Dịch giả: Anh Tuấn và Kim Phương
Chương 9
AI MÀ CÓ THỂ ĐOÁN ĐƯỢC ĐIỀU ẤY

    
 ột việc kinh khủng đã xảy đến với chúng tôi. Làm sao mà chúng tôi có thể dự đoán được điều đó cơ chứ. Tôi không thể biết được đến bao giờ chúng tôi mới hết gặp khó khăn. Có thể chúng tôi sẽ phải lọ mọ trong vùng đất hoang vu này và tuyệt giao với thế giới bên ngoài cả cuộc đời này mất. Đến bây giờ tôi vẫn chưa có khái niệm rõ ràng rằng tương lai của chúng tôi sẽ đi về đâu. Đối với tôi thì quá khứ thì kinh khủng còn tương lai thì như màn đêm. Tôi chắc không có ai rơi vào tình trạng tồi tệ hơn chúng tôi và tôi cũng biết chắc rằng bạn bè của chúng tôi chẳng biết hiện nay chúng tôi đang đi vào vùng đất nào trên bản đồ để mà chia sẻ thông cảm. Ngay cả khi họ có gửi lời hỏi thăm thì tôi cũng cho rằng số phận của chúng tôi đã bị định đoạt trước khi những bức thư của họ có thể tới được Nam Mỹ.
Có cảm tưởng rằng chúng tôi đang đi trên mặt trăng, nơi mà mọi thứ đều không thể. Nếu có thể sống sót thì chẳng qua đều do vận may trời cho mà thôi. Tôi có ba người bạn đồng hành tuyệt vời. Họ đều có trí óc tuyệt hảo và bản lĩnh hơn người. Những lúc gặp khó khăn tôi chỉ nhìn lên khuôn mặt cứng rắn như sắt thép sáng ngời lên trong đêm tối của họ là cảm thấy vững tâm lắm rồi. Bề ngoài tôi luôn tỏ ra hăng say và tự tin nhưng bên trong thật sự tôi cảm thấy rất sợ.
Độc giả cho phép tôi được kể lại trình tự xâu chuỗi của sự kiện đã dẫn chúng tôi đến thảm họa. Ở lá thư trước tôi có nói rằng chỗ chúng tôi hạ trại cách vách đất đỏ khoảng bảy dặm. Cái vách đá bao quanh vùng bình nguyên mà Giáo sư Challenger đã đề cập đến. Độ cao của vách đá thậm chí còn có vẻ cao hơn so với miêu tả của Giáo sư Challenger, có những chỗ độ cao lên đến hàng ngàn feet, những thớ đá xếp chồng lên nhau tạo thành những sọc bazan màu đỏ rất lạ mắt. Trên đỉnh của núi đá là một cánh rừng thu nhỏ xum xuê cành lá, bên mép vực là những đám cây bụi còn phía xa xa là những cây gỗ thân cao vút. Không thấy có dấu hiệu của một loài động vật nào quanh đây.
Đêm hôm đó chúng tôi hạ trại ngay bên mép vực. Một địa điểm hoang vu nhất. Vách đá không những dựng đứng mà còn uốn cao dần phía trên đỉnh cho nên việc trèo lên trên đó là điều không tưởng. Gần chỗ chúng tôi hạ trại là những mỏm đá nhô lên như thanh kiếm chọc thẳng lên trời. Trông chúng như những ngọn tháp nhà thờ màu đỏ to lớn. Thật kỳ lạ đỉnh núi ấy lại bằng phẳng. Các đỉnh núi cách nhau những khoảng khá xa. Trên những đỉnh núi đó có vô số những cây thuộc loại to lớn khác thường.
- Ở trên đó – Giáo sư Challenger nói và chỉ tay lên những cái cây to vừa nói - là nơi con thằn lằn bay đó đậu. Tôi đã leo lên nửa vách đá để bắn hạ. Tôi nghĩ rằng một người leo núi tài giỏi như tôi mới có thể leo lên được đến đỉnh mặc dù lúc đó tôi đã không làm như vậy.
Khi Giáo sư Challenger nói về con thằn lằn bay của ông thì tôi để ý thấy Giáo sư Summerlee lần đầu tiên tỏ hối hận và có lẽ ông đang tin những gì ông Challenger nói. Miệng ông Summerlee không còn cái nhếch mép thường trực như trước nữa mà ngược lại trên gương mặt ông lộ vẻ háo hức xen lẫn kinh ngạc. Ông Challenger cũng để ý thấy điều đó và ông tỏ ra thích thú khi thấy đối thủ của mình chấp nhận thất bại.
- Tất nhiên! – ông Challenger nói với giọng mỉa mai – Giáo sư Summerlee sẽ cho rằng khi tôi nói đến loài thằn lằn bay thì có nghĩa là tôi đang nói đến loài cò. Đó chính là một loài cò mà không có lông vũ, có màng ở cánh và móng vuốt ở ngón chân – Giáo sư Challenger nói và nháy mắt, miệng mỉm cười và cúi người xuống cho đến khi đối thủ của ông quay đi.
Buổi sáng sau khi điểm tâm bằng cà phê và bột sắn –chúng tôi cần phải tiết kiệm lương thực – cả đoàn chúng tôi tiến hành một cuộc thảo luận tìm ra phương cách tối ưu nhất để leo lên đỉnh của vách đá. Giáo sư Challenger điều khiển cuộc hội thảo như một ông thẩm phán đang ngồi trên ghế xử án. Ông ngồi trên một mỏm đá, cái mũ rơm kiểu trẻ con để lật ra phía sau lưng. Đôi mắt khinh khỉnh của ông nhìn tất cả chúng tôi, bộ râu đen nhánh và xồm xoàm cử động lên xuống khi ông nói đến kế hoạch của cả đoàn mấy ngày sắp tới. Ba người chúng tôi ngồi phía dưới. Tôi – một người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết và khỏe mạnh, Giáo sư Summerlee thì tỏ ra nghiêm trang nhưng vẫn không giấu nổi thái độ châm chọc qua cái miệng mỏng ngậm trễ tẩu thuốc lá, Huân tước Roxton sắc sảo, tựa thân hình dẻo dai vào khẩu súng trường, đôi mắt đại bàng của Huân tước nhìn như dán vào Giáo sư Challenger. Phía sau chúng tôi là hai anh chàng người lai da đỏ và một anh chàng người da đỏ nhỏ thó. Trước mặt chúng tôi và đằng sau Giáo sư Challenger là vách đá dựng đứng màu đỏ - mục tiêu của cuộc thảo luận buổi sáng nay.
