lần. Mắt Khoa cay cay nắng gió. Khoa thoảng gặp rất mơ hồ chiếc xe con Thỏ chở ông Huyện, chị Hiền, Bảo chạy vào quá khứ như khói lửa đưa ngã tư Môi vào kiếp nào xưa. Khói sầu tự nhiên đùn lên, lan tỏa. Khoa để hồn mình bay xa...Trống trường điểm ba tiếng cộc lốc. Học trò trường huyện ùa vào sân. Từng bọn năm ba người, họ rủ nhau đánh đáo, đánh quần. Lớp sơ đẳng chọn riêng khoảng sân góc trường. Lớp dự bị biết mình yếu đuối tìm chơi phía sau sân. Lớp đồng ấu bé nhỏ, chỉ đứng nhìn đàn anh bằng đôi mắt ngây thơ cảm phục. Ngổ ngáo nhất là học trò lớp nhì một và nhì hai, chiếm hết phần sân trước tranh nhau với các anh lớp nhất. Bọn này lớn tuổi, có anh đã có một vợ hai con nên tỏ vẻ độ lượng nhường nhịn. Vả chăng các anh cũng hết thích trò đá cầu, đuổi bắt... Vài anh thơ thẩn đuổi bướm vàng bên bờ dậu. Vài anh bàn chuyện đấu bỏng tròn giao hữu giữa Quỳnh Côi và Phụ Dực chủ nhật tới. Các anh chăm chỉ thì đọc sách dưới gốc bàng, thỉnh thoảng bứt hoa dâm bụt đặt lên vỗ kêu đôm đốp.Năm ấy, Khoa học lớp nhì một. Khoa học giỏi nhưng tinh nghịch. Mọi lần Khoa hò hét ầm ĩ, phá đám lung tung. Không biết tại sao hôm nay Khoa đứng im lặng trên thềm nhìn mấy con chim di líu ríu trên cành ngâu rồi nhìn ba chị em con quan huyện dưới gốc cây bẻ hoa dứt lá. Không ai dám tới gần ba chị em. Họ tới đâu thì ở đấy lánh xa chỗ khác bàn tán thầm thì. Khoa thấy lòng mình làm sao ấy. Tuy nhiên, Khoa chả mơ tưởng được chơi với con quan.Khoa nhớ buổi sáng thứ hai bốn tháng trước. Thầy giáo Thanh dồn chỗ học trò. Thầy dành riêng ba bàn đầu. Thầy bảo chỗ của con quan Huyện mới đổi về. Khoảng tám giờ, người lính lệ dẫn hai cậu bé trạc tuổi Khoa vào lớp, hai cậu rụt rè lo ngại. Thầy Thanh ân cần mời hai cậu ngồi bàn đầu. Hai cậu cách biệt đám học trò lớp nhì một bằng hai cái bàn gỗ lim bóng loáng, rắn chắc. Người lính lệ ra khỏi, thầy Thanh bắt đầu dạy. Bài “luân lý” sáng thứ hai là bài “tình nhân loại”. Lớp học yên lặng. Thỉnh thoảng hai cậu con quan ngoảnh xuống làm quen, biên giới bàn lim chắn lối. Đôi bận có người gặp đôi mắt quý phái nhìn mình, và nụ cười thì lại tưởng đôi mắt ấy vừa thu một hình ảnh ngô nghê của học trò trường Huyện và nụ cười kia là vẻ chế diễu, nên giả vờ cúi mặt.Tháng thứ nhất, tháng thứ hai, tháng thứ ba, tháng thứ tư bình thản trôi đi. Chưa ai biết tên con quan huyện kể cả chị học lớp nhất. Ba chị em cô độc. Chị học lớp nhất ưa mặc áo dái xanh lam còn hai cậu em mặc âu phục trái với Khoa và các bạn Khoa mặc áo dài thâm quần chúc bâu trắng. Khoa ở phố huyện đối diện dinh quan. Chiều chiều con quan ra phố chơi, đôi lần ghé vào hàng nhà Khoa mua vài thứ lặt vặt. Những lần như thế, Khoa chạy đi núp, len lén nhìn thấy cha mẹ lễ phép chào mời. Khoa lại càng tin rằng con quan ghê lắm. Trong lòng Khoa đâm chồi thù ghét ngấm ngầm tuy Khoa rất sợ hãi. Dần dần Khoa hối hận về sự hiềm tị vô cớ của mình. Con quan huyện có làm gì Khoa đâu. Ở nhà hồi bé bỏng, bà khoa hay kể cho Khoa nghe chuyện Tấm Cám. Khoa thương con Tấm cô độc, lủi thủi một mình chả ai chơi với, lại còn bị mẹ con con Cám hất hủi nữa. Khoa ngây thơ dám ví con quan như Tấm trong trường huyện. Vì thoang thoáng Khoa biết nhiều học trò ưa kể xấu con quan, nào là học dốt mà cũng nhất, nhì... Thoạt đầu Khoa cũng vào hùa, sau Khoa im lặng cho đến hôm nay. Khoa bỏ chơi đứng ngắm con quan. Và Khoa bỗng có cảm tình với chị học lớp nhất, cảm tình thầm kín ấy Khoa không dám giãi tỏ. Khoa chỉ rình lúc giờ ra chơi ngắm trộm chị em con quan.Trống trường lại điểm ba tiếng cộc lốc. Khoa chạy vụt xuống sắp