Tôi đoán chắc với anh đấy Sam, rằng tôi chưa từng thấy một việc như thế! – Ông Jones thét qua điện thoại. John đã quyết định đi lên lầu ngủ, cậu len lén đi về phía hành lang vừa nói nhỏ: - Chúc bố ngủ ngon Ông Jones gật đầu đáp lại và nói tiếp qua điện thoại: - Phải… Phải, tờ báo của tôi! Nó đã bị giật ra khỏi tay của tôi… Phải rồi, tôi nhớ xưa kia trong nhà bà của anh cũng đã xảy ra những chuyện tương tự. John không vội vã đi lên thang lầu, cậu không vội lên phòng để ở một mình giữa những bức tường vì thừa biết rằng Râu Đen đi lùng sục từ phòng này đến phòng khác. Cuối cùng còn muốn nghe những gì cha cậu nói với cha của Henry. Cậu dừng lại trên nhịp nghỉ của cầu thang và lúc này bên dưới, tiếng của bố cậu vang lên: - Phải, phải, tôi thừa nhận ra rằng cũng như ở nhà bà của anh. – Ông Jones nói tiếp. – Tôi không bao giờ tin rằng có thể xảy ra như thế. Vâng tôi hiểu… cả một chuổi phiền toái…cuối cùng chúng tôi mong rằng câu chuyện kỳ lạ này sẽ không buộc chúng tôi rời căn nhà của chúng tôi! John thầm nghĩ: “Mà đúng thật, sẽ xảy ra điều gì nếu người ta đồn rằng nhà của mình bị ma ám? Và nếu như Râu Đen đốt nó thì sao? Ông ta dám làm lắm!” Cậu bé do dự đi về phòng ngủ của mình vừa tự hỏi một lần cuối: “Nếu như cha mình cứ tiếp tục chửi rủa Râu Đen thì sẽ xảy ra những gì nữa? Cha mình không ngừng mạt sát ông ta là đồ vô lại.” Nơi phòng của cậu ở cuối hành lang tràn ngập bóng tối. Cậu phải lấy hết can đảm để đi đến đó. Cậu run rẩy đưa bàn tay về phía nắm cửa, như nó là một gói thuốc nổ. John xoay nắm cửa lao nhanh vào căn phòng tối tăm kia, tiến nhanh đến bàn ngủ nơi có đặt một chiếc đèn. Trong khi cậu mò mẫm tìm nút bật đèn, bàn tay cậu cảm nhận một vật lạnh, cứng, có hình cong nằm trên bàn ngủ. Cậu sờ nắn dọc chiều dài của vật này bỗng dưng dừng lại. Cậu vừa nhận ra chiều cong và nhất là cái cán gươm chỉ huy của Râu Đen! Do đó, cậu vội vàng bật đèn lên.John sợ hãi nhìn cây gươm. Rồi cậu ngẩng đầu lên quan sát gương mặt mình trong chiếc gương treo tường. Cậu thấy mình thật xanh xao! Và đôi mắt… như mắt một con thú bị truy đuổi! Như cậu tự trấn an: “Nếu như mình nhìn thấy cây gươm của ông ta, – Cậu bé tự nhủ với một tiếng thở dài nhẹ nhõm, – mình sẽ thấy được ông ta. Có lẽ ông ta không có ở trong phòng mình, cũng không có trong nhà… có thể ông ta đã đi đến nhà của Henry …” Vừa suy luận như vậy, cậu vừa quan sát toàn bộ căn phòng của mình trong gương. Bên phải, có một chiếc ghế bành mà cậu chỉ nhìn được cái lưng ghế cao. Sau chiếc ghế bành là tủ sách và trên bức tường những tranh ảnh vẫn nguyên chỗ cũ cũng như bộ sưu tập cờ nhỏ… John an tâm xoay mình lại và trong một giây cậu lại đứng im, cố né một tiếng kêu kinh ngạc: “Ồ!” Chính lúc đó John nhìn thấy những gì mà cậu không thể phát hiện được trong gương, Râu Đen ngồi sâu trong lòng chiếc ghế bành, chân dạng ra. Cổ áo bật lên và chiếc mũ ba cạnh kèo xuống che đến tận mũi. Bộ râu dày rậm của ông trải ra trên ngực. Chỉ có đôi mặt ánh lên vẻ tinh ranh, là thấy được. Miệng ông ta cười, lộ ra hai chiếc