- Tôi phải nói rằng… - Thủ lĩnh Challenger nói - … lần trước tôi đã kiệt sức khi cố gắng leo lên đến đỉnh. Mặc dù tôi đã không leo được đến đỉnh nhưng tôi cho rằng khó ai có thể leo lên được tới đó bởi vì tôi là một tay leo núi có hạng. Lần trước tôi không có các công cụ hỗ trợ cho việc leo núi nhưng lần này tôi đã chuẩn bị một số thứ cần thiết. Với sự trợ giúp của những thứ đó tôi nghĩ tôi sẽ lên được đến đỉnh núi. Lần trước là vào mùa mưa và không có thiết bị phụ trợ. Do có những vấn đề đó nên tôi đã mất rất nhiều thời gian nhưng cũng may là tôi kịp thời thám hiểm khoảng sáu dặm về phía đông vách đá và thấy rằng không có một con đường nào có thể leo lên trên đỉnh được. Thế thì bây giờ chúng ta sẽ phải làm gì?
- Điều đó thật đơn giản! – Giáo sư Summerlee chêm vào – Nếu ngài đã đi về phía đông mà vẫn không tìm ra lối đi lên thì bây giờ chúng ta hãy đi về phía tây xem sao.
- Đúng rồi! – Huân tước Roxton nói – may là cái bình nguyên này không rộng lớn lắm và chúng ta có thể đi vòng khắp và tìm ra một cách để leo lên đỉnh vách đá này.
- Tôi đã giải thích cho anh bạn trẻ trong đoàn chúng ta rằng… - Giáo sư Challenger nói khi đề cập đến tôi (ông coi tôi như một đứa bé lên mười tuổi) - … rằng gần như tuyệt đối không có một con đường nào để đi lên trên đó vì một điều đơn giản rằng nếu có một lối leo lên thì hệ động thực vật trên đó như tôi kể sẽ không có những đặc tính riêng biệt như thế. Trong điều kiện như vậy thì trên cao nguyên này không thể có các động vật trái ngược một cách kỳ lạ với những quy luật tổng quát của giới động vật. Tuy nhiên tôi thừa nhận rằng có thể có những chỗ mà một người leo núi chuyên nghiệp có thể leo lên đến đỉnh được nhưng một động vật nặng nề và kềnh càng thì không thể xuống được. Chắc chắn là có thể tìm ra một chỗ leo lên được. bây giờ,k theo ý tôi, chúng ta không thể làm gì hơn là đi về phía tây cho đến khi tìm được chỗ để leo lên.
Mặt đất dưới chân vách đá này lổn nhổn đá vì thế chúng tôi di chuyển rất chậm chạp và khó khăn. Tuy nhiên, thình lình chúng tôi gặp một điều làm chúng tôi phấn khởi. Đó là vết tích của một nơi cắm trại xưa kia, cới những hộp thịt Chicago, một chai nhãn hiệu Brandy, một cái mở hộp đã gãy và nhiều thứ lặt vặt khác của những người du lịch. Một tờ báo mục nát, là tờ Chicaga Democrat, nhưng ngày tháng thì đã nhòa hết.
Challenger nói:
- Không phải báo của tôi. Hẳn phải là tờ báo của Maple White.
Huân tước John tò mò nhìn ngắm một cây dương xỉ cao lớn, phủ bóng rợp trên nơi cắm trại này, nói:
- Này, xem đây. Tôi tin rằng đây là một cột đánh dấu.
Một mảnh gỗ cứng được đóng vào thân cây này có hướng chỉ về phía tây.
Challenger nói:
- Rõ ràng là một cột làm dấu rồi. Có lẽ chúng ta sẽ còn gặp nhiều chỉ dẫn khác khi đi tiếp nữa.
Thật đúng như vậy, nhưng chúng tôi đã gặp những chỉ dẫn kinh khủng và không mong đọi nhất. Ngay bên dưới vách đá này là những bụi tre cao lớn và ken đặc hình thành những lũy tre, chúng tôi đã phải rất vất vả mới vượt qua được. Những cây tre cao tới hai mươi feet, ngọn thẳng tắp và cứng như những ngọn giáo. Khi chúng tôi đang đi qua vùng cây cối rậm rạp này thì tôi bỗng nhìn thấy một cái sọ người. Bộ xương người vẫn còn ở đó nhưng cái sọ người đã bị rời ra khỏi mình nằm cách bộ xương mấy feet.
Chỉ bằng mấy nhát dao quắm chúng tôi đã dọn sạch xung quanh hiện trường và bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng về bộ xương kia. Trên mặt đất còn vương vãi một ít vải quần áo đã mục nát, mấy miếng da ủng còn vướng chỗ xương ống chân. Rõ ràng đây là một bộ xương của một người châu Âu. Tôi còn tìm thấy một cái hộp thuốc lá bằng bạc có khắc chữ J.C đến từ A.E.S. Nhìn vết khắc trên hộp thuốc lá cho thấy người xấu số gặp không nạn cách đây không lâu lắm.
- Là ai được nhỉ? – Huân tước Roxton lầu bầu – Quỷ tha ma bắt! tất cả mọi mẩu xương gần như đã bị gãy vụn ra rồi.
- Những cây tre còn mọc xiên qua cả những dẻ xương sườn – ông Summerlee nói – mặc dù tre là một loài mọc nhanh nhưng theo tôi nghĩ người này đã chết cũng khá lâu rồi.
- Xét trên những đặc tính của người này thì tôi cũng không nghi ngờ gì về những gì các ngài vừa nói – Giáo sư Challenger nói - Mấy hôm tôi đuổi theo các ngài trước khi bắt đầu cuộc hành trình, tôi đã kịp làm một cuộc điều tra về anh chàng Maple White. Ở Para không ai biết tí gì về anh chàng này cả. May mắn thay tôi có một manh mối, đó là tấm ảnh chụp anh ta đang ăn tối với một tu sĩ ở Rosaria. Tôi đã lần tìm ra được vị tu sĩ đó, mặc dù ông thầy tu này không dễ chịu cho lắm nhưng sau một hồi thuyết phục ông ta rằng những phát hiện của các nhà khoa học cũng có tác dụng không nhỏ để củng cố đức tin của người dân đối với đạo của ông ta, cuối cùng ông ta cũng chịu cung cấp những thông tin mà tôi cần. White đã đến Rosaria bốn năm về trước lúc đó anh ta không đi một mình mà đi cùng với một người bạn tên là James Clover. Người bạn Mỹ này đã ở lại thuyền chứ không đi cùng White để gặp vị tu sĩ đó cho nên không nghi ngờ gì nữa bộ xương này chính là của James Clover.
- Nguyên nhân cái chết của anh chàng này vẫn chưa rõ ràng – Huân tước Roxton nói – Anh ta bị ngã và gãy hết xương. Làm thế nào mà anh ta có thể rơi xuyên qua đám lau sậy cao quá đầu người như thế được nhỉ?
