Khảng khái tiên sinh bão tất thi Mãn hoài u tư hữu thùy tri. Vu kim nhất phiền sương đài thạch Thắng tự Tương Dương trụy lệ bi. Vương Việt Tào Tháo, Khổng Minh, Chu Du cùng xuất thân thư sinh, cùng vì đại loạn mà nhẩy lên vũ đài chính trị. Cả ba cùng ở địa vị cao nhất, nhưng riêng Khổng Minh vượt hẳn hai người kia về phong độ nho nhã thư sinh. Cái thái độ nho nhã thư sinh ấy qua ngòi bút La Quán Trung càng trở nên tuyệt diệu, khiến người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa đoạn Huyền Đức tam cố thảo lư tưởng như cũng tắm gội khí chất thư sinh đó. “Hôm sau, Huyền Đức cùng Quan Trương và bọn tùy tùng đến Long Trung, nhìn về phía xa xa đã thấy mấy người đương cầy bừa ở sườn núi miệng hát rằng: Giời xanh như tán lọng tròn. Đất kia trằn trặn như bàn cờ vuông Người đi đen trắng đôi phường. Kẻ đi người lại tranh đường nhục vinh Kẻ vinh chỉ biết mình sung sướng Người nhục kia vất vưởng vất vơ Nam Dương có bậc ẩn cư Nằm co ngủ kỹ thờ ơ việc đời. Huyền Đức nghe hát, kìm ngựa gọi mấy người nông phu lại hỏi: Ai làm ra bài ca ấy? Nông phu đáp: Bài ấy của Ngọa Long tiên sinh làm ra. Huyền Đức hỏi: nhà Ngọa Long tiên sinh ở đâu? Nông phu đáp: ở mé Nam này, có một gò cao, gọi là gò Ngọa Long. Trước gò, trong quãng rừng thưa, có một cái lều tranh, đấy là nhà Gia Cát tiên sinh. Huyền Đức cảm ơn, giắt ngựa đi lên. Đi chưa được vài dặm, xa xa đã thấy gò Ngọa Long, quả nhiên phong cảnh khác thường. Cách hai mươi dặm Tương dương thành. Một dẫy gò cao, suối lượn quanh. Nước chẩy ầm ầm phơi đá trắng. Gò cao chót vót ngất mây xanh. Hình như rồng cuốn trên tảng đá. Phượng hoàng đậu dưới bóng thong thả. Cửa phên khép kín nhà tranh. Cao sĩ nằm khàn bền vững dạ. Bình phong dẫy trúc um tùm lá. Bốn mùa hoa rụng nức mùi hương. Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ. Trong nhà lui tới không người thường. Vượn kia dâng quả gõ cửa ngoài. Hạc kia đêm thanh nghe đọc sách. Túi đàn thêu gấm gác đầu bàn. Thanh kiếm vẩy rồng treo trước vách Tiên sinh trong lều rất thanh nhàn. Khi nhàn cấy cầy cũng không can Chỉ đợi sấm xuân tỉnh giấc mộng. Gọi to một tiếng thiên hạ an. Huyền Đức đến đầu nhà xuống ngựa, lại gõ cửa. Có tiểu đồng ra hỏi. Huyền Đức nói: Tôi là Hoàng thúc Lưu Bị, Hán Tả tướng quân, Nghi Thành đình hầu, châu mục Dự Châu lại đây bái kiến tiên sinh. Tiểu đồng nói: Tên ông dài lắm không nhớ được. Huyền Đức nói: Em cứ vào nói có Lưu Bị lại hầu. Tiểu đồng nói: Tiên sinh sớm hôm nay vừa đi chơi vắng. Huyền Đức hỏi: đi chơi đâu? Tiểu đồng đáp: tiên sinh tôi nay đây mai đó, không biết đi đâu. Huyền Đức hỏi: bao giờ tiên sinh về? Tiểu đồng nói: khi đi dăm ba bữa, khi thì mười hai hôm, không biết chừng. Huyền Đức lấy làm buồn rầu, Trương Phi nói: hắn không có nhà thì về quách cho xong. Huyền Đức nói: hãy đợi một lát nữa. Vân Trường lại nói: Không bằng hãy về rồi sai người lại nghe tin tức. Huyền Đức nghe theo và dặn lại chú tiểu đồng: bao giờ tiên sinh về, trình hộ rằng có Lưu Bị lại hầu nhé. Nói rồi lên ngựa đi được vài dặm, ngoảnh lại xem phong cảnh Long Trung quả nhiên núi không cao nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất chẳng lấy gì làm to tát mà rậm rạp. Vượn hạc quấn quít, thông trúc um tùm, ngắm mãi không chán. Ba người về đến Tân Dã. Được vài ngày Huyền Đức sai người đi thăm dò xem Khổng Minh đã về nhà chưa. Một hôm, người thăm dò về báo Ngọa Long tiên sinh đã về. Huyền Đức sai người thắng ngựa. Trương Phi nói: Khổng Minh chỉ là một tên thôn phu quèn, hà tất kha kha phải thân đến. Cứ sai người đi gọi cũng được. Huyền Đức mắng rằng: Em há không nhớ lời Mạnh Tử nói: “Muốn cầu người hiền mà không biết đạo, khác gì muốn cho người ta vào nhà mình mà lại đóng cửa lại”. Khổng Minh là bậc đại hiền thời nay, cho đi gọi sao được? Bèn lên ngựa đến Long Trung. Quan Trương cũng theo đi. Bấy giờ đang thời tiết mùa Đông, khí trời rét buốt, mây xám nghịt trời. Ba người chưa đi được vài dặm, bỗng nhiên trời nổi gió bấc, tuyết bay phơi phới, núi tựa ngọc gieo, rừng như bạc rắc. Trương Phi nói: trời rét, đất đóng băng, đánh nhau còn chẳng được lại phải lận đận đi cầu người vô ích làm chi. Không bằng trở về Tân