răng vàng. Còn hai bàn tay ông rũ xuống hai bên ghế, trong đó có một bàn tay vẫn cầm chặt chai rượu rhum. John lao đến cửa, và khi đặt tay lên nắm cửa thì một giọng nói ồm ồm mà bây giờ cậu đã quen khiến cậu như dán chặt chân tại chỗ: - Hãy ở lại đây đi, chú bé! Dù sao trong giọng nói không có chút gì đe dọa cả. John thở dài, buông tay nắm cửa và quay lại đối diện với hải tặc Râu Đen. Ông ta ngoác miệng ra cười. Cậu bé nghĩ: “Ông ta không có vẻ gì là một con ma cả và ông ta hành động giống như bất cứ một người bình thường nào khác. Nhưng tại sao có đôi lúc nghe được ông ta nói và đôi lúc không nghe được? Còn chỉ có Henry và mình thấy được ông ta nhỉ? Nhưng không phải lúc nào cũng thấy cả?” Cho đến lúc này cậu vẫn nghĩ rằng hồn ma là một bộ xương có mặc một tấm vải liệm, chân kéo lê một xích sắt và rên rỉ. Dĩ nhiên Râu Đen không mang hình ảnh đó. - Chú bé không có lý do gì sợ ta cả. – Ông ta nói tiếp như căn phòng này là của ông ta. – Nào, ngồi xuống đi. John ngồi xuống giường càng xa ông ta càng tốt. Cậu lần lượt ngạc nhiên nhìn Râu Đen rồi nhìn chiếc gương. Lão hải tặc đẩy chiếc mũ của mình lên, nhíu mày, đưa tay vung vẩy chai rượu về phía chiếc gương một cách đầy đe dọa. - Chiếc gương chết tiệt! – Ông ta lầu bầu. – Ta rất muốn nhìn mình trong đó, mà không có gì cả, hoàn toàn không có gí. Không một chút gợn sóng! Ông ta đưa chai rượu lên miệng, nốc một ngụm, nhăn mặt, chùi miệng với tay và nói thêm: - Đã…không biết bao nhiêu năm qua ta không soi gương… Ông ta ngồi im lặng một lúc. Trong khi John cố khắc phục sự bực bội của mình. Rồi ông ta đưa chai rượu lên, vừa quan sát vừa nháy mắt, rồi trút nó xuống và khi biết rằng rượu trong chai đã hết ông ta tiếc rẻ đặt nó xuống sàn nhà. - Thành phố này không như trước nữa. – Ông ta than nhỏ. – Nhưng dù sao cũng khá hơn nhiều nơi mà ta đã từng đến đây! Ông ta lại im lặng khoảng một phút. Râu Đen chăm chú nhìn John lo ngại. Cậu bé có cảm giác mình giống như một con côn trùng bị quan sát qua kính hiển vi bởi một kẻ tâm thần, cuối cùng Râu Đen nói tiếp: - Khi nào chú bé sẽ đuổi ta đi khỏi đây hả? Chú bé biết rất rõ rằng phép của ta đã quá hạn từ rất lâu. Nếu ta đi trễ, ta sẽ có cả đống rắc rối… Ông ta ngồi im lặng một lúc, hai cùi chỏ chống lên đầu gối. Rồi nói: - Chú bé có định đuổi ta không? Nói đi! John đáp với một giọng mà nó nghĩ xuất phát từ một khoảng cách khá xa: - Sự… sự thật, thưa ngài thuyền trưởng là cháu không biết phải làm thế nào để đuổi ông… Với một ánh nhìn hoài nghi, Râu Đen đứng lên đi tới đi lui trong phòng và lầu bầu: - Như vậy ta kẹt cứng rồi! Ông ta dừng lại nhìn John với một khuôn mặt rạng rỡ. - Chú bé đừng sợ, đừng sợ tí nào cả. Đúng vậy ta đã bỏ neo cạnh quán “Đầu Heo Rừng”. Nhưng không hại cho chú bé, không nguy hiểm đâu! Và cả khi ta không bao giờ trở lại nơi... ta đã từ đó đến đây… Ông ta bật cười lớn đến chảy nước mắt mà ông ta phải lau bằng một chiếc khăn tay cũ kỹ và dơ bẩn. John chờ đợi nghe tiếng chân nhanh chóng của cha mẹ đang leo lên cầu thang. Cậu nghĩ rằng tất