Chúng tôi lạnh cả xương sống khi nhìn bộ xương và nghe những gì Huân tước Roxton nói. Mỏm đá cao ngất nhô ra phía bên trên rừng lau sậy. Không nghi ngờ gì nữa anh chàng James đã bị rơi từ trên mỏm đá đó xuống. Nhưng có phải đó là một tai nạn hay là… nhiều điều khủng khiếp đã bắt đầu xuất hiện ở vùng đất huyền bí này.
Chúng tôi lặng lẽ tản ra và tiếp tục đi vòng quanh vách đá, vách đá trông như những tảng băng Bắc Cực khổng lồ kéo dài ngang với đường chân trời và cao như những mũi tàu thủy cỡ lớn. Đi suốt năm dặm không thấy một khe núi nào. Bỗng nhiên chúng tôi cảm thấy có một điều gì đó kỳ lạ đang bao quanh mình. Trên một vách đá hơi hõm vào phía bên trong chúng tôi phát hiện một hình mũi tên nhọn hoắt được ai đó vẽ bằng phấn, chiều của mũi tên chỉ về phía tây.
- Lại White rồi – Giáo sư Challenger nói – Có lẽ anh ta đã đoán trước được rằng chúng ta cũng sẽ đi đến đây!
- Làm sao mà anh ta có phấn để vẽ cơ chứ?
- Hôm phát hiện xác anh ta tôi thấy trong túi anh ta có một hộp phấn màu. Tôi nhớ rằng viên phấn trắng đã mòn đi một nửa.
- Đúng là một bằng chứng tuyệt vời! – Giáo sư Summerlee nói – Chúng ta sẽ đi theo mũi tên này!
Chúng tôi đi thêm năm dặm nữa và lại phát hiện ra một mũi tên màu trắng trên vách đá, đó là chỗ mà lần đầu tiên vách đá tách ra làm hai tạo thành một khe núi hẹp trong khe núi là một hình vẽ mũi tên khác chỉ thẳng lên trên đỉnh.
Đây là một nơi hoang vu và các vách đá rất cao còn bầu trời xanh phía trên chỉ là một khoảng hẹp, ánh mặt trời chiếu xuống lờ mờ. Đã nhiều giờ liền chưa có gì bỏ bụng nhưng chúng tôi không hề nản chí. Chúng tôi để những người da đỏ chuẩn bị dựng trại còn bốn chúng tôi và hai người lai da đỏ tiếp tục tìm đường leo lên vách đá.
Đường leo lên vách đá trong khe núi rộng không quá bốn mươi feet nhưng thắt hẹp lại rất nhanh khiến cho việc chui qua vô cùng khó khăn. Chúng tôi bèn quay lại thì bỗng nhiên Huân tước Roxton phát hiện ra một lối đi hình tròn tối om. Trông nó giống như một cái cửa hang.
Có nhiều tảng đá ở dưới chân vách núi cho nên chúng tôi đã leo lên đó một cách dễ dàng. Đây là lối vào một hang đá, trên vách hang lại là một hình mũi tên khác. Có lẽ đây là nơi Maple White và anh bạn xấu số tìm cách leo lên. Chúng tôi mừng rỡ trở về lều và quyết định chuẩn bị tiến hành ngay cuộc thám hiểm. Huân tước Roxton mang theo một cái đèn pin. Ông đi phía trước soi đèn còn chúng tôi thì theo sát phía sau.
Vách hang đã bị nước bào mòn và trở nên nhẵn thín, các hòn đá dưới chân cũng bị bào mòn khiến cho chúng như những hòn cuội tròn xoe. Lòng hang rất chật chỉ vừa một người đi. Đi khoảng 50 yard thì ra đến mỏm núi và sau đó đi đến một dốc đá. Đến chỗ này chúng tôi chỉ có thể bò được từng tí một. Bỗng nhiên Huân tước Roxton kêu lên:
- Đường đi bị chặn rồi!
Chúng tôi nhìn thấy một bức tường đất màu vàng bị chặn từ trên nóc. Nóc hang đã sập.
Chúng tôi đào bới một cách vô vọng nhưng càng bới thì những tảng đá to lớn như chực lăn ra đè lấy chúng tôi. Khó khăn này quả thật là quá sức tưởng tượng. Con đường mà Maple White đã đi không còn nữa.
Mọi người vô cùng thất vọng khiến không ai nói thêm lời nào nữa. Chúng tôi theo khe núi hẹp và tối om trở về trại. Nhưng vừa quay đi thì có một sự việc xảy ra khiến chúng tôi giật mình. Cả bốn đang đứng tụm vào nhau cách cửa hang khoảng bốn mươi feet thì một hòn đá lớn lăn qua chúng tôi đứng với vận tốc kinh hồn. Cả bốn chúng tôi hút chết trong gang tấc. Chúng tôi không còn đủ thời gian để xem hòn đá kia lăn ra từ đâu nhưng hai anh chàng người lai da đỏ lúc ấy vẫn đang đứng ở chỗ cửa hang bị lấp thì nói rằng hòn đá vừa lăn qua chỗ họ đứng. Họ cho rằng hòn đá này vừa bị rơi từ trên đỉnh núi. Nhìn lên phía trên đỉnh trong đám cây xanh, chúng tôi không cảm thấy có một sự chuyển động nào trên đó. Chúng tôi nghi ngờ rằng hòn đá này lăn có chủ đích, sự kiện này nhắm vào con người, do một ý đồ xấu xa nào đó xuất phát từ trên kia.
Đoàn chúng tôi vội vã rút lui khỏi khe núi, đầu quay cuồng với các ý nghĩ. Tình huống này cũng khó khăn không kém các lần trước, nếu như lần này có một thế lực thù địch nào đó định chống phá cuộc thám hiểm của chúng tôi thì đúng là chúng tôi đang rơi vào tình trạng rất nguy hiểm. Nhưng nhìn lên rừng cây xanh bên trên thì tất cả chúng tôi hầu như đều có một quyết tâm lớn là làm sao tìm hiểu trong khu rừng đó có những gì. Chúng tôi cùng thảo luận và cuối cùng đưa ra quyết định là sẽ tiếp tục đi dọc theo chân vách đá để tìm kiếm đường lên đỉnh. Các đỉnh núi thấp dần độ cao và hướng của chúng lại bắt đầu chuyển dần từ tây xuống phía bắc. Cả dãy núi tạo thành hình cánh cung. Chúng tôi đã nghĩ đến tình huống xấu nhất là quay lại điểm xuất phát.
