Về đời Đường, có một nhà ẩn giả họ Thôi tên Huyền Vĩ, là một người mộ đạo. Suốt đời ẩn náu một mình ở Lạc Đông Thôn xử sĩ không thèm biết dư vị phấn hương của mối tình kháng lệ. Trong mảnh vườn u tịch muôn sắc thắm tươi của đủ các giống hoa kỳ, cỏ lạ: nào tùng biếc, trúc xanh, mai trắng, đào hồng... đều tăng vẻ kiều diễm.Bài thơ tiếc hoa sau nói lên được cái thú tiêu khiển thanh tao, nỗi buồn dịu vợi của con người tài hoa phong nhã, trọn đời chỉ biết tiêu khiển, chỉ biết bầu bạn với hoa lá, gió trăng. Một đêm mưa nghe lòng mình nằng nặng.Liên tiêu phong vũ bế sài mônLục tận thâm hồng, chỉ liễu tồnDục tảo thương đài thả đình chửuGiai tiền điểm điểm thị hoa ngânDịch:Cửa sài đóng kín đêm mưa gióLiễu rụng hồng rơi bóng nhạt phaiNiềm riêng phủ lớp rêu xanh biếcLốm đốm hoa in mấy bậc ngoàiGặp lúc tiết xuân êm ả, trăng vườn hoa muôn cánh rạt rào, sắc hương chìm trong sương lạnh. Đêm thanh, bản nhạc thanh bình rít lên pha lẫn vào khóm dương đanh thánh thót những giọt sương đục màu sữa. Vừng trăng lơi lả giữa giấc ngủ im lìm của tạo vật, Huyền Vi thấy lòng mình lâng lâng, một mình đi lẫn thẫn từ khóm hoa này sang khóm hoa khác, bỗng thấy trong vườn có một mỹ nhân áo xanh non màu lá mạ thất thểu đi đến... chập chùng dưới ánh trăng màu vàng nhạt.Huyền Vi lấy làm lạ, tự hỏi:— Đêm khuya, canh tỉnh, tại sao lại có người con gái ở vườn hoa này?Huyền Vi còn ngơ ngác chưa rõ sự thế ra sao, thì mỹ nhân đã bước đến trước mặt thi lễ.Huyền Vi bối rối ngước nhìn nét hoa, hỏi:— Chẳng hay tiểu thư ở đâu, đêm khuya cảnh vắng lại vào nơi tệ viên, ắc hẳn có điều chi chỉ giáo?Cặp môi đào hé mở, vừng ngập chói ngời, như giọng oanh thánh thót, thiếu nữ đáp:— Tiện nữ nhà ở gần đây. Nay cùng mấy người bạn đến đông môn để thăm người dì, tiện đây xin tá túc một đêm biết công tử có khứng cùng chăng.Tuy trước cảnh bất ngờ, nhưng không lẽ từ chối lời nói của mỹ nhân, nên vui vẻ nhận lời. Mỹ nhân cúi đầu cảm tạ rồi bước ra lối cũ.Một lát sau, thiếu nữ kia lại dẫn một đoàn mỹ nhân khác rẽ hoa bước vào. Dưới trăng mờ huyền ão, nét diễm kiều trong gió bụi vẫn không phai, mỗi người như một cánh hoa phù dung lắc lư trước gió.Huyền Vi như hoa mắt, miệng không nói được lời nào, lặn đưa các thiếu nữ vào phòng khách, mời ngồi và hỏi:— Thưa quý nương, chẳng hay quý nương phương danh liệt tánh là gì, mà vóc ngọc thân ngà lại lặn lội đến tệ xá làm vậy.Một thiếu nữ mặc áo màu lục đứng dậy đáp:— Chúng em sống nơi quê mùa, tên họ lại xấu xí, e nói ra làm rát tai công tử chăng!Huyền Vi mỉm cười, nói:— Xin quý nương đừng quá khiêm tốn.Cô thiếu nữ mặc áo nguyệt bạch đứng dậy đáp:— Em đây vốn họ Dương, còn chị mặc áo xanh đây là họ Là, còn chị mặc áo hồng kia là họ Đào...Mỗi thiếu nữ đều đứng dậy tự giới thiệu tên mình. Cuối cùng đến người mỹ nhân nhỏ tuổi nhất. Dương mỹ nhân đứng dậy vỗ vai nói:— Đây là em út của chúng tôi, họ Thập tên A Thác. Tuy có khác họ thật, song từ lúc nhỏ đến giờ mối tình tha thiết và gắn bó với nhau lắm.