Dã, tội gì mà dầm mưa dãi tuyết thế này. Huyền Đức nói: chính ta muốn làm cho Khổng Minh biết đến lòng nhiệt thành của ta. Các em sợ rét thì hãy về trước. Phi nói: chết cũng chẳng ngại, ngại chi rét. Chỉ sợ kha kha uổng công vất vả thôi. Huyền Đức nói: “em chớ nói nhiều lời. Hãy theo ta đi”. Gần đến nhà tranh, chợt nghe thấy tiếng ca trong một quán rượu bên cạnh đường, Huyền Đức dừng ngựa lại nghe, lời ca rằng: Công danh tráng sĩ muộn thay Than ôi lâu chẳng gặp ngày dương xuân Người chẳng thấy lão nhân Đông hải Lìa bụi gai theo với vua Văn Chư hầu bát bách lai thần Gặp điềm cá trắng Mạnh Tân sang đò Mục nguyên một trận đánh to Công danh lừng lẫy ai so được tầy Cao Dương lại có thầy hay rượu Vái Cao Hoàng theo điệu làm tôi Bàn mưu vương bá kỳ tài Lọt tai cũng phải mời ai lên ngồi. Thành Tề hạ bẩy mươi hai Thế gian há dễ mấy ai nối mình Hai người không gặp phận hanh Đến nay ai biết là danh phận gì Một người hát xong, người khác lại hát tiếp luôn: Vua ta vung lưỡi gươm dẹp loạn Gây cơ đồ Hán bốn trăm năm Đời Hoàn Linh vận lửa tắt ngầm Gian thần tặc tử tay cầm quyền to Chốn ngự tòa, rắn bò điềm gở Nơi ngọc đường, rồng đổ yêu ma Bốn phương trộm giặc đổ ra Gian hùng lũ lượt theo đà múa may Chúng ta chỉ vỗ tay nói tếu Buồn ra hàng chén rượu cho vui Một mình sung sướng thảnh thơi Chẳng cần tiếng để muôn đời làm chi. Hai người hát xong, vỗ tay cười ầm cả lên. Huyền Đức nói: Có lẽ Ngọa Long ở trong này. Liền xuống ngựa bước vào, hai người đương tựa bàn, đối nhau uống rượu, một người mặt trắng râu dài, một người mặt mũi khôi ngô. Huyền Đức vái rồi hỏi: - Thưa hai ông, ông nào là Ngọa Long tiên sinh? Người râu dài lại hỏi: - Ông là ai, tìm Ngọa Long tiên sinh để làm gì? Huyền Đức đáp: thưa tôi là Lưu Bị, muốn tìm tiên sinh để cầu mưu giúp đời, yên dân. Người râu dài nói: Chúng tôi không phải là Ngọa Long mà là bạn của Ngọa Long đấy thôi. Tôi là Thạch quảng Nguyên ở Dĩnh Châu, ông này là Mạnh công Thành ở Nhữ Nam. Huyền Đức nói: tôi được biết đại danh của hai tiên sinh đã lâu, nay được bái yết, thực là may quá. Nhân tôi có mang theo cả ngựa, xin mời hai tiên sinh đến nhà Ngọa Long với tôi. Quảng Nguyên nói: chúng tôi là bọn quê mùa, chẳng biết đâu những việc trị nước yên dân, xin đừng bận lòng hỏi chúng tôi những việc nơi ấy. Mời ông cứ lên ngựa đi tìm Ngọa Long. Huyền Đức từ giã hai người rồi lên ngựa đi thẳng đến Ngọa Long cương. Tới trước nhà, gõ cửa hỏi tiểu đồng: - Hôm nay tiên sinh có nhà không? Tiểu đồng đáp: Đang ngồi trên nhà xem sách. Huyền Đức mừng lắm, theo ngay tiểu đồng đi vào. Đến giữa cửa, nhìn thấy đôi câu đối: Đạm bạc dĩ minh chí Ninh tĩnh dĩ chí viễn. Huyền Đức đương xem câu đối, lại nghe có tiếng ngâm thơ, vội vàng đứng nép bên cạnh nhòm vào, thấy trên nhà tranh, có một thanh niên ôm gối ngồi cạnh hỏa lò hát rằng: Phượng bay cao, phi ngô đồng không đỗ Sĩ ẩn mình, phi minh chủ không thờ Nông thôn vui thú cầy bừa Thảnh thơi đàn sách, đợi cơ chuyển vần. Huyền Đức đợi hát xong mới bước lên thềm vái chào nói: - Bị lâu nay hâm mộ tiên sinh, chưa dịp nào bái kiến. Mới đây được Từ Nguyên Trực tiến cử, vội đến tiên trang, rủi phải về không, nay xông pha mưa gió đến đây, được chiêm ngưỡng tôn nhan, thật may mắn quá. Người thanh niên vội vàng đáp lễ: - Tướng quân có phải là Lưu Dự châu đến tìm anh tôi không? Huyền Đức ngẩn người hỏi rằng: - Thế tiên sinh cũng không phải là Ngọa Long sao? Người thanh niên đáp: Tôi là Gia Cát Quân, em Ngọa Long, chúng tôi ba anh em: anh cả Gia Cát Cẩn hiện đang làm mạc tân bên Tôn Trọng Mưu ở Giang đông, Khổng Minh là anh thứ hai tôi. Huyền Đức hỏi: Ngọa Long hôm nay có nhà không? Quân đáp: Hôm qua vừa có Thôi Châu Bình đến rủ đi chơi rồi. Huyền Đức hỏi đi chơi đâu. Quân nói: - Khi thì bơi chiếc thuyền nhỏ chu du trên sông, khi thì thăm hỏi các nhà sư trên núi, khi thì tìm anh em bạn chốn hương thôn, khi thì vui gẩy đàn đánh cờ, trong hang núi. Anh tôi đi, ở bất thường không biết đâu mà tìm. Huyền Đức nói: tôi thực là duyên mỏng, phận hèn, hai phen đi đều không gặp đại hiền. Quân nói: Mời ngài hãy thư thả ngồi chơi xơi nước. Trương Phi nói: tiên sinh ấy đã đi vắng, xin kha kha đi ngựa