Ngày hôm nay chúng tôi đã đi hết một quãng đường khoảng hai mươi dặm nhưng quyết tâm chinh phục vách đá vẫn không suy giảm. Cái máy đo khí áp cho thấy chúng tôi đang trên độ cao ba ngàn feet so với mực nước biển. Nhiệt độ và hệ thực vật ở trên đây cũng đã thay đổi. Đoàn thám hiểm đã phải chạm trán với một trong những kẻ thù đáng ghét nhất của những nhà thám hiểm đó là những con côn trùng miền nhiệt đới. Những cây họ dừa vẫn còn sống được tại nơi này nhưng đã thưa dần còn tất cả những loài cây đặc hữu của vùng Amazon hầu như không còn nữa. Những bụi bìm bìm, cây lạc tiên, cây thu hải đường mọc khắp nơi. Tất cả những điều này gợi cho tôi nhớ đến nước Anh quê hương. Một bông thu hải đường màu đỏ gợi cho tôi nhớ đến bông thu hải đường mà có lần tôi đã nhìn thấy trên cửa sổ của một biệt thự trên phố Streetham.
Đêm hôm ấy xảy ra một chuyện vô cùng đáng nhớ. Một sự kiện mà hầu như đã xua tan hết mọi nghi ngờ về kết quả và mục đích của cuộc thám hiểm này.
Sự việc xảy ra quá nhanh và hầu như không để lại dấu vết gì. Ngày hôm đó Huân tước Roxton đã bắn được một con lợn rừng loại nhỏ. Một nửa con lợn đưa cho mấy người da đỏ, nửa còn lại được chúng tôi đem nướng trên đống lửa. Buổi tối trời lạnh kinh khủng nên chúng tôi ngồi sưởi sát bên cạnh ngọn lửa. Bầu trời không trăng, chỉ lấp ló mấy vì sao đơn độc. Bỗng nhiên những vì sao kia biến mất. Có tiếng động lớn giống như tiếng máy bay gầm rú trên bầu trời. Một đôi cánh trùm lên đầu chúng tôi. Tôi chỉ kịp nhìn thấy một con quái vật cổ dài như cổ rắn, đôi mắt đỏ dữ tợn, cái mỏ lớn cùng hàm răng nhọn và sáng lóa bay trên đầu. Buổi tối của chúng tôi thế là đi tong. Bóng đen rộng lớn khoảng hai mươi feet bay vọt lên nền trời đen thẫm. Đôi cánh của con quái vật che khuất những vì sao trên đầu và chỉ một loáng cái đã biến mất sau những vách đá cao ngất. Cả bốn chúng tôi ngồi im không nói một câu. Giáo sư Summerlee phá tan sự im lặng:
- Giáo sư Challenger! – giọng ông trầm trầm. – Tôi xin lỗi ngài. Tôi đã sai và tôi mong ông bỏ qua cho những gì tôi nói trước đây!
Đúng là một lời nói chân thành và lần đầu tiên hai vị Giáo sư bắt tay nhau rất chặt. Sự kiện này cũng giống như việc chúng tôi chứng kiến con quái vật bay kia. Bữa tối chúng tôi không kịp thưởng thức mà đem so sánh với hai sự kiện trên thật chẳng thấm tháp vào đâu.
Nếu có một cuộc sống tiền sử tại vùng đất này thì tôi chắc rằng cũng chẳng có nhiều nhặn gì bởi vì ba ngày sau chúng tôi chẳng gặp thêm được điều gì cả. Trong ba ngày này chúng tôi đi xuyên qua một khu đầm lầy xen kẽ đá tảng nằm ở phía đông và phía bắc của vách đá. Hai bên đầm lầy là vô số những con chim săn mồi. Nếu không có con đường bằng tảng đá dưới đáy đầm lầy thì có lẽ chúng tôi phải quay lại từ lâu rồi. Mấy lần chúng tôi phải lội xuống đầm lầy đến ngang thắt lưng. Tồi tệ hơn đầm lầy này là nơi nương náu của họ nhà rắn độc Jaracaca – loài rắn độc hung dữ nhất vùng Nam Mỹ. Từng đàn con vật ghê tởm này ngểnh cổ lên nhìn khi chúng tôi đi qua. Chúng tôi chỉ còn có cách là nắm chắc súng ngắn trong tay để giữ bình tĩnh khi cần thiết. Tâm trạng hoang mang sợ hãi cùng cực cộng với màu xanh nhợt nhạt của địa y hai bên lối đi sẽ mãi mãi lưu dấu ấn trong đầu tôi như một ký ức khủng khiếp nhất. Bọn rắn Jaracaca có lẽ là loài rắn đặc biệt của vùng này, chúng thường hay lẩn khuất trên những triền dốc đá và sẵn sàng tấn công con người khi nhìn thấy. Có cơ man nào là rắn nên chúng tôi dù có dùng hết cả cơ số đạn cũng không bắn chết được hết nên cuối cùng cả nhóm co giò chạy cho đến khi mệt phờ. Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảm giác ghê rợn khi nhìn thấy hàng ngàn cái đầu rắn nhấp nhô trong đám cỏ nước. Chúng tôi bèn đặt tên cho cái đầm lầy này là Jaracaca.
Đến một đoạn vách đá không còn rực rỡ như trước nữa mà chuyển thành màu nâu sôcôla thì hệ thực vật trên đỉnh núi bắt đầu thưa thớt hơn. Độ cao của vách đá bây giờ chỉ còn ba bốn trăm feet nhưng chúng tôi vẫn không tài nào tìm thấy lối leo lên. Thậm chí khu vực này còn có vẻ hiểm trở hơn đoạn trước. Độ dốc cực kỳ của những vách đá này có thể thấy rõ trong bức ảnh tôi chụp ở sa mạc đá.
Trong lúc chúng tôi thảo luận về tình hình này, tôi nói:
- Chắc chắn rằng phải có đường để cho nước mưa chảy từ trên đó xuống chứ! – Tôi nói trong lúc bàn luận với mọi người.
- Anh bạn trẻ tuổi của chúng ta có lý đấy! – Giáo sư Challenger nói và lấy tay vỗ vỗ vào vai tôi.
- Phải có một con đường nào đó để nước mưa thoát xuống phía dưới mặt đất! – Tôi lặp lại.
- Cậu ta có vẻ nắm vững được vấn đề đấy nhưng chỉ có một điều là rõ ràng chúng ta vẫn chưa tìm thấy cái nơi mà nước mưa có thể chảy xuống kia thôi!
- Thế thì nước mưa sẽ chảy đi đâu? – Tôi vặn lại.
- Tôi nghĩ rằng nếu nước mưa không chảy xuống mặt đất thì chắc chắn sẽ có một cái hồ trên đó chẳng hạn mới có thể chứa hết nước mưa hàng năm được!