hàng vào lớp.Thầy Thanh nghiêm giọng nói:- Lát nữa quan huyện đến thăm trường, các con phải tỏ ra lễ phép nhé! Dở sách ra, trang... bài... Sáng nay tập đọc thay cho cách trí.Học trò cậu nào cậu ấy xanh mặt sợ hãi, hồi hộp đợi chờ. Mãi tới 8 giờ quan huyện mới tới. Cả lớp đứng dậy. Quan vẫy tay cho ngồi xuống. Quan khuyên nhủ vài lời, rồi quan hỏi thầy giáo xem ai giỏi nhất lớp. Thầy giáo chỉ tay về phía Khoa. Quan huyện mỉm cười lấy tay ra hiệu. Khoa nhỏm lên như cái lò xo. Quan nói tiếng Việt khác với quan cũ và khác cả với ông thanh tra thích nói tiếng Pháp. Giọng quan hiền hậu làm Khoa đỡ run:- Tên con là gì?- Dạ, thưa quan lớn tên con là Khoa.- Tốt lắm, con ở đâu?- Thưa, con ở phố huyện.- Cha mẹ con làm gì?- Thưa quan lớn cha mẹ con buôn bán.- Giờ này con học bài nào?- Thưa quan lớn, tập đọc ạ!- Con đọc cho ta nghe.Khoa thong thả dọc bài “Cái thú nhà quê và cái thú kẻ chợ”. Hết bài, quan huyện hỏi:- Con thích ở nhà quê hay ở tỉnh?- Thưa quan lớn con thích ở nhà quê.- Tại sao thế?- Thưa quan lớn vì ở nhà quê mát mẻ, không khí trong sạch, nhiều ao hồ bơi lội, và câu cá...Quan gật đầu hài lòng. Quan nói tiếng Pháp với thầy giáo:- Il est très intelligent. Donnez-lui 9 points, monsieur.Quan huyện hỏi vài người nữa. Quan nhìn hai câu quý tử. Quan có vẻ bất mãn điều chi. Khi tiễn quan ra khỏi lớp, quan nói chuyện nhỏ với thầy giáo, thầy gật đầu vâng dạ.Sau ngày đó, học trò ngồi lại. Thầy giáo dồn chỗ lên hai bàn trống, thầy bảo Khoa ngồi cạnh con quan. Mấy bữa đầu ngượng ngùng bẽn lễn chả biết làm quen thế nào, Khoa đành câm lặng. Đến hôm thi vẽ, Khoa để quên bút chì ở nhà, được con quan cho mượn và tiện dịp con quan bắt chuyện Khoa. Tên hai cậu là Vĩnh và Bảo. Vĩnh là anh Bảo, tính tình điềm đạm, dễ yêu.Vĩnh, Bảo quấn quít lấy Khoa. Giờ ra chơi hai cậu lôi Khoa ra khoe với chị Hiền. Chi Hiền dịu dàng hỏi Khoa, vuốt ve Khoa và chị cho Khoa tiền. Khoa không lấy. Khoa thành bạn thân của Vĩnh, Bảo. Sự mong ước đã hiện hình nhưng Khoa mất bạn cũ. Buổi sáng Khoa không được kéo cờ, đánh trống. Thầy Thanh nhượng vinh hạnh ấy cho bạn Khoa. Cái phức tạp của cuộc đời bắt nguồn trong mạch sống vô lư. Những giờ ra chơi Khoa lủi thủi góc sân hay dưới gốc ngâu. Hôm nào Vĩnh, Bảo nghỉ học, Khoa lẻn xuống nhà ông tùy phải ngồi khóc. Sự lẻ loi của Khoa có duyên cớ. Khoa luôn luôn bên cạnh con quan, bạn bè ai dám chơi với Khoa nữa. Khoa bực mình. Khoa đau khổ. Chẳng hiểu tại sao người ta cứ tìm cách xa lánh nhau. Vĩnh, Bảo chị Hiền đều còn nhỏ, đều muốn nhập vào niềm vui của đám đông. Đám đông từ chối, đám đông khép cửa tình cảm như tên phù thủy lấp hang nhốt Aladin.Bây giờ Khoa không thả diều cùng bọn thằng Vọng. Không đi câu cá cùng bọn thằng Cung, không đi bắn chim cùng bọn thằng Vũ, không đi bơi lội cùng bọn thằng Căn. Chúng nó chế riễu Khoa. Khoa muốn khóc mỗi lần nghe chúng nói: “Thấy người sang bát quàng làm họ”. Khoa rơi trong sự cô độc chả khác chi Vĩnh, Bảo dạo nọ. Khoa chưa biết oán hờn nhưng Khoa buồn, buồn ở tuổi non dại. Khoa bỗng trở thành đứa ít nói, hay nghi ngờ và nhút nhát. Khoa đem chuyện bạn bè bỏ rơi kể với chị Hiền. Chị Hiền an ủi:- Thì Khoa vào dinh chơi với Vĩnh, Bảo. Cần gì chúng nó.Khoa ngần ngại nghe chị Hiền nói thế. Khoa vẫn cần bạn cũ. Thiếu chúng nó Khoa trống trải, cuộc đời thơ ấu nhạt nhẽo làm sao. Hai ba tuần, Khoa nằm lì xó nhà, mong bọn thằng Vọng hiểu dùm là Khoa thích chúng nó hơn con quan. Đến trường, Khoa lẩn trốn Vĩnh, Bảo, tìm bọn thằng Thuận, song chúng nó hắt hủi Khoa, chúng nó định đánh Khoa nếu thầy giáo không