Đêm nay chúng em hẹn đến Thập Bát Di Nương để chào người, tiện đây chúng em vào yết kiến công tử, để cảm ơn công tử cho chúng em mượn vườn hoa này làm nơi gặp gỡ.Nghe các thiếu nữ ăn nói lưu loát, Huyền Vi toan tìm lời văn hoa và cử chỉ nhã nhặn để đối đáp, nhưng chàng chưa biết nói lời nào thì các thiếu nữ đã đứng dậy nhìn ra vườn hoa, reo to:— A! Thập Bát Di đã đến kìa!!!Dứt lời, mọi người đều chạy ra vườn để đón. Huyền Vi vội lãng tránh sang một phòng bên để lánh mặt.Bọn thiếu nữ thi lễ xong đồng nói:— Chúng tôi đến đây để đón Di Nương, nhưng được chủ nhân mời vào hỏi chuyện nên tiếp đón có hơi chậm trễ, xin Di Nương miễn thứ cho.Di Nương có tên là Phong Di, một thiếu nữ oai vị, tuy vẻ đẹp phong nhã, nhưng có hơi đanh ác, bước tới nhìn các thiếu nữ kia, mỉm cười nói:— Đã mấy lần định đến thăm các em nhưng vì bận việc không đi được, hôm nay mới có dịp, để các em phải nóng lòng mong đợi, thực chị có lỗi lắm.Các thiếu nữ đồng thanh đáp:— Được quý nương chiếu cố đến thăm các em, các em có gì mừng hơn. Vậy đêm nay trăng sáng, hoa tươi, xin quý nương vào tạm nơi đây để chúng em được dâng ly rượu thọ.Phong Di nhìn vào căn phòng trống, hỏi:— Hội họp ở đây có gì bất tiện không?Dương mỹ nhân đáp:— Chủ nhân ở đây là một bậc quân tử, thanh tao và nho nhã, vả lại khu vườn này cũng khá u tịch, không có gì đáng để cho Di Nương ái ngại cả.Phong Di hỏi:— Thế thì chủ nhân hiện giờ ở đâu?Huyền Vi đang ở phòng kế cận, nghe Phong Di hỏi đến mình, liệu khó bề trốn tránh nên vội bước ra thi lễ.Các cô thiếu nữ vội vàng nhắc ghế mời Phong Di ngồi trên rồi lần lượt nắm tay nhau ngồi chung quanh. Huyền Vi kéo ghế ngồi bên ngoài để giữ lễ.Chẳng bao lâu, bên ngoài có một cô tỳ nữ bưng vào một mâm đầy những thứ món ngon vật lạ, tỏa trong phòng một mùi thơm ngát. Trong đó đủ các thứ bánh, Huyền Vi không biết thứ bánh gì mà gọi. Lại còn có những thứ rượu gì bay hơi ngọt ngào như mật ong vậy.Các thiếu nữ rót rượu, mời Phong Di uống trước.Phong Di cầm ly rượu, tỏ lời mời các thiếu nữ đồng nhau đối ẩm.Các thiếu nữ tiếp lời mời Huyền Vi.Đêm thanh trăng tỏ, bên ngoài gió hiu hiu thổi, tiếng trúc rạc rào như muôn nhạc điệu lắng chìm trong cảnh tịch mịch u huyền.Cạn nửa tuần rượu, thiếu nữ mặc áo hồng đứng lên, rót thêm đầy chén ngọc tử hà, dâng cho Phong Di và nói:— Tiện nữ có mấy câu hát này xin dâng cho Di Nương giải muộn.Nói xong nàng cất tiếng hát lâng lâng:Phi y, phi phất lộ doanh doanhĐạm nhiễm yên chi, nhất đóa khinhTự hận hồng nhan lưu bất tụcMạc cán xuân phong đạo bạc tình.Dịch:áo xiêm phất phới giữa sương lamMột đóa hương hoa phận yếu mềmNghĩ trách hồng nhan thường mệnh bạcTrách chi ngọn gió chẳng thương tìnhTiếng ca lảnh lót, lâng lâng một mối buồn nhè nhẹ... hòa nhịp theo khúc nhạc trúc êm đềm, tưởng như vũ trụ đang