- Như thế là trên bình nguyên sẽ có một cái hồ?
- Tôi cho là như thế!
- Có lẽ cái hồ đó là miệng của một ngọn núi lửa! – Giáo sư Summerlee nói – Toàn bộ quá trình hình thành của khu vực này là do sự phun trào magma từ trong lòng đất. Tôi rất háo hức muốn xem ở trên một bình nguyên như thế kia lại có một hồ nước thì rất tuyệt. Thậm chí rất có thể cái hồ đó lại có cả những cái mạch ngầm thoát nước ra đầm lầy Jaracaca để điều hòa lượng nước cũng nên!
- Nhưng cũng có khả năng sự bay hơi sẽ điều hòa lượng nước hồ! – Giáo sư Challenger nhấn mạnh.
Thế là hai nhà khoa học đáng kính lại lao vào một cuộc khẩu chiến quyết liệt như thường lệ.
Sang đến ngày thứ sáu thì chúng tôi đã đi hết một vòng quanh vách đá và thật ngạc nhiên đoàn lại quay về đúng khu trại bên cạnh những mỏm đá nhọn hoắt chọc thẳng lên trời. Cả đoàn không được vui bởi vì sau sáu ngày chúng tôi chẳng gặt hái được gì cả ngoài một kết luận tuyệt đối không có một lối đi nào mà con người có thể leo lên được. Còn con đường mà Maple White đánh dấu bằng phấn thì rõ ràng đã bị đất đá lấp kín.
Bây giờ chúng tôi phải làm gì? Mặc dù lương thực dự trữ và thịt thú rừng săn được cũng còn tương đối nhưng nếu ở đây lâu quá thì nhất định là không thể được. Trong tháng tới rất có thể có mưa to và cả đoàn chúng tôi sẽ bị dìm trong những cái lều bạt. Đá ở đây cứng hơn cả đá hoa cương nên việc đục đá làm lối đi trong một quãng thời gian như thế là điều không tưởng. Tối hôm đó ai nấy đều rầu rĩ, khi lấy chăn ra đắp để đi ngủ hầu như không ai nói với ai một câu nào. Trước khi chìm vào giấc ngủ thì hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy đó là việc Giáo sư Challenger đang ngồi bên đống lửa, hai tay ôm lấy đầu đắm chìm trong dòng suy nghĩ. Ông có vẻ như không muốn đi ngủ.
Thật ngạc nhiên buổi sáng hôm sau chính Giáo sư Challenger là người đầu tiên chào chúng tôi. Lúc này lại là một Giáo sư Challenger khác, một Challenger vui vẻ và phấn khởi. Chúng tôi gặp nhau khi ngồi ăn sáng. Ánh mắt Giáo sư như ẩn chứa một vẻ khiêm tốn giả vờ, ánh mắt ấy như có ý muốn nói rằng: tôi xứng đáng với tất cả những gì các bạn nói về tôi nhưng làm ơn đừng nói điều đó ra. Bộ râu của ông vểnh lên vẻ hân hoan, ngực ông ưỡn cao, tay đút vào túi áo jacket. Có lẽ ông đang tưởng tượng rằng mình là một bức tượng đặt tại Quãng trường Trafalgar và thêm nữa theo tôi nghĩ ông là một nỗi kinh hoàng cho các đường phố trong thành Luân Đôn.
- Eureka! – Giáo sư Challenger kêu lên lộ hai hàm răng trắng lóa – Thưa các Quý ngài, các Quý ngài có thể chúc mừng tôi và chúng ta có thể chúc mừng nhau được rồi. Vấn đề khó khăn của chúng ta đã được giải quyết.
- Ngài đã tìm được đường lên rồi à?
- Tôi dám nghĩ là như thế!
- Ở đâu thế?
Thay cho câu trả lời, Giáo sư Challenger chỉ tay lên mỏm đá hình tháp nhọn hoắt phía bên tay phải. Mặt chúng tôi đều ỉu xìu. Chúng tôi có thể leo sang được nếu như có sự trợ giúp của cả đoàn nhưng dưới đó là vực sâu hun hút.
- Chúng ta sẽ không thể đi qua được – Tôi nói.
- Ít nhất chúng ta đều lên được tới đỉnh! – Giáo sư Challenger nói. – Và khi lên trên đó các ngài sẽ thấy rằng ý chí của con người là trên hết!
Sau khi ăn sáng chúng tôi mở gói đồ leo núi mà Giáo sư Challenger đã chuẩn bị từ trước. Ông lấy từ trong đó ra một cuộn dây thừng loại nhỏ và chắc chắn, dài khoảng một trăm năm mươi mét, các móc sắt, kẹp sắt và rất nhiều thiết bị khác. Huân tước Roxton là một nhà leo núi có kinh nghiệm, Giáo sư Summerlee là một người leo núi nghiệp dư vì vậy chỉ có tôi là một tay ngu ngơ chưa hề biết đến leo núi là như thế nào. Nhưng bù lại tôi lại có sức khỏe của một chàng thanh niên.
Thực ra việc leo trèo này không có gì ghê gớm lắm nhưng tóc tôi cứ dựng đứng lên khi bám tay vào dây. Lúc đầu việc leo trên dây rất dễ dàng, dần dần càng về sau núi đá càng dốc hơn và cuối cùng khi chỉ còn khoảng năm mươi mét nữa thì chúng tôi hầu như chỉ còn cheo leo trên những kè đá bằng bốn chi. Tôi và Giáo sư Summerlee suýt nữa thì không thể leo lên được nếu như Giáo sư Challenger không lên tới đỉnh trước, cột dây vào một cái cây to và thả đầu dây xuống. Thật không thể tưởng tượng được khi chứng kiến Giáo sư Challenger với thân hình khổng lồ của mình lại leo được trên dây. Với sự trợ giúp của các dụng cụ leo núi kia cuối cùng chúng tôi cũng đã vượt qua được vách đá lởm chởm và lên đến một khu vực bằng phẳng mọc đầy cỏ.
Khi leo tới đỉnh núi vừa đưa mắt nhìn xung quanh một khung cảnh vô cùng đẹp đẽ hiện ra trước mặt. Toàn bộ đồng bằng Braxin như trải dài trước mắt chúng tôi. Màu xanh của cây cối chạy xa tít tắp chân trời. Khu vực gần nhất là những dãy núi đá nhọn được bao phủ bởi những rừng cây, tiếp theo là những quả đồi hình yên ngựa. Xa xa là những rừng tre với màu xanh và vàng đặc trưng. Tiếp theo nữa là một màu xanh của rừng già khổng lồ dài có đến hai ngàn dặm. Khi đang đắm chìm trong khung cảnh tuyệt đẹp của tự nhiên thì bỗng bàn tay nặng trịch của Giáo sư Challenger đập xuống vai.