bắt gặp. Rồi buồn quá Khoa phải vào dinh quan huyện nô đùa với Vĩnh, Bảo.Chiều chiều, Khoa, Vĩnh và Bảo trèo lên chòi huyện xem người lính lệ đánh trống thu không. Tiếng trống từng tiếng một hòa cùng chuông chùa ngân nga trong nắng vàng úa sao mà cảm xúc thế! Khoa đứng bâng khuâng nhìn xuống huyện lỵ nghèo nàn. Những mái nhà lợp rạ nhuộm màu hoàng hôn, âm thầm chờ đêm tối. Đó đây có nhà đã thắp đèn. Vẻ âm u của huyện nhỏ rờn rợn tiếng chim bìm bịp kêu quanh thành chằng chịt dây bìm già. Ở đây trầm lặng. Nửa tháng mới có chuyến ô tô hàng già nua từ thị xã Thái Bình sang Ninh Giang. Xe thở phò phò như người hen, bóp còi inh ỏi mỗi khi qua huyện. Thỉnh thoảng xe bị chết máy ngay giữa phố. Tài, ét thay phiên nhau quay quay ma-ni-ven. Thường thường phải ngủ trọ một đêm, sáng hôm sau lại ỳ ạch lên đường. Những lần xe qua huyện, trẻ con, đàn bà đổ xô ra cửa đợi chờ. Xe lướt ngang, anh ét lẳng lơ vẫy tay, điểm nụ cười. Dân phố cũng cười nhìn theo niềm vui mất hút trong bụi đường mù mịt. Sự tịch mịch về chỗ cũ. Khoa lớn lên ở đấy, buồn ở đấy, tuy tháng năm thơ mộng chưa đáng buồn và bên bờ dậu bìm rất nhiều bươm bướm mùa xuân.Khoa hay rủ Vĩnh, Bảo, chị Hiền ra cánh đồng ngoài huyện. Những hôm trời ốm yếu, mặt trời đắp chăn mây u ám, xa xa dãy núi phía Kiến An hiện rõ hình con voi phủ phục mờ mờ trong sương. Chị Hiền hỏi:- Núi Voi ở Kiến An hở Khoa?- Chính ra Hòa Bình chị ạ! Nhung núi Voi Kiến An rõ hình con voi hơn. Hàng năm có hội vui đáo để.- Hội gì đấy Khoa?- Em cũng chả biết, mẹ em nói thế, mẹ em đã đi hội núi Voi vài lần.- Khoa hiểu nhiều nhỉ, quê mẹ chị ở đây mà chị có biết gì đâu. Nhà bà ngoại chị gần... gần chỗ nào Vĩnh nhỉ?- Để về hỏi me, em quên rồi...- Núi Voi phục còn gì lạ không Khoa?- Còn sữa mẹ chị ạ!- Thật à?- Vâng. Trong núi có một cái hang chúc từ trên cao xuống, mỏm đá hình vú mẹ. Nước từ khe nào nhỏ giọt không ai biết. Khách thập phương hứng lấy uống gọi là sữa mẹ. Được uống sữa ấy sẽ gặp nhiều điềm lành.Vĩnh lắng tai chăm chú. Bảo thả mắt rõi theo những chiếc xe tay chạy cách nhau trên đường Ninh Giang. Những chiếc xe nhỏ dần, vun vút mơ hồ như thời nào xa xôi lắm. Dạo ấy tâm hồn Khoa đã chớm mầm mơ mộng. Khoa dám thơ thẩn một mình giữa đồng không mông quạnh nghe gió heo may giải nhẹ trên thảm lúa xanh rì. Khoa đọc sách báo say sưa. Những nhân vật tiểu thuyết ám ảnh Khoa, dệt quanh vành mắt Khoa hình ảnh tươi đẹp mai hậu. Khoa cũng hay lang thang nẻo phố vắng, dừng chân nói vài câu với ông ký nhà dây thép rồi về nằm suy nghĩ bâng quơ. Trước, Khoa ăn no ngủ kỹ, Khoa có biết buồn là gì đâu. Từ ngày Vĩnh, Bảo đi vào đời Khoa, rồi bạn học ghét bỏ Khoa. Khoa thấy đau đớn và Khoa đổi tâm tính. Ở sự thay đổi xanh chua, Vĩnh, Bảo nhất là chị Hiền phả vào lòng Khoa từng điệu nhạc yêu thương êm ái.Khoa nhớ rõ một chuyện cảm động đến chết. Một buổi trên đường về học, thằng Văn gây sự đánh Khoa. Khoa nhường. Được thể Văn càng sỉ nhục. Tức quá, Khoa đấm nó sưng mắt. Thằng Văn là con ông cai Trá. Bố nó làm bộ lắm. Phố huyện ai cũng nể. Bố nó lại hay xoay tiền. Khoa sợ hãi bỏ cơm sáng đó. Quả nhiên, đến chiểu ông cai Trá dẫn thằng Văn ra bắt đền. Ông ta dọa se trình quan bỏ tù cha Khoa. Mẹ Khoa khóc lóc van lạy. Ông ta còn nói gì ghê gớm nữa. Khoa nghe chẳng hiểu kịp nhưng cha Khoa tải mặt. Cha Khoa xin lỗi, xin đền tiền. Ông cai Trá từ chối, đe dọa:- Anh tưởng con anh chơi với con quan à? Tôi sẽ trình quan xử tội của anh, cứ gọi là rũ tù...Xong, ông cai Trá bỏ về. Mẹ Khoa lôi Khoa ra đánh. Đánh xong, phần thương con, phần nghĩ tới ngày