quay cuồng giữa cảnh bồng lai.Dứt tiếng hát, thiếu nữ mặc áo màu nguyệt bạch lại đứng dậy dâng rượu cho Phong Di rồi ca tiếp một bài khác:Hạo thiết ngọc nhan trăng bạch tuyếtHuống mãi đương niên đối phương nguyệtTrầm ngâm bất cảm oán đông phongTự thán dung hoa ám tiêu yếtDịch:Tấm thân trong tợ tuyết sương phaBát ngát hơi hương dưới nguyệt tàNhìn ngọn gió đông không dám tráchChỉ than cho một kiếp đời hoaTiếng hát rít lên như muôn cung đàn rào rạc trong gió lộng u hoài.Phong Di lúc đó đã say, lòng vẫn có tánh khinh bạc mọi người, nên lòng trắc ẩn nỗi lên, chưa nghe hết câu đã vội trách mắng:— Đêm thanh trăng tỏ, cuộc hội ngộ này đáng lẽ tìm những lời vui vẻ hát ca, sao các cô lại tấu lên những khúc nhạc nghe bi thảm làm vậy? Vả lại trong lời hát, ta cảm thấy như có một cái gì hống hách, ngạo mạn, ta phạt cho mỗi cô phải uống thêm một chén lớn nữa để rồi mỗi người phải hát lên một khúc hát vui vẻ xem nào?Nói xong, Phong Di lại nâng chén uống một hơi.Lúc bấy giờ hơi rượu đã thắm vào tâm não, Phong Di say liểng niểng, bưng ly rượu ngất ngưởng ngã xiêu vẹo đổ vào chiếc áo hồng của nàng A Thác, một thiếu nữ ngồi gần bên cạnh.Nàng A Thác vốn tánh điềm tĩnh, bị rượu đổ vào áo, nàng phật ý, nét mặt cau lại trong hơi men đã chếnh choán, nàng vụt đứng dậy nói:— Tại sao lại có những cử chỉ thô lỗ như vầy? Bữa tiệc hôm nay là bữa liên hoan, phải đâu để dùng quyền thế mình mà khinh bạc kẻ khác. Các chị ai muốn cầu cạnh thì ở đó, phần tôi, tôi không cần gì đến ai cả.Nói xong, A Thác đứng dậy rũ áo bước ra khỏi phòng.Phong Di tái mặt, chỉ tay ra cửa nói:— Khốn nạn, nó dám mượn hơi rượu để mà miệt hạ ta như thế sao? Ta quyết cho một trận để cho nó biết phận mình.Nói xong, Phong Di cũng đứng dậy rũ áo bỏ ra ngoài.Các thiếu nữ đều một mặt khuyên giải:— A Thác tuổi trẻ, lại bị say quá nên xúc phạm đến Di Nương, xin Di Nương để đến hôm khác, chúng tôi sẽ dẫn A Thác đến mà tạ tội.Phong Di chẳng cần nghe lời can gián của các thiếu nữ kia, mặt hầm hầm bước xuống thềm.Các thiếu nữ sợ sệt, từ giã Huyền Vi rồi bước theo, vạch hoa đi tản ra tứ phía.Huyền Vi lấy cớ tiễn khách, bước ra thềm để xem tông tích cá thiếu nữ ở nơi đâu. Nhưng khi Huyền Vi vừa bước ra đến thềm thì bóng các cô thiếu nữ kia không còn thấy đâu nữa.Lấy làm lạ, Huyền Vi nghĩ bụng:— Những con người áo xiêm ủy mỵ, ăn nói lưu loát như thế chẳng lẽ lại mà ma quái gì hiện đến sao? Mà cũng không lẽ ta đã nằm mộng?Nỗi thắc mắc tràn ngập trong lòng Huyền Vi. Chàng lảo đảo bước vào phòng thì mâm chén cùng các đồ ăn lúc nãy cũng đã biến đi đâu mất, chẳng còn lưu lại một vết tích gì; duy chỉ có mùi hương còn phảng phất chưa phai.Huyền Vi càng kinh ngạc, nghĩ bụng:— Đây hẳn là một điều quái gỡ, tuy nhiên dù sao cũng không đến nỗi tai hại gì.Nghĩ như thế, chàng an tâm, và cố tìm hiểu xem các cô nàng kia thuộc vào giống gì cho biết.Chiều hôm sau, Huyền Vi