- Chàng trai trẻ! – Ông nói - Đừng bao giờ nhìn sang hai bên mà hãy luôn nhìn về phía trước! Nơi mà chúng ta đang cần phải đến.
Khi quay sang phía tay Giáo sư chỉ tôi mới nhìn thấy vùng bình nguyên trên đỉnh núi, nơi có những bụi cây thấp, xanh ngắt điểm xuyết nhiều cây cao vút. Độ cao bằng với nơi mà chúng tôi đang đứng. Bình nguyên ngay trước mắt chúng tôi và thật khó mà có thể nghĩ được rằng chúng tôi đã mất rất nhiều ngày mà vẫn chưa leo lên được trên đó. Bằng mắt thường thì khoảng cách từ chỗ chúng tôi đứng xuống dưới đó chỉ cao khoảng bốn mươi feet nhưng trông cứ như khoảng cách đó phải đến bốn mươi dặm. Tôi vòng tay ôm lấy một thân cây và nhìn xuống chân núi. Dưới chân núi hình những người giúp việc cho chúng tôi chỉ còn là những chấm nhỏ. Họ đang nhìn lên trên chỗ chúng tôi đứng.
- Thật là kỳ diệu! – tiếng Giáo sư Summerlee.
Tôi quay đầu lại và nhìn thấy ông đang ngắm nhìn cái cây mà tôi đang ôm. Nhìn vỏ cây mềm mại và những chiếc lá nhỏ kiểu xương cá tôi có cảm giác quen quen.
- Sao thế nhỉ? Đây là một cây sồi – Tôi kêu lên.
- Chính xác! Ở nơi xa xôi này mà gặp lại một đồng hương! – Giáo sư Summerlee nói.
- Không chỉ là đồng hương đâu! Thưa ông bạn Giáo sư đáng kính! - Giáo sư Challenger nói – Nhưng để ông bạn vui hơn tôi xin nhắc một điều rằng cây sồi này còn là một vị cứu tinh của chúng ta đấy.
- Lạy chúa! – Huân tước Roxton kêu lên. – Chúng ta sẽ dùng nó làm một cây cầu!
- Chính xác! Ta sẽ dùng nó để làm một cái cầu. Suốt cả đêm hôm qua tôi đã nghĩ về việc này đấy! Tôi đã có lần nói với anh bạn trẻ này rằng Challenger chỉ thể hiện khả năng tuyệt vời nhất của ông ta khi mà tất cả chúng ta đang ở trong thế tuyệt vọng. Đêm hôm qua chính là đêm mà tất cả chúng ta đang ở trong đường cùng. Nếu sức mạnh của ý chí mà đi cùng với trí tuệ thì sẽ không bao giờ thất bại. Một cái cây rất cao có thể làm một cái cầu bắc ngang sang phía bên kia. Nào các ngài hãy nhìn xem!
Thật là một suy nghĩ sáng suốt. Cái cây sồi này cao có đến sáu mươi feet và nếu làm cho nó đổ đúng cách thì ngọn có thể chạm sang bên kia và làm thành một cái cầu. Giáo sư Challenger cầm chiếc rìu lên tay và đưa nó cho tôi.
- Anh bạn trẻ của chúng ta sức dài vai rộng. Tôi nghĩ giao cho anh ta nhiệm vụ này là hợp lý nhất! Tôi cũng đề nghị với cậu rằng hãy bớt suy nghĩ về mình đi và hãy làm theo những gì mà chúng tôi yêu cầu.
Theo chỉ dẫn của Giáo sư Challenger tôi dùng rìu rạch một vết tại gốc cây để đánh dấu sao cho khi chặt thì thân cây sẽ có độ dài tối đa. Đây đúng là một cây cột vững chãi mà tự nhiên đã đem đến đỉnh núi này. Tôi cùng Huân tước Roxton thay nhau chặt cây. Chỉ hơn một giờ đồng hồ đã có tiếng kêu răng rắc và cây sồi đã hơi nghiêng về phía trước. Sau đó nó đổ ập xuống phủ cành lá lòa xòa sang phía bình nguyên bên kia. Gốc cây lăn ra đến tận mép của khoảng đất mà chúng tôi đang đứng. Suýt nữa thì nó đã trượt xuống vực. Trong một tích tắc chúng tôi tưởng mọi thứ thế là đi tong. Gốc cây chỉ cách mép vực mấy feet. Thế là chúng tôi đã có một cây cầu.
Cả ba chúng tôi không ai bảo ai cùng bắt tay Giáo sư Challenger. Còn Giáo sư Challenger nhấc chiếc mũ rơm đang đội trên đầu đồng thời cúi mình xuống lần lượt đáp lễ.
- Vì công lao của tôi, tôi xin được là người đầu tiên bước chân sang vùng đất bí ẩn phía bên kia. Đây sẽ là đề tài cho các họa sĩ trong tương lai khi vẽ lại cảnh này. Đó sẽ là những bức tranh mang tính lịch sử.
Khi Giáo sư Challenger bước đến gần chiếc cầu thì Huân tước Roxton đặt tay lên áo choàng của Giáo sư và nói:
- Ông bạn thân mến! Tôi không cho phép điều đó!
- Không cho phép? – Giáo sư quay đầu lại, bộ râu tướng của ông vểnh lên.
- Ông không biết sao? Nếu xét phương diện khoa học thì tôi sẽ để cho ông là người quyết định vì ông là một nhà khoa học. Nhưng ngài sẽ phải theo sau tôi khi vấn đề có liên quan đến lĩnh vực của tôi.
- Lĩnh vực của ngài?
- Mỗi chúng ta đều có nghề riêng của mình. Làm người tiên phong chính là tôi. Theo tôi nghĩ hiện nay chúng ta đang xâm lược một đất nước. Rất có thể có nhiều kẻ thù đang ở phía trước mặt – Huân tước Roxton nói và đưa mắt nhìn về phía trước – ngài cần phải học cách tỏ ra khôn ngoan khi có ý định đi vào vùng nguy hiểm. Tất nhiên chúng ta luôn hy vọng rằng sẽ chẳng có nguy hiểm gì hết ở phía trước và nếu có kẻ thù thì chúng ta cũng sẵn sàng đối phó. Malone và tôi sẽ quay xuống dưới và sẽ cùng Gomez và những người còn lại mang theo súng ống lên. Một người sẽ leo sang trước còn những người còn lại sẽ yểm trợ nếu có kẻ thù. Nếu không có kẻ thù xuất hiện thì cả nhóm còn lại sẽ tiếp bước sang sau.