mai đen tối, mẹ Khoa nằm lăn trên giường khóc sướt mướt. Cha Khoa ngồi im lặng thở dài. Khoa hối hận. Giá Khoa đừng đánh thằng Văn. Khoa tưởng tượng lính huyện trói tay cha Khoa lôi vào ngục. Mẹ con Khoa sẽ đói rách. Khoa sẽ phải bỏ học, sẽ dốt nát ngu si. Khoa nghĩ tới Vĩnh; Bảo, chị Hiền, ánh hy vọng lóe lên rồi tắt ngay vì âm hưởng rờn rợn lời ông cai Trá còn văng vẳng đâu đây. Khoa úp mặt vào tay nức nở...Sáng sau Khoa ở nhà. Tan học, Vĩnh, Bảo, chị Hiền tưởng Khoa ốm ghé vào thăm, cảnh tượng tiêu điều của gia đình Khoa làm chị Hiền ngạc nhiên. Chị hỏi nguyên cớ. Khoa chỉ khóc. Mãi rồi mẹ Khoa mới kể lại. Mắt mẹ Khoa đẫm lệ. Chị Hiền nghe chuyện, mặt chị biến sắc. Chị có vẻ giận dữ.- Không sợ đâu, Khoa bảo mẹ đừng khóc nữa.- Thằng cai Trá hỗn láo thế cơ mà? Vĩnh nói, để bảo ba đuôi cổ nó đi, cho nó vào tù.Bảo đến gần an ủi bạn:- Vì thế Khoa nghỉ học hả? Chiều đi nhé! Đi xe với Bảo thì chúng nỏ hết bắt nạt.Khoa vẫn khóc, chị Hiền dục em về ngay. Lát sau chị Hiền trở ra, có cả ông cai Trá và thằng Văn nữa. Ông cai Trá xin lỗi cha mẹ Khoa, ông vờ vĩnh bảo vì không hiểu chuyện. Hôm sau ông ta bị đổi về huyện Thư Trì xa lơ xa lắc. Khoa lại đi học. Bảo đứng giữa sân trường nói lớn:- Đứa nào bắt nạt Khoa, tao bảo lính đánh chết.Chị Hiền mắng Bảo cái tội ngông nghênh. Vĩnh nắm tay giơ lên đe dọa cả trường, học trò trường huyện im thin thít. Khoa sung sường lịm người, chẳng ai dám trêu Khoa. Lúc này Khoa đi học, về học chung xe với chị em Vĩnh. Cha Khoa cứ khen mãi chị Hiền. Chuyện lan khắp huyện. Mọi người bắt đầu nhận xét và đều suýt soa quan huyện mới tốt, công bình, thanh liêm...Tự đấy sợi dây luyến ái ràng buộc Khoa với ba người. Khoa ăn ngủ trong huyện, ít khi về nhà. Ông bà huyện thương Khoa, chị Hiền mến Khoa. Những buổi tối học xong, chị Hiền hay đùa:- Khoa giỏi thế ít nữa làm quan như ba chị, khối người muốn lấy.Khoa ngây thơ:- Lấy gì cơ chị?- Lấy làm chồng chứ lấy gì, cậu cả.Khoa xấu hổ:- Em, em chịu thôi. Em không thích làm quan.- Sao thế?- Làm quan khó nhọc lắm chị ạ! Lại nhiều người sợ mình nữa.- Lớn lên em định làm nghề gi?- Em muốn viết văn.- À, mộng văn sĩ hở, thảo nào giỏi luận. Thử tả nắng chiều chị nghe nào.- Nắng chiều khó tính như ông cai Trá đe dọa loài người ta vào đêm tối như đe dọa cha em vào tù.Chị Hiền phá lên cười. Ông huyện khen Khoa khôi hài dí dỏm. Bà huyện cứ tiếc không có con gái út. Vĩnh được thể khoe:- Khoa làm thơ đấy me ạ!Bảo đưa đẩy:- Khoa kể chuyện hay lắm cơ ba ạ! Khoa kể chuyện giọt lệ tím của nàng tiên đi Khoa.Chị Hiền nói:- Thôi đừng trêu cậu cả nữa, sắp đỏ mặt bây giờ...Khoa đỏ mặt thật. Khoa nghĩ nhiều về chị Hiền. Khoa định hỏi tại sao chị thích mặc áo xanh lam. Chị Hiền lớn rồi. Bằng tuổi chị vô số cô đi lấy chồng mà chị vẫn đi học. Khoa sực nhớ ở cái huyện ly tồi tàn này thì ai dám ước mơ chị Hiền. Dạo tết, quan huyện Quỳnh Côi sang chơi mang theo cả cậu con trai, Vĩnh thì thầm anh ta học tú tài muốn lấy chị Hiền nhưng chị Hiền chê anh ta xấu trai. Tội nghiệp chị, nơi nghèo nàn còm cỏi này dễ gì đã nương nổi mộng ước của chị. Khoa đã thấy mối sầu đay nghiến các cô gái lớn lên tháng năm đợi chờ bóng người lý tưởng rồi thời gian làm tàn phai mộng ước. Đấy là những cô gái trong tiểu thuyết Khoa đọc, khi về già ngồi bên song nhìn nắng vàng nhỏ giọt buổi chiều. Biết đâu chị Hiền chả ngồi trên chòi canh nghe trống thu không não nuột mà tưởng tượng chuyện đời. Khoa chưa biết ngắm con gái. Nghe mẹ nói chị Hiền đẹp thì cũng bảo chị đẹp. Mà chị Hiền đẹp thật. Vẻ đẹp của chị bao trùm tâm hồn Khoa chuỗi