cả mọi người ở những nhà bên cạnh đều đã nghe tiếng cười quá to như thuốc súng đang nổ. Cho nên cậu canh chừng cánh cửa, chắc chắn nó sắp bật mở ra… Râu Đen nhét chiếc khăn vào túi, và dùng ngón tay trỏ to lớn chỉ về phía cậu bé: - Cháu thề có chắc, hoàn toàn chắc chắn không biết cách đuổi ta đi không? - Cháu thề với ông mà, thuyền trưởng. Hải tặc Râu Đen chấp hai tay ra sau lưng, đi đến cửa sổ, nhìn ra khu vườn và không quay lại, ông hỏi với một vẻ ma mãnh vừa nhấn mạnh từng chữ: - Và ngay cả nếu như cháu biết… – Ông quay phắt lại đối diện với John. – Cháu có đuổi ta đi không? - Ô! Không, thưa thuyền trưởng… không bao giờ! Cháu chỉ sẽ làm những gì ông yêu cầu. Râu Đen hài lòng thở dài, gần giống như một tiếng gầm gừ, và một cái nhăn mặt chiến thắng khiến nét mặt ông rạng rỡ hơn. - John, cháu thật đáng yêu. Ta sẽ không bao giờ quên những gì cháu đã làm cho lão Râu Đen này. Từ hôm nay, cháu và ta, cháu John bé bỏng của ta, chúng ta sẽ đồng lòng cùng nhau đi trên biển. Ông ta quay trở lại tấm gương, hay đúng hơn ông ta lê bước chân nặng nể đến đó. Ông ta đứng trước gương một lúc, nhíu mày, khuôn mặt căng thẳng. Khi quay lại, ông ta có vẻ của một con chó chăn cừu đã đánh mất cả đàn súc vật của mình. - Cháu có nhận ra không John! Thuyền trưởng Râu Đen vừa ghé bến, xuống tàu và không ai có thể nhìn thấy trừ cháu và Henry! Ông ta nhìn lần cuối vào tấm gương với một chút thất vọng. - Khi ta nghĩ đến tất cả những cô gái đẹp mà ta gặp ngoài đường! Ta chào họ. Họ không đáp lại. Trời ơi! Họ không thấy ta. – Và với một tiếng thở dài buồn bã. – Điều này là chấm dứt tất cả. Ông ta nặng nề bước đến ghế bành buông mình xuống ngồi. John bắt đầu cảm thấy thương hại Râu Đen. - Thật vậy sao thưa thuyền trưởng? – Cậu lắp bắp nói. – Cháu thật tiếc… Rồi như nảy ra một sáng kiến, cậu nói tiếp: - Tại sao ông không thử một lần nữa. Có lẽ sẽ… Râu Đen cắt ngang lời John một cách mãnh liệt: - Không bao giờ John! Không bao giờ! Trước khi ta lại thử nhìn thấy ta trong một tấm gương… Hai tay nâng cằm, ông ta có vẻ như đang đắm chìm trong một suy nghĩ rất sâu. Bỗng, ông ngẩng đầu lên và lo lắng hỏi: - Mụ phù thủy, John, là ai vậy? Phải mụ phù thủy mà cháu đã sử dụng tro để viết những dấu huyền bí không? - Tro? – John kêu lên. – Cháu không sử dụng tro. Cháu đã dùng bột. Râu Đen bật dậy: - Bột ư? Bột làm bánh mì phải không? - Thưa thuyền trưởng đúng ạ! Râu Đen rên lên nho nhỏ, ông ta lại buông mình xuống, tựa vào lưng ghế và nhìn lên trần nhà như phân bua với trời. - Bột! Thằng bé đã sử dụng bột! Bộ râu của ông phủ xuống ngực, đôi mắt nhìn chăm chăm vào John với một sự ngạc nhiên và hoài nghi. - Cháu có biết rằng phải sử dụng tro của một phù thủy đã bị thiêu sống trên giàn hỏa không? John bối rối cúi đầu và giả vờ nhìn ngắm móng tay của mình. - Không… thưa thuyền trưởng. – Cậu lắp bắp đáp. - Ta bắt đầu hiểu tại sao những cô gái không có được thấy ta và đáp lại cái chào của ta. Và để cho Henry và cháu có thể nhìn thấy ta, cháu không thể tưởng tượng những cố gắng mà ta phải