về thôi. Huyền Đức nói: cất công đến đây, chẳng lẽ không bầy tỏ một đôi lời. Lại hỏi Gia Cát Quân: tôi nghe nói lệnh huynh Ngọa Long tiên sinh tinh thông thao lược, mài miệt binh thư có phải không? Quân nói: tôi không được biết. Trương Phi nói: hỏi người ta làm gì? Mưa gió to lớn, kha kha đi về cho sớm. Huyền Đức mắng át Phi đi. Quân nói: Anh tôi đi vắng, không dám lưu ngựa xe ở lại lâu, xin để khi khác đáp lễ. Huyền Đức nói: tôi đâu dám mong tiên sinh hạ cố. Vài hôm nữa, Bị sẽ đến hầu. Hôm nay nhân đây xin tiên sinh cho mượn bút giấy tôi viết bức thư để lại, nhờ chuyển đến lệnh huynh, để tỏ ý ân cần của tôi. Quân đưa bút mực ra. Huyền Đức viết thư như sau: Bị tôi lâu nay hâm mộ cao danh, đã hai lần yết kiến đều không gặp phải trở về, ân hận vô cùng. Tôi trộm nghĩ mình là dòng dõi nhà Hán, lạm hưởng danh tước, mà nay trông thấy triều đình suy sụp, kỷ cương rối ren, gian hùng loạn nước, ác đảng dối vua thật là đau lòng xót ruột. Tuy có lòng cứu nước giúp dân, nhưng kém kinh luân, cho nên mong ngóng tiên sinh mở lòng nhân từ trung nghĩa đứng ra trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thi thố kế lạ của Tử Phòng, thì thiên hạ may lắm, xã tắc may lắm. Nay trước có mấy lời bày tỏ với tiên sinh. Bị xin về tắm gội ăn chay, đến bái tôn nhan một lần nữa, để giải lòng quê kệch xin tiên sinh soi xét cho. Huyền Đức viết xong thư, đưa gửi Gia Cát Quân, rồi từ biệt ra về. Quân tiễn ra tận cửa. Huyền Đức còn ân cần dặn lại đôi ba lần. Huyền Đức vừa lên ngựa sắp đi, thì thấy tiểu đồng đứng bên ngoài bờ rào vẫy tay nói. Lão tiên sinh đã đến. Lưu Bị nhìn ra thấy bên phía tây, chiếc cầu nhỏ, có một người đội mũ ấm trùm đầu, mặc áo hồ cừu cưỡi con lừa, theo sau một tiểu đồng mặc áo xanh đi hầu, tay xách một bầu rượu, đương rẽ tuyết đi lại, qua cái cầu nhỏ đang ngâm một bài thơ: Một đêm gió lạnh lùng Muôn dặm mây đỏ ối Bời bời hoa tuyết bay Nước non hình sắc đổi Ngoảnh mặt trông lên trời Tưởng là rồng ngọc chọi Vây mai tua tủa bay Một lát khắp bốn cõi Cưỡi lừa qua cầu con Than vì mai gầy cỗi. Huyền Đức nghe ngâm xong nói rằng: - Đây hẳn là Ngọa Long rồi. Rồi nhẩy xuống ngựa bước tới chào nói: - Tiên sinh xông pha rét mướt, mệt nhọc lắm nhỉ. Bị này đợi mãi tiên sinh. Người ấy vội tụt xuống lừa, đáp lễ. Gia Cát Quân ở đằng sau nói: Đây là Hoàng Thừa Ngạn, ông nhạc anh tôi đó, không phải Ngọa Long đâu. Huyền Đức (Thừa Ngạn?) nói: Nhân lão phu xem bài Lương Phủ ngâm ở nhà con rể có nhớ được một đoạn. Nay qua cầu nhỏ, chợt thấy hoa mai bên rào, nên sực nhớ lại đọc chơi, không ngờ quý khách nghe thấy. Huyền Đức nói: Ngài đã gặp lệnh tế chưa? Thừa Ngạn nói: Lão cũng đương đến tìm Ngọa Long đây. Huyền Đức nghe xong từ biệt Hoàng Thừa Ngạn, rồi cưỡi ngựa về đang cơn mưa tuyết dữ dội. Huyền Đức vừa đi vừa ngoảnh lại ngắm gò Ngọa Long, buồn rầu không biết ngần nào. Từ khi Huyền Đức về Tân Dã, ngày tháng thấm thoát đã sang xuân mới liền kén chọn ngày tốt, ăn chay ở sạch trong ba ngày tắm gội hun hương, thay quần đổi áo, rồi sang gò Ngọa Long yết kiến Khổng Minh. Quan Trương được tin cũng phát chán, kéo nhau vào can. Quan Công nói: huynh trưởng đã hai lần thân đến nhà bái yết, lễ nghi như vậy là quá hậu rồi; có lẽ Gia Cát Lượng cũng chỉ có hư danh, không có thực tài nên mới tránh mặt không cho gặp đấy thôi. Sao huynh trưởng quá sùng bái người ấy làm vậy. Huyền Đức nói: Không phải thế đâu. Ngày xưa Tề Hoàn Công muốn đi cầu một người quê mùa ở Đông Quách, năm lần đến mới gặp được, huống chi ta muốn cầu một đại hiền. Trương Phi nói: kha kha nhầm đó, gã nhà quê đó sao gọi là đại hiền được. Chuyến này không cần kha kha đi nữa. Nếu hắn không đến, em sẽ lấy thừng trói điệu về đây là ổn chuyện. Huyền Đức mắng: chú không nhớ việc vua Văn Vương ngày xưa đi cầu Khương Tử Nha, Văn Vương còn kính người hiền như thế nào à? Chú sao vô lễ quá vậy. Lần này chú đừng đi nữa, để ta đi cùng với Vân Trường thôi. Phi nói: hai anh cùng đi cả, tiểu đệ ở nhà làm gì? Huyền Đức nói: nếu muốn đi thì không được thất lễ. Phi vâng theo. Nói rồi ba người cưỡi ngựa cùng bọn tùy tùng đến Long Trung. Còn cách lều tranh độ nửa dặm, Huyền Đức xuống ngựa đi bộ gặp Gia