ngày lạc loài ở huyện Phụ Dực.Khoa có bao nhiên kỷ niệm gửi trong mắt chị Hiền, trong nụ cười Vĩnh, Bảo. Kỷ niệm tha thiết in hình vào miếng nắng, vào hàng cây, vào viên gạch huyện đường. Trọn đời, Khoa sẽ nhớ những buổi câu cá dưới gốc cây si nghe chị Hiền kể chuyện ma. Khoa sẽ nhớ bánh rán Ninh Giang mỗi bận chị Hiền qua đấy mua về. Khoa cũng không thể nào quên được manh áo len tím chị Hiền đan tặng nhân mùa lạnh, và nhất là tình thương mến chị Hiền trao Khoa. Người mẹ mớm cơm cho con mau lớn như chị Hiền mớm tình cảm cho Khoa chóng biết mơ mộng. Khoa mong ước sau này Khoa bước xuống cuộc đời gặp nhiều chị Hiền để ông cai Trá khỏi nhốt tình thương trong ngục tối. Và Khoa đâm ra ích kỷ, Khoa cầu nguyện đất trời cứ thế này mãi mãi. Chị Hiền đừng đi lấy chồng. Chị đi lấy chồng thì chị đem cả hành lý yêu thương theo chồng làm gì còn thừa cho Vĩnh, Bảo, Khoa nữa.Nhưng rồi chị Hiền cũng đi. Đầu mùa hè năm sau, ông Huyện đổi sang tỉnh khác. Ông Huyện đi, cả huyện Phụ Dực nuối tiếc. Khoa được tin buồn không ăn, đứng ngồi không yên. Khoa biết chả bao giờ còn những buổi chiều ngồi xe song mã với bà Huyện, chị Hiền, Vĩnh và Bảo trên đường từ huyện lỵ tới ngã tư Môi đón ông Huyện về chuyến xe con Thỏ nữa. Những người bạn tốt bỏ Khoa sống cô độc ở đất cũ, âm thầm như mái nhà lợp rạ nhuộm màu hoàng hồn chờ đêm tối. Hôm tiễn chân gia đình ông Huyện, chị Hiền tặng Khoa bức ảnh chị chụp dưới giàn hoa thiên lý. Khoa đón nhận rưng rưng nước mắt. Vĩnh và Bảo ôm lấy Khoa nức nở. Bà Huyện cho Khoa tiền. Khoa lắc đầu chỉ xin cái áo len xanh lam của Vĩnh đễ nhớ màu áo chị Hiền. Lúc biệt ly không nói được nhiều. Khoa tặng chị Hiền quyển vở luận trong ấy toàn những bài Khoa được tám điểm. Chuyến xe già nua chở gia đình quan huyện giã từ huyện lỵ nghèo nàn. Khoa nhìn kỷ niệm lướt dần. Xe mất hút trong bụi đường mù mịt. Khoa chạy theo, bàn tay có vẫy nhau, không ai trông thấy gì.Khoa đến lớp côi cút. Bàn dầu còn một mình. Bạn học lãnh đạm, thầy giáo hết yêu. Vĩnh, Bảo xa rồi, sự cô độc xâm chiếm hồn Khoa. Khoa càng nhớ chị Hiền. Cha Khoa chừng cũng sợ ông cai Trá nào đó nên bàn với mẹ Khoa đi nơi khác. Ba tháng sau khi quan huyện đổi sang Nam Định, gia đình Khoa về quê cũ huyện Vũ Tiên. Khoa chẳng biết địa chỉ của Vĩnh để viết thư. Chẳc chị Hiền đã gửi thư cho Khoa về Phụ Dực.Khoa học ở thị xã Thái Bình, trọ nhà chú thím. Thị xã vui nhưng không thấy núi Voi Kiến An mỗi lần trời trở bệnh. Học trò tỉnh ưa mặc áo trắng. Khoa chưa gặp cô nào có áo xanh lam như của chị Hiền. Tháng ngày nối tiếp trôi. Qua năm học lớp nhì hai, Khoa lên lớp nhất, sắp thi cử thì đảo chính Nhật. Rối loạn mãi cho đến cách mạng tháng tám, rồi toàn quốc kháng chiến. Thị xã được lệnh tiêu thổ. Khoa về làng bên bờ sông Trà Lý cuốc bộ mỗi ngày 15 cây số đi học. Khoa vẫn nhớ chị Hiền, Vĩnh, Bảo.Ngày cách mạng nổi lên, vô số quan huyện bị đem ra xử tử. Không biết ba chị Hiền có việc gì không. Khoa tưởng tượng tới lúc người ta bịt mắt quan huyện lại rồi người ta bắn. Bắn chưa chết người ta đến gần kề súng vào tai bắn thêm vài phát nữa. Máu, óc phọt ra ghê rợn. Khoa đã được xem xử tử tên Ban việt gian, tay sai cho phát xít Nhật ở cổng Vọng Cung. Nghĩ mà sợ.Lang thang ngoài hậu phương mãi tới độ Pháp chiếm Thái Bình, gia đình Khoa về tề. Sự học dang dở, hoàn cảnh túng bấn. Khoa lên Hà Nội trông coi cửa hiệu giúp đỡ người bà con để có cơm áo học thêm. Khoa học trường Chu văn An buổi sáng, buổi chiều ngồi bán hàng. Một hôm tình cờ Khoa gặp Vĩnh tha thẩn ở bờ hồ. Vĩnh già dặn hơn hồi xưa nhưng Vĩnh