Giáo sư Challenger ngồi xuống gốc cây và than thở vẻ không kiên nhẫn. Còn Giáo sư Summerlee và tôi lại có ý để cho Huân tước Roxton làm trưởng nhóm trong những lúc như thế này. Việc leo lên bây giờ trở nên dễ dàng hơn lúc trước rất nhiều. Chỉ trong vòng một giờ đồng hồ tất cả chúng tôi đã vận chuyển hết súng trường và súng ngắn lên đỉnh núi. Cả mấy anh chàng người lai cũng đã leo lên trên. Họ cũng đã theo lệnh của Huân tước Roxton mang lên một kiện hàng hóa nhu yếu phẩm đề phòng trường hợp cuộc thám hiểm của chúng tôi phải kéo dài. Mỗi chúng tôi mang theo rất nhiều đạn.
- Nào ngài Challenger! Nếu ngài vẫn còn muốn trở thành người đầu tiên bước chân sang vùng đất bên kia thì mọi thứ đã chuẩn bị xong cả rồi đấy!
- Tôi rất lấy làm hân hạnh được ngài cho phép – Vị Giáo sư đáng kính giận dữ nói bởi vì ông ta là một con người không bao giờ khuất phục trước quyền lực – Chính vì ngài đã tỏ ra tốt bụng với tôi nên tôi sẽ rất lấy làm vinh dự khi trở thành người tiên phong bước sang thế giới bí ẩn kia.
Nói rồi Giáo sư Challenger ngồi xuống cây gỗ hai chân buông thong hai bên, lưng ông đeo một chiếc rìu. Ông di chuyển theo kiểu chống hai tay rồi nâng người như cóc nhảy. Chẳng mấy chốc ông đã sang đến bên kia. Ông trèo lên mép vực và huơ huơ hai tay trên đầu.
- Cuối cùng thì tôi đã sang đến nơi – Ông Challenger kêu lên.
Tôi nhìn Giáo sư Challenger và cảm thấy rất lo lắng. Tôi sợ rằng bất thình lình từ trong khu rừng phía sau ông sẽ xuất hiện một điều gì đó nguy hiểm. Nhưng mọi vật vẫn yên tĩnh như không, chỉ có mấy con chim sặc sỡ bay vọt lên không trung và biến mất vào sau những rặng cây.
Người thứ hai bước sang là Giáo sư Summerlee. Giáo sư có một cơ thể dẻo dai. Trên lưng ông là cả hai khẩu súng trường. Ông mang hai khẩu súng mục đích là để cho Giáo sư Challenger một khẩu. Tôi là người thứ ba. Trong khi lần sang tôi cố gắng không dám nhìn xuống vực sâu phía dưới. Giáo sư Summerlee chìa báng súng cho tôi và trong chốc lát tôi chộp được tay ông. Còn Huân tước Roxton thì đi thong thả trên cây gỗ như người ta đi trên đất bằng. Ông đúng là người có thần kinh thép.
Thế là cả bốn chúng tôi đã có mặt tại vùng đất huyền bí – vùng đất của Maple White. Đối với chúng tôi thì đó là giây phút chiến thắng huy hoàng nhất. Nhưng làm sao ai có thể nghĩ tới rằng những điều đó chỉ là bước dạo đầu cho những tai họa sẽ giáng xuống đầu chúng tôi sau đó.
Sau khi qua cầu chúng tôi bắt đầu tiến về khu rừng. Khi vừa đi được khoảng năm mươi yard thì bỗng có một tiếng động kinh khủng vang lên phía sau lưng chúng tôi. Chúng tôi vội vã chạy bổ lại nơi vừa đứng thì ôi thôi cây cầu đã không còn nữa. Nhìn xuống dưới chân núi tôi thấy một đám cành cây xanh lòa xòa. Đó chính là cây sồi đã bị trượt xuống chân vách đá. Có phải mép vực bị lở và cây gỗ bị rơi xuống không? Ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu chúng tôi. Lát sau chúng tôi thấy khuôn mặt đen đen của gã giúp việc lai da đỏ thò ra bên bờ vực bên kia. Đúng là Gomez nhưng bây giờ thì không phải là Gomez với khuôn mặt hiền lành và nụ cười khiêm tốn nữa rồi mà là một Gomez với bộ mặt méo mó và ánh mắt sắc lạnh. Một bộ mặt sung sướng đến co giật vì lòng hận thù được thỏa mãn.
- Huân tước Roxton! Huân tước Roxton! – Hắn ta kêu lên.
- Ta đây! – Huân tước kêu lên.
Một chuỗi cười vang lên bên kia bờ vực.
- Ngươi ở đấy à? Con chó Anh khốn kiếp! Cứ ở bên đó đi! Ta đã chờ đợi ngươi từ lâu và hôm nay mới có cơ hội. Ngươi thấy thật là khó khi tìm được đường leo lên và ngươi cũng sẽ thấy leo xuống càng khó khăn hơn. Các ngươi hay nguyền rủa những kẻ ngu ngốc. Bây giờ các ngươi đã bị mắc bẫy. Tất cả bọn các ngươi.
Tất cả chúng tôi sững sờ chưa kịp nói gì, mà chỉ đứng như trời trồng nghe hắn nói. Một cành cây lớn bị gãy cho thấy hắn đã sử dụng nó để bẩy cây cầu của chúng tôi xuống vực. Bộ mặt đáng ghét biến mất và lúc sau trở lại. Trông hắn có vẻ điên rồ hơn.
- Lúc ở dưới cửa hang ta đã suýt nữa giết được các ngươi bằng hòn đá lăn - Hắn gầm lên – nhưng bằng cách này các ngươi sẽ chết từ từ và khủng khiếp hơn. Các ngươi sẽ phơi xác bên đó vĩnh viễn. Chẳng ai biết các ngươi ở đâu để mà đến mang xác các ngươi về. Hãy nhớ lại cách đây năm năm khi mà ngươi bắn chết Lopez trên dòng sông Putomayo. Ta là em trai của anh ấy. Từ giờ ta có thể mãn nguyện mà chết vì đã trả được thù cho anh trai của ta – Bàn tay giận dữ của hắn ta điên cuồng vẫy sang phía chúng tôi sau đó tất cả mọi thứ rơi vào im lặng.