đang thơ thẩn trong vườn. Vừng trăng bắt đầu buông những tia sáng yếu ớt rải trên các khóm cây cao, chàng thoáng thấy xa xa có bóng đoàn mỹ nhân hôm trước đang quây quần quanh một thiếu nữ.Chàng rón rén bước đến. Thì ra các cô kia đang khuyên nàng A Thác nên đến tạ tội với Phong Di.A Thác vùng vằng nói:— Các chị cứ đầu phục mãi cái con mẹ độc ác ấy sao? Người ta đã không có lòng thương chúng mình thì dù chúng mình có cầu khẩn đến đâu cũng không ích gì. Tốt hơn chúng ta nên cầu công tử Huyền Vi đây, có tốt hơn không?Vừa nói, A Thác vừa quay lại. Các thiếu nữ đưa mắt nhìn theo. Thấy bóng Huyền Vi, mọi người đều reo lên. Huyền Vi cực chẳng đã phải ra mặt bước đến.A Thác bước đến trước mặt Huyền Vi kính cẩn chào và nói:— Chị em chúng em đều trú ngụ trong vườn của công tử. Nhưng phận liễu yếu đào tơ không nơi nương tựa. Hàng năm thường có trận gió đông thổi đến bắt chúng em phải dập liễu vùi hoai có đắc lộc, quyết sẽ bắt thái sư Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho đền lại những ngày nhục nhã.Hạ Tri Chương thế cũng đau lòng, vội vàng khuyên giải:— Hiền đệ chớ có nản lòng, hãy cứ ở lại tệ xá, chờ ba năm nữa đến kỳ thi, may ra gặp những khảo quan thanh liêm chánh trực, chừng ấy hiền đệ được bảng hổ đề tên cũng chưa muộn.Lý Bạch nghe theo. Từ đó hai người tri kỷ, lúc vịnh nguyệt, lúc mơ trăng không nhắc gì đến chuyện thi cử nữa cả.Bỗng một hôm, sứ giả nước Phiên đem thơ đến triều. Vua Huyền Tôn giáng chiếu sai Hạ Tri Chương ân cần tiếp đãi sứ giả.Rạng ngày hôm sau, vua Huyền Tôn lâm triều, truyền cho sứ giả dâng thơ, và khiến Hạ Tri Chương mở ra xem trước long án.Hạ Tri Chương mở bức thơ ra không biết một chữ nào cả.Vua Huyền Tôn tức giận cho đòi cả triều thần văn ban, võ bá đến, hỏi xem có ai biết được thứ chữ riêng của nước đó không? Cả triều thần đều mù tịt.Huyền Tôn đập long án hét:— Trong triều có bao nhiêu người lãnh bảng vàng bia đá, lộc cả quyền cao, lúc bình thường thì múa môi khua mép, đến lúc hữu sự lại nín tiếng câm hơi. Chẳng lẽ chừng ấy, cẩm bào, chừng kia hốt bạc mà không được lấy một người học rộng tài cao để đọc bức thơ của Phiên quốc? Nếu thơ không đọc được thì biết đâu mà trả lời, và như thế còn gì thể diện của Thiên Triều nữa. Trẫm hạn cho các khanh 6 ngày nếu không đọc được bức thơ của Phiên quốc thì Trẫm sẽ cách chức hết.Các quan văn võ, ai nấy mặt mày tợ nhuộm chàm, đứng ngơ ngẩn nhìn nhau như những bức tượng đá.Lúc bãi triều, Hạ Tri Chương buồn bực trở về nhà kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Lý Bạch nghe. Lý Bạch tủm tỉm cười rồi ngao ngán nói:— Nếu khoa thi trước kia mà không có những bọn gian thần tham nhũng thì ngày nay triều đình đâu có cái nhục đó!Hạ Tri Chương nghe Thái Bạch nói, giật mình hỏi:— Thế ra hiền đệ có thể đọc được chữ của nước Phiên sao?Lý Bạch khiêm tốn đáp:— Có lẽ...Hạ Tri Chương mừng rỡ vô cùng. Sáng hôm