buồn ghê gớm. Khoa gọi Vĩnh, Vĩnh giật mình quay lại. Nhận ra Khoa, Vĩnh bỡ ngỡ. Sự ngần ngại thoáng hiện trên mặt Vĩnh, Khoa biết rõ tại sao. Thời gian thường làm người ta nghi ngờ cả tình cảm. Không đợi Vĩnh chào hỏi, Khoa dang tay ôm chặt lấy Vĩnh, mừng rỡ.Khoa rủ Vĩnh tới quán mụ Béo ngồi tâm sự. Vĩnh thuật chuyện gia đình Vĩnh từ khi đổi sang Nam Định. Vĩnh nhớ Khoa. Chị Hiền, Bảo nhắc Khoa luôn. Năm cách mạng cha Vĩnh bị bọn người quá khích phá cổng huyện đường xông vào đâm chết. Hôm sau mới có lệnh khoan hồng gửi về. Cha Vĩnh chết oan. Bảo mắc bệnh thương hàn chữa mãi không khỏi. Bảo chết trước cha nửa năm. Chị Hiền đã lấy chồng. Chồng chị là sinh viên trường luật. Ngày khói lửa lan tràn, chồng chị gia nhập bộ đội chống Pháp. Chị Hiền bị Tây bắt trong trận hành quân qua làng, bọn lê dương thay phiên hãm hiếp chị đến chết. Chiến tranh tán phá đời chị. Vĩnh và bà Huyện chạy mãi, rồi loạn ly đưa mẹ con về quê ngoại Phụ Dực. Me Vĩnh bây giờ như người mất hồn, mắt bà bị lòa. Bà gửi Vĩnh sống với chú để Vĩnh học hành. Vĩnh kể nhiều lắm, giọng Vĩnh sầu thảm. Những hình ảnh chính, Khoa vừa chụp. Ghê rợn. Khó mà tưởng tượng. Cõi đời nhiều khúc rẽ tàn nhẫn. Câu cuối cùng chuyện nhà, Vĩnh nói:- Phải chứng kiến lưỡi kiếm đâm từ ngực xuyên qua lưng ba Vĩnh. Phải thấy ba Vĩnh giẫy giụa trên vũng máu. Phải thấy me Vĩnh chết ngất trên thây ba. Phải thấy xác chị Hiền trần truồng. Phải thấy mắt chị trợn trừng uất hận mới hiểu cách mạng và chiến tranh. Tại sao những người hiền lành lại phải chết khốn nạn thế nhỉ?Khoa cảm động nắm tay Vĩnh, an ủi. Vĩnh cười khinh bạc:- Xong rồi. Vĩnh lớn ở đấy nhưng Vĩnh chả làm gì được đâu. Cuộc sống sao không chỉ có Khoa? Tội nghiệp ba Vĩnh, chị Hiền.Khoa im lặng nhìn sự đau khổ xếp tầng trên trán Vĩnh. Ngày xưa hoa bướm nhởn nhơ quanh dậu bìm. Hoa ngày nay kết trái chua chát, bướm hóa thành con sâu buồn đục tim phổi hại người trai trẻ. Ngồi mấy tiếng nhìn xuống đáy cóc tìm dĩ vãng. Chuông nhà thờ đổ dồn. Vĩnh dìu Khoa ra đường. Hai người đi bộ hết phố này sang phố khác. Nửa đêm Khoa đưa Vĩnh về nhà Vĩnh. Khoa ghi địa chỉ trao Vĩnh hẹn Vĩnh lại chơi luơn. Lúc, chia tay Vĩnh hỏi:- Còn nhớ Phụ Dực không?- Còn.- Nhớ nhất cái gi?- Cái lão cai Trá.- Gì nữa?- Áo màu xanh lam của chị Hiền.- Gì nữa?- Nụ cười của Bảo.- Gì nữa?- Con ma ở cây si.- Hôm nào ôn hết chuyện ngày xưa nhé?- Ừ, hôm nào nhắc lai một thể.Vĩnh đến tìm Khoa một buổi chiều. Trời lạnh gay gắt. Vĩnh mặc tấm áo mỏng manh. Nét mặt Vĩnh thiểu não. Vĩnh móc túi đưa Khoa xem lá thư viết bằng giấy học trò.- Thư của me Vĩnh đấy, xem đi. Me Vĩnh biết Vĩnh gặp Khoa rồi. Vĩnh có nói với me, me nhờ người viết đấy Khoa ạ!Khoa đọc nhanh. Trong thư bà Huyện muốn Vĩnh về huyện Phụ Dực ngay. Bà sợ mình già nua rồi, nhỡ mệnh hệ nào thì khổ thân Vĩnh. Bà Huyện hỏi thăm Khoa. Khoa nao nao tâm hồn.- Vĩnh định sao?- Phải về.- Vì me à? Sao Vĩnh không..- Không gì, họ bắt me Vĩnh làm thế đấy.- Ai?- Những người giết ba Vĩnh.- Phụ Dực là nơi chiếm đóng mà.- Đêm đêm họ vẫn về thu thóc và làm nhiều việc khác.- Vĩnh trở lại Phụ Dực được ích lợi gì?- Về đi cày.- Chẳng được học à?- Có lẽ.- Vĩnh chẳng về có sao?- Khổ me Vĩnh.- Vĩnh còn trẻ, còn tương lai...- Khó lắm, sau này sẵn dịp Vĩnh giãi bày cho Khoa hay.- Bao giờ Vĩnh bỏ Hà Nội?- Mai, sáng mai. Mong xe gặp mìn!- Nói dại, tối nay đi chơi nhé!- Thôi.- Tại sao?- Tội nghiệp, đừng bắt Vĩnh giải thích. Vĩnh xin phép về. Chúng ta chia tay ngay bây giờ. Chúc Khoa gặp nhiều may mắn.- Chúc Vĩnh...