Cát Quân, Huyền Đức vội thi lễ hỏi: Lệnh huynh hôm nay có nhà không? Quân nói: anh tôi mới về chiều qua, tướng quân đên hôm nay thì gặp. Nói rồi ung dung đi ra. Huyền Đức nói: phen này may được gặp tiên sinh đây. Trương Phi nói: người này mới vô lễ chứ. Dẫn luôn bọn ta vào nhà thì mất gì, sao cứ cắm đầu đi thẳng. Huyền Đức nói: ai có việc người nấy, bắt buộc người ta sao được. Ba người lại đi, đến trước nhà gõ cửa, tiểu đồng ra mở cửa nói: Tiên sinh hôm nay có nhà nhưng đang ngủ. Huyền Đức nói: đã vậy xin đừng thông báo vội. Rồi dặn Quan Trương hãy đứng chờ ngoài ngõ. Huyền Đức rón rén đi vào. Thấy Khổng Minh đương nằm nghỉ trên ghế, Huyền Đức chắp tay đứng chực dưới thềm. Được một lúc lâu, Khổng Minh vẫn chưa dậy. Quan Trương đứng đợi ngoài ngõ mãi, chẳng thấy động tĩnh gì mới lén vào xem, thấy Huyền Đức vẫn chắp tay đứng hầu. Trương Phi giận lắm bảo Vân Trường rằng: Lão tiên sinh này sao kiêu kỳ lắm thế. Thấy anh ta đứng thế kia, nó càng giả vờ ngủ khì không dậy. Để em ra sau nhà cho một mồi lửa xem nó có phải dậy không? Vân Trường can mãi Trương Phi mới thôi. Huyền Đức bắt hai người ra đứng đợi, rồi trông vào nhà thấy Khổng Minh trở mình, nhưng rồi lại quay mặt vào vách tường ngủ yên. Tiểu đồng toan lại đánh thức, Huyền Đức bảo chớ nên đánh thức vội. Rồi lại đứng đợi một lúc nữa, Khổng Minh mới tỉnh ngâm bài thơ rằng: Mơ màng ai tỉnh trước Bình sinh ta biết ta Thềm tranh giấc xuân đẫy Ngoài song bóng ác tà. Ngâm xong Khổng Minh mới quay ra hỏi tiểu đồng rằng: Có tục khách nào đến đấy không? Tiểu đồng thưa: có Lưu hoàng Thúc đứng đợi đây đã lâu lắm. Khổng Minh liền vùng dậy nói: sao không báo tin ngay, để ta dậy thay áo đã. Rồi đi vào nhà trong, một lúc mới mặc áo đội khăn chỉnh tề ra tiếp. Huyền Đức lạy thụp xuống đất nói rằng: tôi là kẻ ngu hèn, dòng dõi nhà Hán, lâu nay nghe tiếng lớn tiên sinh, như sấm bên tai, đã hai lần đến hầu, đều chưa được gặp. Tôi có viết bức thư nhờ đệ tới, không biết đã được tiên sinh xem đến chưa? Khổng Minh nói: tôi là một người quê mùa ở Nam Dương, tính quen lười biếng. Mấy lần đội ơn tướng quân có lòng hạ cố, tự thấy hổ thẹn vô cùng. Tuổi tiên sinh mới hai mươi bẩy. Xếp cầm thư ra khỏi điền viên. Gia Cát Lượng nhẩy lên vũ đài chính trị lúc còn là một thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi, trong khi Lưu Bị đã 49 tuổi. Quá nửa đời lăn lộn xông pha, nay Lưu Bị chịu nghe theo một thư sinh mặt trắng thì quả cái đức khiểm hư của Lưu Bị đáng cho đời sau noi gương vậy. Mặc dầu các sách lược và cửu châu xuân thu chép rằng: Lưu Bị đồn quân tại Phàn Thành, Gia Cát Lượng lên đó yết kiến. Lưu Bị thấy Lượng vốn người không quen biết bao giờ, lại trông dạng tướng còn non nớt, nên chỉ lấy lễ đối đãi với học trò mà đáp. Chép như vậy ít phần đúng, bởi vì nếu ta đọc lại lời biểu của Khổng Minh với những câu: Tiên đế không ngại thần quê mùa, đã ba lần đến thăm thần ở mái nhà tranh; có thể chứng tỏ một cách chắc chắn Khổng Minh không tới tìm Lưu Bị trước. Tìm đến người hay đợi người tìm đến mình có phải là một vấn đề mà phần tử trí thức đặt ra do thói xấu câu nệ chăng? Đành rằng: Danh sĩ đương thời có cái tệ câu nệ. Nhưng đối với con người tiến bộ như Khổng Minh thì tuyệt đối không, chẳng qua đây là một tác dụng chính trị. Nhà Nho tiến bộ, vấn đề ẩn dật và xuất chính được quan niệm hết sức linh động. Hơn nữa phần tử trí thức thời Tam quốc đã có cùng chung một lý tưởng là xuất chính nắm quyền lãnh đạo vận mệnh chính trị, đánh đổ hệ thống tồi tàn lạc hậu cũ. Tất cả nguyện vọng đứng lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đã được bầy tỏ một cách tuyệt khéo trong những lời ca Lương Phủ, Ngoạ Long ngâm v.v… văn chương tuy đầy vẻ ẩn dật, nhưng tư tưởng thì sôi réo lên ý định giúp đời cứu dân. Tưởng cũng nhắc độc giả, trước khi Lưu Bị gặp Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã biết Tư Mã Đức Tháo, Thôi Châu Bình, Thạch Thao, Từ Thứ…. Vậy Khổng Minh không phải chỉ trơ trọi một mình mà đằng sau ông có cả một tập đoàn thanh niên trí thức khá đông đảo, lập thành một lưới tình báo đưa dần Lưu Bị từ chỗ nhu cầu người bầy mưu kế đến chỗ sợ sệt, thán phục, kính nể vị lãnh tụ của họ là Khổng Minh. Cái lối nâng cao thân giá của Khổng Minh là phương pháp lấy lùi làm tiến, lấy ẩn để tới, trước hết làm người ta biết mình, rồi làm cho người ta thành khẩn cầu mình sau mới mang hết tài năng ra đền đáp. Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, trú quán huyện Lang Gia (nay thuộc tỉnh Sơn đông), sinh năm Quang Hòa thứ tư đời vua Linh Đế (181 Tây lịch), vốn dòng dõi nhà quan tư lệ hiệu úy Gia Cát Phong, cha tên là Khuê mất sớm. Lượng mới theo chú là Huyền. Huyền trước làm thái thú Dự Chương do Viên Thuật đề bạt. Sau Huyền bỏ Viên Thuật sang nương nhờ Lưu Biểu. Loạn bắt đầu, khu vực Lưu Biểu nhờ sự phát triển nông nghiệp nên dân cư vẫn yên ổn. Huyền ở với Biểu chăm lo nghề nông tang tại đất Tương Dương. Anh em Gia Cát Lượng là người thừa hưởng sản nghiệp đó. Hai chữ “cung canh” trong tờ biểu, độc giả Tam quốc thương hình dung gia thế Gia Cát Lượng nghèo nàn. Sự thực nhờ quan hệ chính trị của Gia Cát Huyền với Lưu Biểu, anh em Gia Cát Lượng cũng được coi gần như thuộc vào cấp bậc công tử. Về gia sản gần đến mức phú nông. Từ thuở 18, 19 tuổi Khổng Minh đã cùng các bạn như Từ Thứ, Mạnh Công Uy, Thạch Quảng Nguyên dứt bỏ lối học hoa hòe hoa sói thịnh hành lúc bấy giờ mà đi vào con đường “học dĩ chí dụng” “Dĩ nho vi thể, dĩ pháp vi dụng”. “Nho pháp đồng qui” “Vương bá tạp dụng”. Khoảng từ 22 đến 23 Khổng Minh lấy vợ, tuy là thân phận công tử nhưng vợ ông rất xấu, đến nỗi ngay ca dao của Việt cũng có câu (xấu như vợ ông Gia Cát). Chuyện lấy vợ của Khổng Minh thật cực kỳ đơn giản, sách Tương Dương ký chép: Hoàng Thừa Ngạn nói với Khổng Minh: nghe nói anh muốn lấy vợ, lão có đứa con gái xấu xí, tóc vàng da đen nhưng rất hiền thục, anh chịu chăng? Khổng Minh gật đầu. Hoàng Thừa Ngạn cho cưới ngay. Ai cũng buồn cười chế diễu. Miền Tương Dương hiện nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ: Mạc tác Khổng Minh trạch Phụ Chỉ đắc ả Thừa sú nữ. (Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ. Chỉ lấy được mụ xấu như ma) Thất bại Kinh châu lần thứ nhất. Sinh hoạt chính trị của Gia Cát Lượng bắt đầu từ năm ông 27 tuổi thuộc Hán Linh Đế Lưu Hiệp đệ thập nhất niên. Ông ra phò giúp Lưu Bị giữa lúc Lưu Bị đang thất cơ lỡ vận, nương nhờ Lưu Biểu ở Tân Dã nhưng lại bị chân tay Lưu Biểu đuổi đánh. Vì cớ gì, Lưu Bị trong tình trạng khốn cùng như vậy lại được tập đoàn thanh niên trí thức vùng Tương Dương ủng hộ? Trả lời câu hỏi trên, ta phải nhìn vào tình hình chính trị Kinh Châu. Kinh Châu vốn vẫn là khu vực thái bình. Mãi sau thế lực của Tào Tháo phát triển, vùng này mới bị đe dọa, ngôi Lưu Biểu như ngọn đèn trước gió. Nội bộ phát sinh xung đột, phản phúc, bè phái. Nội tôn, ngoại thích xâu xé lẫn nhau. Phe ngoại thích mạnh vây cánh hơn, nhưng vì chủ trương hàng Tào Tháo nên bị dân chúng vẫn còn mang nặng đầu óc địa phương phong kiến chống lại, và phần tử trí thức rất ghét tập đoàn ngoại thích Sái Thị (vợ Lưu Biểu) và Sái Mạo (em Sái Thị) cầm đầu, thường làm lắm điều ngang ngược. Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu, nhưng đứng về phe nội tôn, vận động cho Lưu Kỳ trong việc kế vị Lưu Biểu nên Lưu Bị bị bọn Sái Mạo lập mưu giết, Lưu Bị trốn được (xin xem lại hồi 34) Tuy thất bại liên tiếp nhưng Lưu Bị vẫn đáng kể như một trong những lãnh tụ quan trọng lúc bấy giờ vì tính chất kiên trì bất khuất và tiếng tăm biết nghĩa, yêu dân của ông. Thêm nữa dân chúng Kinh Châu đang bất mãn với chính quyền Lưu Biểu, nên đồng tình hùa theo Lưu Bị. Nhờ thế mà sau khi nhảy qua Đàn Khê thoát chết, Lưu Bị được quần chúng che chở, trí thức giúp đỡ. Bởi chưng phò tá một kẻ đã khánh tận, nên kế sách của Gia Cát Lượng mới lập trên việc đi tìm căn cứ địa trước hết. Kế sách ấy như thế nào, Tam quốc chí diễn nghĩa viết: Khổng Minh nói: - Từ khi Đổng Trác phản nghịch đến nay, hào kiệt bốn phương trỗi dậy. Như Tào Tháo kém thế Viên Thiệu mà đánh được Viên Thiệu, đó không những chỉ có thiên thời mà cũng có cả mưu người nữa. Nay Tháo đã cầm được quân trăm vạn, mượn tiếng thiên tử để khống chế chư hầu, xem đó thật không thể tranh giành với hắn được. Tôn Quyền giữ đất Giang Đông đã được ba