sau, Hạ Tri Chương vào triều thật sớm, ngồi đợi nơi viện Đãi Lâu.Ba hồi chuông Cảnh dương nổi dậy, tiếp theo ba hồi trống Long Phụng rung lên, vua Huyền Tôn vội vã từ giã các cung phi lâm triều.Triều thần bái yết xong, Hạ Tri Chương quỳ tâu:— Muôn tâu Bệ hạ, muốn đọc bức Phiên thư, hạ thần nhắm đi nhắm lại trong nước chỉ có một người. Người ấy họ Lý tên Bạch, một kẻ học rộng tài cao, thiên tư lỗi lạc, ngoài ra không còn ai nữa.Vua Huyền Tôn phán hỏi:— Lý Bạch hiện nay ở đâu?— Tâu Bệ hạ, Lý Bạch hiện đang ở nhà hạ thần.Vua Huyền Tôn chuẩn tấu cho người đến tư dinh Hạ Tri Chương để thỉnh Lý Bạch.Sứ giả đi một lúc trở về tâu:— Tâu Bệ hạ, hạ thần đã đến mời Lý Bạch nhưng Lý Bạch không chịu yết kiến, viện lẽ là kẻ vô tài kém đức, không đáng mặt triều kiến Bệ hạ.Nhà vua hỏi lại Hạ Tri Chương:— Lý Bạch không chịu phụng chiếu vì lẽ nào vậy?Hạ Tri Chương đáp:— Tâu Bệ hạ, Thái Bạch vì hiện có cái nhục năm trước vào trường thi bị khảo quan đánh hỏng đuổi ra trường. Nay áo vải vào triều nên hổ thẹn, vậy xin Bệ hạ rộng lượng ban ơn huệ, thì thế nào y cũng phụng chiếu.Huyền Tôn y tấu, sai người đến phong chức tiến sĩ cập đệ cho Lý Bạch, lại cấp đai vàng, bào tía, hốt ngà, mão gấm để cho vẻ vang nhà thơ “tửu hứng tiên thơ...”Hạ Tri Chương còn sợ Lý Bạch không khứng, nên trở về nhà bảo Bạch:— Nay Thiên Tử đã có lòng ái mộ hiền nhân, vậy hiền đệ đừng vì hiềm tˇ lũ tham quan mà phụ lòng Thiên Tử, bỏ lỡ dịp may.Bạch vâng lời, mặc triều phục, theo Hạ Tri Chương vào triều bái yết.Huyền Tôn thấy Lý Bạch cốt cách đoan trang, phong lưu tuấn tú như vị tiên giáng thế, trong lòng thầm phục, và phán rằng:— Nay có thư Phiên quốc đưa đến, cả triều thần không ai đọc nổi, vậy trẫm triệu khanh đến để cùng trẫm chia lo.Thái Bạch tâu:— Tâu Bệ hạ, tài năng của hạ thần chưa đủ làm vừa ý khảo quan thì dám đâu mong làm vừa lòng Bệ hạ.— Khanh đừng tự hạ mình như thế, xem tướng mạo của khanh, trẫm đã biết tài của khanh đến bực nào rồi.Nói xong, Huyền Tôn sai thị vệ đòi Phiên sứ đến.Lý Bạch mở thư trước mặt sứ thần đọc to:“Đại Khả Độc nước Bột Hải gởi Đường Triều khẩn khán:Từ khi người chiếm cứ nước Cao Ly đến nay, hai biên giới tiếp liền, binh sĩ hai bên nhiều lần gây hấn. Bản quốc không thể nhẫn nại trước hành động của quân gia Đường quốc nữa, nên sai sứ đến Đường triều, nếu thuận thời đem tất cả một trăm bảy mươi sáu thành Cao Ly nhường lại cho bản quốc, sẽ có những tặng phẩm sau đây phụng tặng: nai Hạnh sơn, vóc Nam Hải, trống Bành thành, hưu Phù dư, lợn Trịnh hiệc, ngựa Suất Tân, lục ốc châu, cá Vị Đà, mận Cửu Lộ, lê Lạc Ty.Nếu kháng à, bản quốc sẽ cho binh biến, chừng ấy máu rây ngàn dặm, ăn năn thì đã muộn, chớ trách bản quốc không cho biết trước”.Huyền Tôn nghe xong bức thư mặt mày biến sắc, hỏi văn võ bá quan:— Nay Phiên vương ngạo mạng Thiên Triều lại hăm chiếm đoạt Cao Ly, vậy các khanh có cách gì chế ngự không?Cả đình thần đều im bặt.— Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ hỏi thử Thái Bạch có ý kiến gì hay chăng?Huyền Tôn hỏi Lý Bạch, Lý Bạch tâu:— Việc này không có gì đáng để Thánh Thượng phải nhọc tâm. Ngày mai, xin Bệ hạ cho đòi Phiên sứ vào triều, hạ thần sẽ viết một phong thư bằng chữ Phiên bang mà trả lời, cho chúng nó một bài học thích đáng thì chúng nó phải phục tòng.Huyền Tôn hỏi:— Trong thư tự xưng là Khả Độc, vậy Khả Độc là người nào?Lý Bạch tâu:— Khả Độc là tên vua nước Bột Hải.Thấy Lý Bạch đối đáp thông suốt, vua Huyền Tôn bèn phong cho Bạch chức Hàn Lâm học sĩ, lại truyền tứ yến tại Kim Loan, cho phép Lý Bạch tự do chè chén, không phải bó buộc vào nghi lễ.Bạch uống rượu đến say tít cung trăng, không còn biết đất trời gì cả. Nhà vua sai thị vệ đỡ Bạch lên nằm ở Điện tiền.Hôm sau, đầu trống canh năm vua Huyền Tôn đã lâm triều còn Lý Bạch say mèm chưa tỉnh.Bọn nội thị lay gọi, Lý Bạch vẫn nằm ỳ ra đấy. Nhà vua thấy thế bèn bắt ngự trù nấu canh cho Lý Bạch ăn để giải rượu.Lúc thị vệ dâng canh lên nhà vua thấy canh còn nóng bèn tự mình cầm thìa khuấy cho nguội để cho Lý Bạch dùng.Lý Bạch tạ Ơn, dùng xong mấy thìa canh thấy trong người tỉnh mỉnh, ma men bay đâu mất.Một lúc sau, Phiên sứ vào triều kiến, Lý Bạch đứng bên ngự tọa, tay cầm bức thư của Phiên sứ đọc rất to, không lầm lộn một chữ nào.Phiên sứ thấy thế sợ sệt vô cùng.Lý Bạch thay vua phán rằng:— Nhà ngươi là sứ một tiểu quốc lại dám vô lễ với thiên triều, lẽ ra phải xử tội; tuy nhiên, thánh thượng dùng lượng cả bao dung, vậy nhà ngươi hãy phục sẵn dưới thềm để chờ lời phê chiếu.Vua Huyền Tôn truyền đặt văn kỷ thất bảo bên Ngự Tọa, dùng nghiên Bạch Ngọc, bút ngà, mực Long Yên, giấy Kim hoa tiên và nhắc cẩm đôn đến đặt bên Ngự tọa để cho Lý Bạch thảo chiếu.Lý Bạch tâu:— Giày của hạ thần không được thanh khiết cho lắm, e phạm đến Thánh thể, vậy xin Bệ hạ cho phép hạ thần được cổi giày đi tất không, để lên điện ngọc.Vua Huyền Tôn nghe nói, toan truyền bọn nội thị tháo giày cho Lý Bạch, nhưng Lý Bạch đã tâu thêm:— Hạ thần có một lời, xin Bệ hạ tha cho hạ thần cái tội cuồng vọng này.— Được, khanh muốn gì cứ việc tâu, dù khanh có lầm lỗi đến đâu, trẫm hứa không chấp trách.Lý Bạch tâu:— Ngày trước hạ thần vào thi bị thái sư Dương Quốc Trung và thái úy Cao Lực Sĩ đánh hỏng. Nay hai người có mặt làm cho văn khí hạ thần bị bế tắc. Vậy muốn cho văn ý của hạ thần được phấn khởi, rửa nhục cho quốc vương, xin Bệ hạ truyền cho thái úy tháo giày và thái sư mài mực để cho hạ thần thảo chiếu.Vua Huyền Tôn nghe qua sững sốt, nhưng không biết phải làm sao, đành truyền chỉ bắt Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho Lý Bạch. Hai người này tự biết không thể cãi lịnh đành phải cúi đầu trơ mặt tuân hành trước văn ban võ bá.Lý Bạch đắc à, ngạo nghễ ngồi trên cẩm đôn, một tay vuốt râu, một tay múa bút.Thảo xong tờ chiếu, Lý