- Thôi đủ rồi...Vĩnh buông tay Khoa, chạy xuống đường gọi xích lô. Khoa nhìn theo. Cay đắng. Rồi vắng bặt tin Vĩnh. Hai năm liền, Vĩnh chưa gửi một lá thư nào. Cho đến hôm nay thanh bình đã trở lại và Khoa cũng trở lại đất xưa tìm người cũ. Chuyến xe con Thỏ vụt qua trong tâm tưởng. Khói sầu muốn bay lên cao quyện lấy linh hồn ông Huyện, chị Hiền, Bảo. Khoa để lòng mình về gần Vĩnh...Phố huyện bây giờ khác lạ. Hàng rào dây thép gai thay dậu bìm. Những con bìm bịp đi đâu rồi. Vài chòi canh hở ra lỗ châu mai bốn phía. Súng đạn khạc lửa đã nhiều. Sự sợ hãi còn in trên nét mặt người dân miền Phụ Dực. Niềm vui cuồng loạn lúc này chưa xua đuổi kịp nỗi lo âu vừa mất hút. Khoa nóng làng gặp Vĩnh nên không cần nhận xét kỹ cảnh dâu biển của huyện lỵ tồi tàn.Khoa men theo con đường nhỏ lát gạch nhà Vĩnh. Khoa dựng xe trước cửa ngôi nhà ngói vẹo xiêu, tường nóc nát đầy vết đạn. Con chó già thấy khách lạ lười biếng sủa. Người đàn ông trong sân chạy ra. Khoa nói với ông ta muốn tìm Vĩnh. Ông ta đưa Khoa vào trình bà Huyện. Bà Huyện nằm trên võng.Tóc bà bạc phơ. Đúng như Vĩnh nói, bà đã lòa vì khóc ròng rã tháng ngày tự lúc mũi kiếm oan nghiệt đâm thấu tim ông Huyện. Tiếng bà Huyện ai oán:- Ai đấy?- Thưa bà cháu ạ! Khoa đây ạ!- Khoa à!- Vâng ạ. Cháu về thăm bà và anh Vĩnh.- Cháu lại đây. Gớm dễ gần tám chín năm rồi đấy nhỉ?- Vâng ạ, chín năm rồi.- Cháu còn nhớ cả chứ, nghĩ mà tiếc cháu nhỉ?- Vâng ạ!- Giá còn... Cháu lại đây. Lại gần đây.Khoa bước dần tới võng. Bà Huyện giơ tay ra quờ quạng. Đôi bàn tay ấy có lần đã vuốt ve Khoa, đã làm cho Khoa sung sướng. Khoa ái ngại đặt bàn tay sần sùi cơm áo của mình vào bàn tay khổ nhục. Khoa muốn dồn hết tình thương, nỗi nhớ mong sưởi ấm bà Huyện. Nước mắt Khoa nhỏ giọt trên cánh tay già. Bà Huyện nắm được tay Khoa. Bà đặt lên mũi thơm tho rồi bà kéo Khoa ngồi xuống, bà ôm chặt Khoa, rên xiết. Khi buông Khoa ra, bà Huyện âu yếm hỏi:- Cháu ở đâu về?- Cháu ở thị xã ạ!- Cháu gặp Vĩnh chưa?- Thưa bà chưa ạ!- Để bảo anh Thái đưa cháu ra với Vĩnh. Anh Thái ơi, dẫn cậu Khoa ra đồng tìm chú Vĩnh. Chốc cháu về ăn cơm nhé!- Vâng ạ!Khoa theo người đàn ông lúc nãy ra đồng, nơi thủa nọ chị Hiền, Khoa, Vĩnh và Bảo thường đứng ngắm dãy núi Voi phục mờ mờ phía trời Kiến An.Anh Thái chỉ túp lều dựng cạnh bờ ngòi:- Chú Vĩnh ở trong ấy.- Thôi anh về đi, để tôi ra một mình.Khoa lững thững bước nhẹ. Vĩnh quay lưng về phía Khoa nên không biết Khoa đang tiến đến. Khoa dừng lại nhìn cảnh tượng thắt ruột. Vĩnh ngồi trên mảnh đất cao, cởi trần, mặc quần đùi đen. Da dẻ sạm nắng. Thân hình gầy ốm. Đầu Vĩnh, dưới miếng nón mê lót lá sen to tướng trùm cả tai. Tay trái đưa ra sau lưng gãi mụn muỗi đốt. Tay phải cầm cây gậy dài, trên ngọn buộc chùm lá chuối khô xé nhỏ. Vĩnh ngồi chăn vịt! Trước mặt Vĩnh, đàn vịt kêu càng cạc chúc xuống nước mò tôm ốc. Khoa đau đớn nghĩ đến Vĩnh trải lòng mình làm đường rầy cho chuyến tầu thời đại nặng oán hờn nghiến lên. Một thời gian xa lắm, cũng ở nơi này, cậu Vĩnh con quan thả tầm mắt đón nhận tương lai. Vĩnh không mơ quan sang. Vĩnh ước viết sử như Khoa ước thành văn sĩ. Chao ơi! Trang đầu lịch sử của đời Vĩnh đã ghi chép những dòng máu lệ tủi nhục. Khoa cúi xuống dưới chân Khoa là vực thẳm. Khoa nhìn lên. Trên đầu Khoa là Trời cao. Trời cao vực thẳm câm nín như Vĩnh câm nín trước tầm mắt Khoa.Khoa lên tiếng:- Này gã chăn vịt.Giật mình. Vĩnh quay lại. Nhận ra Khoa. Vĩnh sung sướng chạy tới ôm chầm lấy bạn. Tự nhiên. Khoa tưởng sắp mất Vĩnh, mắt Khoa rơm rớm lệ nắm lấy Vĩnh không muốn rời tay. Nghẹn ngào, Khoa hỏi bạn:- Chăn vịt thi đua hả?