làm đâu. Ông đứng lên và chắp tay ra sau lưng, lại bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. - Cháu không tìm được tro của phù thủy, cho là như vậy. Tại sao cháu không tìm ra tro của hai con cóc hay hai con rắn, đốt cháy tự nhiên khi mặt trăng đã khuất? Ông ta dừng lại gãi cái đầu nằm dưới chiếc mũ ba cạnh. - Không, làm vậy cũng không được. Khi muốn mọi người trông thấy, phải dùng tro của một mụ phù thủy… Ông ta lại đắm chìm trong suy nghĩ, rồi lại đối diện với John. - Phải có một mụ phù thủy quanh đây, cháu có biết mụ ta ở đâu không? Chúng ta có thể… - Ồ! Không, thưa thuyền trưởng, không! John lắc mạnh đầu đến nỗi Râu Đen không thể bắt chước cậu bé và bảo: - Thật vậy sao, không có phù thủy ở Godolphin sao? Ông ta quay lưng, bước đi, rồi quay lại vừa ấn ngón áp út của bàn tay trái trong lỗ tai đầy lông lá. - Cháu có chắc không, John, rằng không có một phù thủy nào ở Godolphin? John lắc mạnh đầu: - Hoàn toàn chắc chắn, thưa thuyền trưởng! Râu Đen nhíu mày. - Làm sao một thành phố như thế này lại có thể không có một phủ thủy được? – Ông ta lầm bầm nói khi buông mình vào chiếc ghế bành. – Khi người ta bị phong thấp, sốt hay nổi mụn nhọt thì ra sao? Căn phòng im lặng một lúc lâu. John vả hải tặc Râu Đen có vẻ cùng một ý kiến. Ông ta ngẩng đầu lên. - Này John, câu chuyện về quán rượu “Đầu Heo Rừng” của ta là như thế nào vậy? Người ta muốn phá hủy nó phải không? - Để xây dựng một trạm xăng dầu, thưa thuyền trưởng. - Một trạm xăng dầu? Lại một phát minh loại gì vậy? - Một trạm xăng dầu là nơi các người lái xe đến mua xăng dầu và tất cả những gì họ cần cho xe của mình. - Cháu nói về những loại xe gây ồn ào kinh khủng và tự động đi một mình, mà không cần ngựa kéo phải không? - Phải, thưa thuyền trưởng. Râu tóc của Râu Đen dựng đứng lên, và miệng ông tỏ ra vô cùng khinh bỉ. - Và để làm cái việc đó mà người ta nhẫn tâm vất xuống đất một quán rượu đẹp nhất nước Mỹ sao? - Ồ … phải, thưa thuyền trưởng. Râu Đen đưa tay áo lên lau mũi. - Chắc chắn những người đó điên rồi. Ông ngừng lại, nhăn nhó hỏi: - Cái gã tự cho mình là chủ quán rượu “Đầu Heo Rừng” tên gì nhỉ? John do dự trước khi trả lời: - Đó là… ông Maynard, thưa thuyền trưởng. Râu Đen bật đứng lên thật mạnh mẽ khiến cho John có cảm giác như bị bắn về góc kia của chiếc giường, do không khí bị dịch chuyển mạnh. Rồi lão hãi tặc tóm lấy thanh gươm của mình trên bàn ngủ và đi về phía cậu bé: - Cháu đã nói là Maynard phải không? – Ông ta gầm lên. John mấp máy miệng nhưng không thốt lên thành tiếng. - Hãy nói, nói đi nào! – Lão hải tặc gắt lên. – Cháu nói đúng là Maynard phải không? - Pha… phải, thưa thuyền trưởng. - Sao? Tên vô lại thấp hèn, bất lương, tên khốn kiếp, tên thủy thủ nước ngọt đó! – Râu Đen hét lên trong lúc đi quanh căn phòng như một con sư tử bị nhốt trong chuồng. – Maynard, chủ nhân quán rượu “Đầu Heo Rừng” của ta! Ngươi sẽ thấy những gì người ta sẽ thấy! Với hai bàn tay không của ta, vũ khí của ta! Phải, với hai bàn tay của ta, chỉ với hai bàn tay của ta. Ta sẽ khiến tất cả