Bạch đứng lên long án.Vua Huyền Tôn thấy tự tích không khác gì bức thư của Phiên bang, tuy không nói ra, lòng rất đẹp à, nghĩ thầm: “Con người tài cao học rộng như vầy, dầu ta có bắt thái sư mài mực, thái úy tháo giày cũng là việc phải”.Nghĩ xong, truyền cho Phiên sứ phục chỉ.Lý Bạch đến trước Ngự tọa, cao giọng đọc bức chiếu thư:“ Hoàng đế Thiên triều chiếu dụ cho Khả Độc nước Bột Hải biết: trước đây Thạch Nhoãn đầu phục, Đà Long lai hàng, bản triều ứng theo mệnh trời mà lập ngôi Hoàng đế, lấy đức vỗ bốn phương, lấy oai trị thiên hạ, binh hùng tướng mạnh, các nước lân cận thảy khiếp oai. Điệt Lợi bội thề nên bị bắt, Tán Phổ khiếp vía phải hàng đầu; Tân La, Thiên Trúc, Ba Tư hằng năm dâng cống lễ; Lâm ấp, Cốt Lợi, Nê Rà La, đều sợ thế chẳng dám giở đao binh.Cao Ly vì trái ý Thiên trièu, nên bị Thiên triều vấn tội. Tấm gương ấy đáng cho nước nhà ngươi soi. Nay nước Bột Hải chỉ là một nước phụ thuộc của Cao Ly, sánh với Trung Quốc chẳng quá là một quận bé nhỏ, binh tướng, lương thực có bao nhiêu mà dám châu chấu đá voi. Nếu nghịch mạng trời ắc là không tránh khỏi tội.Nay Thiên triều đức trọng ơn dày, lấy lời nhơn nghĩa mà dung thứ cho kẻ cuồng si ; vậy khuyên Khả Độc mau sớm tỉnh ngộ, xưng thần nộp cống, cãi lịnh, xương phơi thành núi, máu chảy thành sông, mua cười cho thiên hạ”.Nay dụ.Vua Huyền Tôn nghe đọc, khoan khoái vô cùng, truyền nội giám trao lời chiếu cho Phiên sứ.Phiên sứ cũng thất kinh không dám nói một lời, cúi đầu bái mạng, rồi bước ra.Hạ Tri Chương đưa Phiên sứ ra đến cửa ngọ môn, Phiên sứ hỏi:— Người thảo chiếu làm chức chi trong triều mà lại khiến thái sư mài mực, thái úy tháo giày như thế?Hạ Tri Chương đáp:— Người ấy tên Bạch họ Lý, được phong làm chức Hàn Lâm học sĩ. Đấy là một bậc thần tiên trên cung trời trích giáng để giúp Thiên triều. Thái sư, thái úy bất quá là một người phàm, há đi mài mực cho ông ta không đáng sao?Phiên sứ ghi nhớ mọi điều, về đến kinh đô tâu lại đầu đuôi cho vua xứ Bột Hải rõ. Khả Độc nghe nói có thần tiên giáng trần giúp sức nên khiếp đởm, bao nhiêu ý tưởng khinh dễ điều tiêu tan cả, vội vã viết hàng thư sai người đem lễ vật triều cống như trước.Vì vậy, vua Huyền Tông trọng đãi Lý Bạch vô cùng, muốn gia phong cho Lý Bạch thêm chức tướng nhưng Lý Bạch một mực từ chối:— Tâu Bệ hạ, bạc tiền, châu báu, chức tước đối với hạ thần không thích thú bằng tiêu dao nhàn hạ, xin Bệ hạ cứ cho giữ tước Học sĩ du ngoạn, hễ gặp rượu ngon thì uống, đủ vậy.Biết Lý Bạch là bực thanh cao không dám làm phật lòng. Từ đấy cứ lâu lâu nhà vua lại m. Vì vậy mà chúng em phải cầu khẩn nàng Thập Bát Phong Di che chở. Tuy nhiên, tánh Phong Di ác nghiệt, thường hay giận hờn, vì thế tìm đủ lời sách hạch làm chúng em khổ sở vô cùng. Mới đây Phong Di lên mặt giận dữ em, chúng em đoán chắc thế nào rồi đây chúng em cũng bị một trận trừng phạt. Nếu công tử đoái lòng thương chúng