- Không. Chăn vịt để sống.Rồi chợt nhớ cảnh sống hiện tại, Vĩnh mỉa mai nói:- Ở đây muốn sống yên thân phải giấu kín tình cảm Khoa ạ!- Biết rồi.- Thế thì Khoa buông Vĩnh ra ngay. Xuống bao giờ thế?- Vừa xong. Sao Vĩnh không viết thư cho Khoa?- Tưởng Vĩnh chết rồi à? Ai đưa Khoa ra đây thế?- Anh Thái.- Thăm mẹ Vĩnh rồi hả?- Ừ, tiếc nhớ nhiều quá. Khoa muốn khóc như ngày xưa chúng mình còn bé.- Vĩnh thì hết nước mắt rồi, Vĩnh đang tập để không còn biết thương nhớ là gì nữa.- Giọng Vĩnh chua chát lắm, chăn vịt thú vị không?- Giá chăn dê thú vị còn được ví với Tô Vũ. Trong lịch sử có ai chăn vịt không nhỉ?- Có.- Ai?- Vĩnh, chăn vịt đợi thời.- Đợi chết thì có. Vào trong này nói chuyện.Hai người chui vào lều. Nắng buổi chiều còn chói chang. Mùa thu mà trời oi ả quá. Vĩnh hỏi:- Tưởng vào Nam rồi.- Cũng định.- Định chi nữa, muốn chết từ từ à?- Tại sao Vĩnh lại chăn vịt?- Vĩnh thích chứ sao.- Không được đi học nữa à?- Ừ, mà dẫu được, mình học ích gì. Sách chúng mình học lạc hậu cả. Công thức, định lý ở đây toàn tên Nga, khó đọc lắm, nên Vĩnh chán. Này Pythagore nói láo, sự khám phá của hắn chính là của ông gì “cốp” ấy. Képler, Newton, Einstein... sai hết. Nằm nhà sợ mang tiếng bất mãn chế độ, Vĩnh chăn vịt cho đỡ buồn.- Vĩnh thấy cuộc sống mới thế nào?- Buồn cười đáo để. Nhưng hỏi làm gì? Hay Khoa là công an?- Bậy bạ.- Đúng đấy Khoa ạ! Khoa còn nhớ bọn thằng Vọng, thằng Cung chứ? Hôm Tây mới rút khỏi đây, chúng nó về treo cờ tổ chức hội họp. Vĩnh gặp thằng Vũ, Vĩnh chào nó, nó vờ hỏi: “Anh là ai trông lạ quá”. Vĩnh kể lai lịch, nó mỉa mai: “À, hóa ra cậu Vĩnh con cụ Lớn ngày xưa”. Buổi tối nó lại chơi, nó nằm cả đêm ở nhà Vĩnh hỏi han lung tung hết chuyện ai theo Quốc Dân đảng, ai theo đế quốc, phong kiến... Vĩnh trả lời qua loa. Nó rút sổ tay ghi chép cẩn thận. Vĩnh biết ngay nó làm công an. Vĩnh sợ, đâm ra nghi ngờ cả bạn bè...- Thế hả, đau đớn nhỉ?- Ừ, đau đớn thật.- Vĩnh, có muốn vào Nam không?- Không.- Ở nhà sống thế này hả?- Ừ. Đợi chết mà.- Nghĩ kỹ đi.- Nghĩ kỹ rồi. Vĩnh còn me Vĩnh. Me Vĩnh muốn chết ở quê nhà. Vĩnh sinh ra vô phúc là con quan, cô độc từ ngày đi học như Khoa đã biết. Lớn lên với mặc cảm cô độc ấy. Vĩnh nhút nhát chả dám làm gì. Vào đời không quen sống tập thể, thấy mình lẻ loi, hèn kém. Bây giờ cô độc hơn xưa, suốt đời cô độc. Vĩnh sợ cuộc đời lắm. Vĩnh, chẳng đi đâu, Vĩnh còn me Vĩnh. Me Vĩnh đã khổ nhiều rồi. Vĩnh là niềm an ủi cuối cùng, bây giờ lại bỏ đi thì me Vĩnh chết mất.- Vĩnh đã nhất định, Khoa còn nói sao được. Mai Khoa đi. Khoa muốn nhớ Vĩnh mãi nên đi tìm đến thăm Vĩnh.- Khoa đi với ai?- Một mình.- Còn gia đình?- Cha mẹ Khoa cũng lưu luyến quê hương như me Vĩnh ấy.- Khoa đi một mình à?- Ừ, tối nay Khoa về thị xã.- Sáng mai hãy về. Khoa hứa có dịp kể chuyện ngày xưa hồi chúng mình chưa đau khổ. Khoa quên rồi ư? Dịp ấy là đêm nay.- Sao Vĩnh bảo Vĩnh...- Không. Vĩnh sẽ không tập gì cả, tập làm sao được. Mai Khoa đi thì Khoa hiểu rằng từ phút chia tay, Vĩnh đã chết.- Vĩnh phải sống đợi Khoa về kể nốt chuyện Phụ Dực. Chứ một đêm nói sao hết tình thương?- Nếu được vậy nhỉ? Thôi chúng mình lại nhà.Hai người dìu nhau trên bờ ruộng. Vĩnh ném cái gậy xuống ngòi, quàng tay qua cổ Khoa. Mùa thu quê hương thường có heo may giải đồng. Trời chớm lạnh, người ta tìm nhau trong cưới xin. Tháng tám ở đây nóng sang cả buổi chiều dù mặt trời lặn từ lâu. Hoàng hôn xuống dần. Bóng đêm đuổi đằng sau hai người trẻ tuổi.Khoa nghĩ đến con đường Khoa và Vĩnh đang bước lên. Đêm nay còn song đôi. Ngày mai mỗi người sẽ sang một khúc rẽ cuộc đời.HẾT