đời, đất đai hiểm trở mà lòng dân lại quy phục, xem thế Giang Đông cũng chỉ dùng để giúp ta chứ không thôn tính được, duy chỉ có Kinh Châu, phía bắc có sông Hán, sông Miện kéo dài đến tận Nam hải, phía Đông nối liền với Ngô Hội, phía Tây thông vào Ba Thục, chỗ ấy là đất dụng võ, phải có chúa giỏi mới giữ nổi, trời để dành riêng cho tướng quân đó. Tướng quân nghĩ sao? Lại có Ích Châu, hình thế hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu ngàn dặm, thực là một vựa thóc của trời. Cao Tổ ngày xưa cũng do nơi đó mà dựng thành nghiệp đế. Nay Lưu Chương ngu si hèn yếu, dân nhiều nước giầu mà không biết trông coi, những người hiền tài dân trí chỉ mong mỏi được vua sáng mà thờ. Tướng quân đã là dòng dõi nhà vua, tín nghĩa tỏa ra bốn bề, thu nạp anh hùng, mong người hiền như khát nước, nếu tướng quân gồm được châu Kinh, châu Ích, giữ vững nơi hiểm trở, mặt tây hòa với các tộc, mặt nam phủ dụ các nước Di Việt, ngoài thì liên kết với Tôn Quyền, trong thì sửa sang việc chính trị, đợi lúc thiên hạ có biến, sai một thượng tướng đem quân Kinh Châu tiến sang Uyển Lạc, còn tướng quân thì đem quân tiến ra Tây Xuyên, nhất định trăm họ phải đem giỏ cơm bầu nước đến đón tướng quân. Nếu được như thế, nghiệp lớn mới thành, nhà Hán mới phục hưng được. Đó là việc Lượng này định bầy với tướng quân, tướng quân thử xét xem. Nói xong sai tiểu đồng đem bản địa đồ treo giữa nhà rồi trỏ bảo Huyền Đức rằng: đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành nghiệp bá thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía nam, còn tướng quân nắm vững lấy Tây Xuyên để dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc rồi sau mới tính đến Trung Nguyên được. Toàn bộ kế sách Khổng Minh bầy cho Lưu Bị ngay buổi đầu gặp gỡ có thể thu gọn vào mấy điều sau đây: Cấp tốc kiến lập căn cứ địa. Đoàn kết các lực lượng để đương đầu với Tào Tháo. Củng cố căn cứ địa thật vững chãi Đợi cơ hội tấn công chính quyền Tào Tháo. Kế sách Khổng Minh thực là vững vàng chu đáo. Nhưng rút cuộc Khổng Minh thất bại. Nguyên nhân thất bại thứ nhất là không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn. Nguyên nhân thứ hai anh em Lưu Quan Trương bị giao động, phá hoại chính sách Liên Ngô, thí thân vô ích. Tại sao không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn? Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói: sở dĩ không lấy nổi Kinh Châu sớm là vì Lưu Huyền Đức không chịu làm điều phi nghĩa. Một lần Khổng Minh xui Lưu Bị đánh úp Kinh Châu giữa lúc Lưu Biểu ốm nặng. Huyền Đức nói: Thà ta chết thì thôi, chớ không chịu làm điều phi nghĩa. Lần khác Y Tịch xui Lưu Bị mượn danh nghĩa viếng tang đến Tương Dương dụ Lưu Tông ra đón, lập tức bắt lấy giết sạch những bọn tòng đảng. Huyền Đức ứa nước mắt nói rằng: Lúc anh ta sắp mất đã gửi con cho ta, nay nếu bắt lấy con, cướp lấy đất thì sau này xuống chín suối còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa. Sự thật nếu đọc kỹ mấy hồi 39, 40, 41 sẽ thấy rõ: Tào Tháo thấy Lưu Biểu sắp mất, sợ Lưu Bị sẽ toạ hưởng kỳ thành đất Kinh Châu nếu Lưu Kỳ kế vị, liền đem quân tấn công Tân Dã đánh nhau với Lưu Bị, chiến tranh Tào – Lưu đang gay go thì Lưu Biểu mất. Nhờ cuộc tấn công của Tào Tháo vào lực lượng Lưu Bị mà tập đoàn ngoại thích Sái Mạo hất cẳng Lưu Kỳ, tôn Lưu Tông lên kế vị Lưu Biểu và bí mật đầu hàng Tào Tháo. Mặc dù Khổng Minh chiến thắng Tào Tháo hai trận Tân Dã và Bác Vọng, nhưng trên đại thế vẫn là hết lực chống đỡ và buộc phải rút lui. Tháo biết tình trạng khó khăn của Lưu Bị, nên mới sai Từ Thứ đi sứ đến dụ hàng. Từ Thứ tới Phàn Thành. Huyền Đức, Khổng Minh ra đón. Từ Thứ nói Tào Tháo sai tôi đến đây dụ sứ quân, chẳng qua giả danh mua chuộc lòng người đó thôi. Nay Tháo chia quân làm tám đạo, lấp sông Bạch Hà mà tiến, tôi e Phàn Thành không giữ được, nên liệu mà đi chỗ khác. Lưu Bị bèn bỏ Phàn Thành rút về Tương Dương. Tháo đánh đến Tương Dương, Lưu Bị bỏ chạy sang Giang Hạ, ở Giang Hạ cũng không xong, may nhờ thoả ước giữa Khổng Minh và Lỗ Túc, Lưu Bị mới đến Đông Ngô tá túc. Ngoại giao trên hết Gỡ thế bí cho Lưu Bị là tài ngoại giao của Khổng Minh. Khổng Minh thường nói: “Đạo có ba đặc điểm: sự, thế và tình. Sự cơ đến mà không biết ứng không phải là trí. Thế cơ động mà không biết mưu đồ, không phải là giỏi. Tình cơ đến mà không biết hành động, không phải là dũng.” Tình cảnh sự việc và thế lực của Lưu Bị sau khi chạy dài ở cầu Trường Bản, nếu không có cái trí, cái giỏi và cái dũng của Khổng Minh chắc hẳn nghiệp lớn Lưu Bị đã tan tành. Chẳng những vậy trí ấy, giỏi ấy, dũng ấy còn tạo nên một tình thế đặc biệt, kể đại cục là chia ba chân vạc, kể cá nhân Lưu Huyền Đức là tay trắng khởi nghiệp chiếm Kinh Châu, Ba Thục, nhỏ hoá lớn, không thành có. Gia Cát Lượng vận động xoay chuyển thành thế tam phân không nhờ binh hùng, lực mạnh. Tất cả vốn liếng của ông chỉ là nước bọt biện thuyết. Sức lực biện thuyết của ông rộng lớn mãnh liệt như lời cổ nhân nói: “Khả dĩ lãnh quyền uy nhi lập quyền uy, thăng giáp binh nhi tự vi giáp binh.” Đọc hồi thiệt chiến quần nho, trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa thật kỳ thú vô cùng. Tuy nhiên vì phải vận dụng thú vị tiểu thuyết nên Tam Quốc Chí diễn nghĩa không khỏi làm cho độc giả hiểu nhầm biện là bẻm mép. Nếu chỉ bẻm mép, Khổng Minh khó lòng thâu kết quả lớn như vậy. Con người biện thuyết của Khổng Minh còn ghê gớm đáng khâm phục hơn nhiều. Mặc Tử nói: Biện thuyết là trình bày nổi sự phải trái để thắng. Văn Trung Tử diễn rằng: Kẻ tục cho diễn thuyết chỉ là bẻm mép, thấy ai ăn nói trơn tru hoạt bát dáng dấp tựa cuồng phong vũ bão, thì vì hiếu kỳ mà thán phục. Biện thuyết không phải là khuất phục cái miệng người khác mà chủ yếu là khuất phục nhân tâm. Muốn khuất phục nhân tâm người biện thuyết phải đầy đủ bốn đức tính: Cơ, dũng, trí, biến. Cơ: Xét thời, xét thế nhân lợi thừa tiện. Dũng: Quyết đoán quả cảm, làm và tin những điều thiên hạ còn do dự sợ sệt. Trí: Biết rõ sự lý, thông đạt nhân tình, giải quyết giỏi giang. Biến: Thay đổi không ai liệu được. Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng Chính sách mà Gia Cát trình bày với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm chủ yếu đi theo thứ tự dưới đây: 1) Hoà hiếu với Đông Ngô. 2) Chiếm đất Thục làm căn cứ khởi nghiệp. 3) Ổn định nội bộ. 4) Chống giữ với các lực lượng bên ngoài. 5) Bình định man tộc. 6) Hưng binh đánh Ngụy. Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực hiện 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quá trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về vấn đề Kinh Châu đã nói ở trên rồi). Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh các ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, vấn đề nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên công việc mà Khổng Minh coi là quan trọng hàng đầu là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chính sách Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên. Kiến lập căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác định thêm một lần nữa chính sách Liên Ngô để rảnh tay tiến hành kiến thiết Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một công việc hết sức vĩ đại, vì dưới chế độ Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau: Ruộng nương khai phá. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không có người say rượu. Viên chức không gian tham. Mỗi người đều cố gắng. Của rơi không ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu cống sửa sang. Trần Thọ phê rằng: Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, áp dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh. Kiến thiết hoàn thành, Khổng Minh chuyển sang giai đoạn bình định các man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo hậu hoạn tất nhiên phải giải quyết vấn đề các man tộc. Bảy lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng biện pháp quân sự, vừa chính trị, Gia Cát giải quyết tốt đẹp nỗi khó khăn biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ. Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những sự việc đã được thực hiện ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng có thể nói là tập hợp các sở trường của cả nho lẫn pháp, là đại thành của cả hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa điều chỉnh lợi hại. Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói: - Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn cách thức nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy cách thức nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán. Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại. Nói vậy ý Tô Đông Pha cho rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán đối với Gia Cát Lượng và quá công thức đối với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn không tưởng nên ông không hiểu rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học khá sâu sắc, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước đây. Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”. Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành động của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho mỗi lực lượng chỉ mong manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không có khả năng ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy. Sách Thục Ký chép: Dưới chế độ Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm chính quyền quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, các nhà đại gia oán than rầm trời. Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng: “Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài dựa vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đồng tình. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng thắc mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.” Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng: Ông mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà Tần vô đạo, chính sách hà khắc. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, kể từ ngay các đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là do gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự. Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm căn bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm căn bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho người kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai phá… viên chức không gian tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v. Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu hiện minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính. Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng khi ông nói rằng: - Gia Cát thưởng không bao giờ quên những người ở xa. Phạt không bị kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn. Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những vấn đề cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để đặt lại trật tự yên đâu đấy rồi, Gia Cát Lượng cho áp dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục kiến thiết Ba Thục. Trước hết ông nêu lên phương châm: Không vì người mà giao việc, phải vì việc mà chọn người. Vũ Hầu dùng người lấy tài năng làm tiêu chuẩn. Phương pháp nhận định để biết người, Vũ Hầu ghi tất cả trong thiên Tri nhân thuộc tập “Tưởng Uyển” như sau: - Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo. Kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ thật tận lực mà bất trung. Tuy nhiên đạo biết người cũng có thể chia làm bẩy cách: a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng. b) Lấy lý luận dồn vào thế bí để biết biến thái. c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức. d) Nói với họ những nỗi khó khăn để xem đức dũng. e) Cho họ uống rượu say để dò tâm tính. f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính. g) Hẹn công việc với họ để biết chữ Tín. Do nhu yếu của thời thế, nên toàn bộ chính sách nhân trị của Khổng Minh đều quy vào vấn đề tiến cử người hiền. Ông viết: “Trị nước chẳng khác gì trị bản thân. Trị thân cần nuôi dưỡng thần khí, đạo trị quốc là tiến cử người hiền năng. Nước có người hiền như nhà có cột chèo vững chắc. Quốc gia nào mà dân chúng nghèo đói, quan lại giầu sang, bọn nịnh hót ở ngôi cao, người trung lương bị đầy ải, thì quốc gia đó không thể bình an được.” Vũ Hầu chú trọng đến vấn đề nhân tài đến thế, kết cuộc ông thất bại ngay trên vấn đề này. Tại sao? Chúng ta sẽ bàn đến trong một chương khác.