những ai ngáng đường ta sẽ ăn đất cát, bụi bặm và thành thịt băm! Ông ta dừng lại, ném một ánh nhìn rực lửa về phía John. - Chỉ là ta, cháu có nghe không, ta đã là một con cá mập dữ dội, một con ác thú của biển cả! Bỗng nhiên, trước con mắt ngạc nhiên vô cùng của John, ông ta quay đi, cúi đầu như bị xấu hổ và tự khinh bỉ mình. - Và điều đó đưa ta đến đâu? Đi đến chỗ bị tên lưu manh Maynard thanh toán. Một tên sĩ quan tép riu, một thằng bé con miệng còn hôi sữa. Khi ông ta trở lại chiếc giường, John ngạc nhiên biết bao khi phát hiện ra trên gương mặt lão hải tặc đầy nước mắt, và khi ông ta nói tiếp, câu nói của ông ta chất chứa đầy sự đau đớn và khinh bỉ. - John, cháu phải biết rằng. Maynard đã đánh lén ta. Phải, đánh lén sau lưng ta! Chính ta, ta là Râu Đen can đảm và anh hùng! Ông ta từ từ đặt thanh gươm của mình xuống bàn ngủ, rút khăn trong túi ra, khịt mũi. Sau đó, ông ta bước đến cửa sổ, nhìn trời. Ông ta hỏi qua vai, giọng nói đã thay đổi, gần như dịu dàng: - Theo cháu, John, tên Maynard này có phải cũng là cái gã khốn kiếp đã đánh lén sau lưng ta không? Tên Maynard đó là một gã ít ra cao lớn như thế này. – Ông ta nói thêm vừa đưa tay phải và đưa lên cao quá đầu ông ta. John cảm thấy nhẹ nhàng khi nhận thấy rằng lão hải tặc có vẻ đã tìm được sự bình tĩnh. - Ồ, không, thưa thuyền trưởng! – Cậu bé vội vàng đáp. – Đó là một người tên Maynard khác. Thầy Allan dạy lịch sử biết tất cả về những hải tặc nói rằng ông Maynard này là con cháu của ông Maynard mà ngài nói, ông ta còn bất lương hơn, ăn trộm, ăn cắp nhiều hơ…ơ… ơn… Râu Đen lạnh lùng quay lại, nhìn cậu bé. John sau nhiều lần nuốt nước bọt nói tiếp: - Người mà ông đã biết, đại úy Maynard đã được nhận quán rượu “Đầu Heo Rừng” của thống đốc Eden tặng thưởng vì đã giết, đã thủ tiêu … John ngừng lại, vừa tự trách mình đã quá huyên thuyên. Tuy nhiên nó vẫn ngập ngừng nói tiếp: - Cũng từ đó quán rượu thuộc về gia đình Maynard… Râu Đen vẩu môi, nghi ngờ hỏi: - Có đúng như cậu nói, tên vô lại Eden đã lấy quán rượu của ta cho Maynard để cảm ơn hắn đã thanh toán ta phải không? John vẫn nép mình sát bức tường, sợ hãi nhìn lão hải tặc rút từ thắt lưng ra cây dao găm của lão. - Eden, tao sẽ thanh toán mày! – Râu Đen nói khi đi về phía cửa. Nhưng trước khi đi đến cánh cửa, ông ta bỗng dừng lại, suy nghĩ, gãi gò má, lầu bầu. – Eden mày thật may mắn! Người ta không thể giết một con Maynard… Ông ta khoanh tay, chán nản quay lại phía John. Cậu bé tự hỏi lý do của sự thay đổi này. - John, hãy nói cho ta nghe, - Râu Đen nói tiếp. – Tên Maynard ngày nay, vì hắn là con cháu tên Maynard của ta, hắn có to lớn và vạm vỡ như ông của nó không? John không hề suy nghĩ nhiều vội vàng gật đầu xác nhận. Lão hải tặc thọc cây dao găm vào thắt lưng: - Tốt, như vậy đủ rồi, chúng ta đi ngủ. Ngày mai khi trời sang chúng ta sẽ có đủ thời gian tấn công tên Maynard… và đánh đắm thuyền hắn luôn! Ông ta ngáp dài, cởi súng lục, dao găm, thắt lưng ra và đặt tất cả trên bàn ngủ cạnh thanh gươm chỉ huy. Sau đó ông ta cởi áo và