Nếu mọi thứ đơn giản chỉ dừng ở chỗ đó nghĩa là tên người lai kia trả mối thù của mình và bỏ đi thì đã may mắn cho hắn lắm. Chính cơn bốc đồng kiểu latinh của hắn đã hại hắn ta. Huân tước Roxton không hổ danh là người được phong Huân tước tại ba quốc gia. Ông là người không dễ dàng bị chửi bới như vậy. Gã người lai đang tìm cách leo xuống chân vách đá thì Huân tước Roxton chạy dọc theo mép vực. Chỉ nghe thấy một tiếng súng nổ và tiếp theo đó là tiếng thét đồng thời có tiếng kêu của thân người rơi xuống đất. Thế là xong đời gã người lai. Huân tước Roxton đi lại phía chúng tôi vẻ mặt đanh lại.
- Tôi đúng là một thằng ngốc bị mù! – ông nói vẻ cay đắng – Bởi vì tôi nên mọi người mới rơi vào tình cảnh này. Đúng ra tôi phải nhớ những kẻ thù của mình và cẩn thận hơn.
- Thế còn một thằng nữa đâu? Phải có hai thằng thì mới bẩy được cây gỗ lớn như thế xuống vực chứ!
- Tôi đã có thể bắn hắn nhưng tôi tha cho hắn thoát. Có lẽ hắn không cố ý làm việc đó. Đúng ra tôi nên giết hắn đi bởi vì như các ngài nói chắc hẳn hắn đã giúp thằng Gomez làm chuyện đó.
Bây giờ nhớ lại chúng tôi mới thấy ý định phản bội trong đầu gã người lai đã có từ lâu. Trước đây hắn là người luôn theo dõi các kế hoạch của chúng tôi. Việc nghe trộm chúng tôi bàn kế hoạch và cái nhìn hận thù của hắn đã bị chúng tôi bắt gặp nhưng lúc đó chúng tôi chưa để ý lắm. Chúng tôi đang bàn bạc thảo luận và cố gắng không để chuyện vừa qua ảnh hưởng đến hiện tại thì một sự việc xảy ra dưới mặt đất thu hút sự chú ý của chúng tôi.
Một bóng người mặc áo trắng đang chạy như ma đuổi. Rất có thể đó là tay người lai mà Huân tước Roxton đã tha mạng. Phía sau hắn ta anh chàng da đen Zambo cao lớn đang chạy đuổi theo. Chỉ một loáng Zambo đã đuổi kịp hắn và choàng tay qua cổ hắn. Cả hai cùng ngã nhào ra đất. Lúc sau Zambo đứng lên nhìn thằng người lai đang nằm thẳng đuỗn dưới đất. Chàng da đen nhìn lên chỗ chúng tôi đang đứng và vẫy tay vẻ mừng rỡ.
Hai kẻ thủ ác đã bị tiêu diệt nhưng những việc mà chúng làm đã hại chúng tôi. Chúng tôi không tài nào sang được bờ vực bên kia nữa. Chúng tôi sẽ vĩnh viễn là cư dân của vùng bình nguyên xa lạ này. Phía xa xa kia chân trời màu tím sẫm là dòng sông dẫn chúng tôi về với thế giới văn minh. Nhưng chiếc cầu đó đã không còn nữa. Không có cách nào có thể đưa chúng tôi sang được bên kia. Một giây phút định mệnh đã làm thay đổi cả cuộc đời chúng tôi.
Đó cũng là giây phút mà tôi phát hiện ba người bạn đồng hành của tôi thật dũng cảm, hơn thế nữa họ là những người có bản lĩnh phi thường và một phong thái điềm tĩnh chưa từng có. Chúng tôi chỉ còn cách ngồi xuống một bụi cây và chờ Zambo quay lại. Lúc này khuôn mặt đáng mến và thân hình như Hécquyn của anh ta nhấp nhô trên những mỏm đá nhọn hoắt.
- Tôi nên làm gì đây? – anh ta kêu lên – Các ngài hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì?
Đó là câu hỏi khó trả lời. Anh ta là một nhịp cầu tin cậy cuối cùng nối chúng tôi với thế giới văn minh.
- Tôi sẽ không bao giờ bỏ rơi các ngài! Cho dù thế nào đi chăng nữa tôi vẫn sẽ ở đây. Nhưng tôi không thể giữ những người da đỏ lại. Họ nói rằng con ma rừng Curupuri đã ở vùng này vì vậy rất khó giữ chân họ lại ở đây.
- Hãy giữ họ lại đến ngày mai! Zambo! – Tôi kêu lên – và tôi sẽ gửi thư cho họ mang về.
- Được thôi! Tôi sẽ cố gắng! Nhưng bây giờ tôi phải làm gì?
Có quá nhiều thứ để anh làm và thật đáng khâm phục là anh ta đã làm được. Trước hết theo chỉ dẫn của chúng tôi anh ta kéo cái dây buộc vào gốc cây mà chúng tôi dùng để leo lên và ném sang chỗ chúng tôi đứng. Mặc dù đó là sợi dây rất mảnh nhưng rất chắc chắn. Khó có thể dùng nó làm dây leo nhưng nó lại rất đắc dụng cho chúng tôi lúc này. Zambo buộc đống hành lý vào đầu dây và chúng tôi kéo sang bên này. Đó là những nhu yếu phẩm mà chúng tôi có thể sử dụng trong khoảng một tuần. Sau đó Zambo lại xuống dưới chân núi và mang lên hai gói đồ nữa trong đó có một hộp đựng thuốc súng và mấy thứ khác. Chúng tôi chuyển mấy thứ đó sang bằng cách ném dây sang bên kia để Zambo buộc vào gói hàng. Buổi tối Zambo mới leo xuống chân núi. Trước khi leo xuống anh ta còn khẳng định rằng sẽ giữ chân những người da đỏ lại cho đến sáng hôm sau.
Cả đêm hôm đó tôi đã dành thời gian để viết thư dưới ánh nến. Chúng tôi hạ trại ngay cạnh mép vực và làm giảm cơn khát bằng hai chai Apollinaris lấy trong đống hành lý. Nước rất quan trọng đối với chúng tôi lúc này nhưng tôi nghĩ Huân tước Roxton đã quá vất vả và mạo hiểm cả ngày hôm nay rồi nên không ai muốn có thêm rắc rối nữa. Thậm chí chúng tôi còn không dám đốt lửa hoặc gây bất kỳ một tiếng động nhỏ nào.
Ngày mai (đúng hơn, phải nói là ngày hôm nay, vì khi tôi viết những dòng này thì trời đã bắt đầu rạng đông) chúng tôi sẽ bắt đầu cuộc thám hiểm miền đất lạ này. Tôi không biết khi nào có thể lại viết thư hoặc có thể còn sống để mà viết thư hay không nữa? Lúc này tôi thấy những người da đỏ vẫn chưa bỏ đi và tôi tin rằng anh chàng Zambo trung thành sẽ ở đây để cầm thư của tôi. Tôi chỉ tin tưởng khi trao được lá thư này tận tay cho ai đó.