em, che chở cho chút phận yếu mềm của kiếp đời hoa thì chúng em nguyện ghi ơn muôn thưở.Huyền Vi hỏi:— Tôi làm sao mà che chở cho các cô được?A Thác nhanh nhẩu đáp:— Cứ mỗi năm vào ngày nguyên đán, chúng em cầu xin công tử làm cho một lá phan màu đỏ, trong đó vẻ một tấm bùa bát quái trấn ngũ lôi, dựng ở phía đông hoa viên, như thế chúng em sẽ được bình yên ngay.Huyền Vi nói:— Năm nay nguyên đán đã qua rồi, thì còn làm thế nào được.— Ngày hăm mốt tháng hai là ngày tết. Nếu buổi bình minh hôm ấy mà có gió thổi nhiều thì nhờ công tử giúp cho.Huyền vi mỉm cười nói:— Việc đó đâu có khó gì, chỉ sợ công việc giúp ích của tôi không đem lại cho các cô một kết quả nào thì lòng tôi không an đó thôi.— Nếu được công tử nhận lời thì chúng tôi không còn lo gì nữa cả.Nói xong, các thiếu nữ đều từ giã Huyền Vi, rẽ hoa, thoăn thoắt bước đi. Chẳng mấy chốc bóng các thiếu nữ đã biến đi đâu mất. Trong vườn chỉ còn mùi hương thoang thoảng, cái thứ mùi hương quen thuộc thường ngày.Muốn chiêm nghiệm thử xem những lời nói của các thiếu nữ kia có đúng không, ngày hôm sau Huyền Vi làm một cành phan màu đỏ, vẽ bùa ngũ lôi chực sẵn ở đó.Đúng vào ngày hai mươi mốt tháng hai, trời chưa rạng sáng, Huyền Vi đã thức dậy ra vườn.Giữa lúc ấy quả có luồn gió lốc từ xa thổi đến; ban đầu còn yếu ớt, nhưng mỗi lúc một mạnh dần, sau thành một trận cuồng phong rất dữ dội.Huyền Vi lập tức đem cành phan vẽ bùa ngũ lội, dựng về hướng đông theo lời dặn của các thiếu nữ. Bốn bề cây cối xao động, các cây cao đổ lá tơi bời, bay phất phới như cánh chuồng. Tuy nhiên, trong vườn các cây hoa vẫn đứng nguyên vẹn và tươi tốt, khoe màu khoe sắc muôn vẻ.Huyền Vi nghĩ ra một kế, các thiếu nữ kia là kết tinh của các giống hoa. A Thác là tinh hoa Thạch Lựu, còn Phong Di là nàng gió...à! té ra lại có những nàng hoa sống chung trong vườn thưởng thức, nhưng chàng đâu có hiểu.Chiều hôm ấy, các thiếu nữ, với vẻ diễm kiều, bước đến tạ Ơn:— Được nhờ ơn công tử đoái lòng thương, giúp đỡ cho các em thoát khỏi tai nạn, chúng em không có gì để đền ơn cho xứng đáng. Chúng em có chất Anh hoa đây là kết tinh của muôn hoa, xin dâng cho công tử. Xin công tử cứ che chở cho các em mãi như thế thì các em có thể trường sinh mà đạt đến địa vị hoa tiên.Huyền Vi không nỡ từ chối, tiếp nhận tặng phẩm của mấy cô nàng.Chất Anh hoa ấy quả nhiên quà hóa vô cùng. Mỗi sáng, Huyền Vi dùng một chút với nước trà, tự nhiên thấy trong người khoan khoái và vui vẻ suốt ngày. Chẳng bao lâu, dung nhan của Huyền Vi bỗng trẻ lại như người trai trên tuổi đôi mươi.Sau đó, chẳng ai hiểu rõ chàng ta đi đâu, chỉ thấy trong truyện còn lưu lại một bài thơ như vầy:Lạc Trung, Xử Sĩ ái tài baTuế tuế chu phan hội thái hòaHọc đắc xan anh kham bất lãoHà tu canh mịnh táo vi qua!Dịch:Xử Sĩ yêu hoa chốn Lạc TrungNăm năm dựng một cánh phan hồngAnh hoa đã nếm mùi bất lãoDưa, táo cần gì đợi suốt canh!