đưa mắt tìm chỗ móc nó lên. Trên mặt cửa có gắn một cái mắc áo hình tròn. Râu Đen lấy cái mắc áo, tò mò quan sát nó rồi ném ra xa và móc áo lên cái cọc gắn mắc áo. Ông ta vừa lê bước đến giường ngủ vừa gãi sườn, dĩ nhiên ông ta gãi rất nhiều vì đã lâu rồi không tắm. Trên giường ngủ ông ta lấy một trong những khẩu súng ngắn và cây gươm. Rồi ông ta ngồi trên giường, cởi đôi ủng ra. John kinh hãi theo dõi từng cử chỉ của Râu Đen. Đồng thời cậu men dọc tường đi ra xa, quyết định nhường chiếc giường cho lão hãi tặc. Thật vậy, ngay sau khi tháo ủng, Râu Đen nằm ngửa ra, tay trái cầm súng ngắn, tay phải cầm gươm. Ông ta đưa mắt kiểm tra chốt an toàn rồi nói: - Ai biết được. Phải luôn luôn sẵn sang với thằng vô lại Maynard! Ông ta lại ngáp dài, đưa mũi gươm chỉ về cửa sổ và ra lệnh: - John, hãy đóng cửa thân tàu lại. Không khí ban đêm luôn luôn xấu! Sau đó, mỗi tay cầm một vũ khí, ông ta gấp chéo hai tay lông lá lên ngực, nhắm mắt và bắt đầu ngáy vang. Cánh cửa rít lên dù được đẩy ra rất cẩn thận, và ánh trăng soi rõ John đang nhón gót đi xuống những bậc của cái thềm nhỏ đưa ra sân sau. Trên đầu cậu bé, một cánh cửa phòng mở ra đánh một vòng cung khác theo chiều ngược lại và đập đầu vào tường làm vang lên một tiếng động mạnh trước khi dừng lại. John do dự, chắc chắn rằng tất cả đều im lặng, cậu vội đi xuống hết bậc thềm, băng qua mảnh sân được ánh trăng soi sang. Nhảy qua cái hàng rào thấp giữa nhà cậu và nhà của cha mẹ Henry, cậu bé vấp phải một món đồ chơi, có lẽ là một chiếc xe cứu hỏa. Cậu chui vào dưới những cành của một cây táo và đến nấp sát tường như một con thú bị truy đuổi. Bức tường có một cửa sổ. Đó là cửa sổ ở tầng trệt nơi có phòng ngủ của Henry. John nhìn về phía cửa của phòng cậu và nhận thấy rằng cánh cửa tiếp tục rung rinh nhưng không đập vào tường nữa. John cúi xuống nhặt một hòn sỏi và ném vào tấm màng che cửa sổ đang mở rộng của phòng Henry. Nghe tiếng động, con Butch sủa vang. Nhiều phút trôi qua tưởng như dài vô tận. Rồi một bàn tay vẹt màn cửa và khuôn mặt ngái ngủ của Henry xuất hiện. - Cái gì vậy? Ai vậy? - Giọng cậu bé nhão nhẹt, cậu đang dụi đôi mắt ríu lại vì buồn ngủ. - Tớ đây! – John đáp. – Ông ta đang ở trong phòng tớ! - Ai? - Cậu muốn là ai nữa? Hồn ma đó ạ! Henry lo ngại né nhìn về phía phòng của John. - Không… Không thể như thế được. – Cậu bé lắp bắp nói. - Cho tớ vào với! – John nói tiếp. - Tớ không muốn ngủ trong nhà một mình. - Cậu nói rất đúng! Đi một vòng. Cậu sẽ vào bằng cửa sau. Khi cả hai đã ở cạnh nhau, chúng đi đến cửa sổ phòng của Henry, đứng sát vai nhau nhìn về phòng John. Những bóng cây lay động theo từng cơn gió có vẻ như đi lang thang trên tường. Cửa sổ đập nhiều lần, cuối cùng cũng ngừng lại. Tuy nhiên như có một cử động rất khó nhận ra giống như một bàn tay vô hình đang muốn lôi cuốn sự chú ý một cách kín đáo. Lúc này con Butch dựng cả lông, sủa lên một tiếng, chỉ một tiếng. Rồi nó chui dưới giường. John tóm lấy cánh tay của bạn.- Henry, - John nói qua hơi thở. – Bây giờ, chúng ta sẽ làm gì đây?