- 10 -
LUẬN VỀ GIA CÁT LƯỢNG

Khảng khái tiên sinh bão tất thi
Mãn hoài u tư hữu thùy tri.
Vu kim nhất phiền sương đài thạch
Thắng tự Tương Dương trụy lệ bi.
Vương Việt
Tào Tháo, Khổng Minh, Chu Du cùng xuất thân thư sinh, cùng vì đại loạn mà nhẩy lên vũ đài chính trị. Cả ba cùng ở địa vị cao nhất, nhưng riêng Khổng Minh vượt hẳn hai người kia về phong độ nho nhã thư sinh.
Cái thái độ nho nhã thư sinh ấy qua ngòi bút La Quán Trung càng trở nên tuyệt diệu, khiến người đọc Tam Quốc chí diễn nghĩa đoạn Huyền Đức tam cố thảo lư tưởng như cũng tắm gội khí chất thư sinh đó.
“Hôm sau, Huyền Đức cùng Quan Trương và bọn tùy tùng đến Long Trung, nhìn về phía xa xa đã thấy mấy người đương cầy bừa ở sườn núi miệng hát rằng:
Giời xanh như tán lọng tròn.
Đất kia trằn trặn như bàn cờ vuông
Người đi đen trắng đôi phường.
Kẻ đi người lại tranh đường nhục vinh
Kẻ vinh chỉ biết mình sung sướng
Người nhục kia vất vưởng vất vơ
Nam Dương có bậc ẩn cư
Nằm co ngủ kỹ thờ ơ việc đời.
Huyền Đức nghe hát, kìm ngựa gọi mấy người nông phu lại hỏi: Ai làm ra bài ca ấy?
Nông phu đáp: Bài ấy của Ngọa Long tiên sinh làm ra.
Huyền Đức hỏi: nhà Ngọa Long tiên sinh ở đâu?
Nông phu đáp: ở mé Nam này, có một gò cao, gọi là gò Ngọa Long. Trước gò, trong quãng rừng thưa, có một cái lều tranh, đấy là nhà Gia Cát tiên sinh.
Huyền Đức cảm ơn, giắt ngựa đi lên. Đi chưa được vài dặm, xa xa đã thấy gò Ngọa Long, quả nhiên phong cảnh khác thường.
Cách hai mươi dặm Tương dương thành.
Một dẫy gò cao, suối lượn quanh.
Nước chẩy ầm ầm phơi đá trắng.
Gò cao chót vót ngất mây xanh.
Hình như rồng cuốn trên tảng đá.
Phượng hoàng đậu dưới bóng thong thả.
Cửa phên khép kín nhà tranh.
Cao sĩ nằm khàn bền vững dạ.
Bình phong dẫy trúc um tùm lá.
Bốn mùa hoa rụng nức mùi hương.
Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ.
Trong nhà lui tới không người thường.
Vượn kia dâng quả gõ cửa ngoài.
Hạc kia đêm thanh nghe đọc sách.
Túi đàn thêu gấm gác đầu bàn.
Thanh kiếm vẩy rồng treo trước vách
Tiên sinh trong lều rất thanh nhàn.
Khi nhàn cấy cầy cũng không can
Chỉ đợi sấm xuân tỉnh giấc mộng.
Gọi to một tiếng thiên hạ an.
Huyền Đức đến đầu nhà xuống ngựa, lại gõ cửa. Có tiểu đồng ra hỏi. Huyền Đức nói:
Tôi là Hoàng thúc Lưu Bị, Hán Tả tướng quân, Nghi Thành đình hầu, châu mục Dự Châu lại đây bái kiến tiên sinh.
Tiểu đồng nói: Tên ông dài lắm không nhớ được.
Huyền Đức nói: Em cứ vào nói có Lưu Bị lại hầu.
Tiểu đồng nói: Tiên sinh sớm hôm nay vừa đi chơi vắng.
Huyền Đức hỏi: đi chơi đâu?
Tiểu đồng đáp: tiên sinh tôi nay đây mai đó, không biết đi đâu.
Huyền Đức hỏi: bao giờ tiên sinh về?
Tiểu đồng nói: khi đi dăm ba bữa, khi thì mười hai hôm, không biết chừng.
Huyền Đức lấy làm buồn rầu, Trương Phi nói: hắn không có nhà thì về quách cho xong.
Huyền Đức nói: hãy đợi một lát nữa.
Vân Trường lại nói: Không bằng hãy về rồi sai người lại nghe tin tức.
Huyền Đức nghe theo và dặn lại chú tiểu đồng: bao giờ tiên sinh về, trình hộ rằng có Lưu Bị lại hầu nhé. Nói rồi lên ngựa đi được vài dặm, ngoảnh lại xem phong cảnh Long Trung quả nhiên núi không cao nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất chẳng lấy gì làm to tát mà rậm rạp. Vượn hạc quấn quít, thông trúc um tùm, ngắm mãi không chán.
Ba người về đến Tân Dã. Được vài ngày Huyền Đức sai người đi thăm dò xem Khổng Minh đã về nhà chưa. Một hôm, người thăm dò về báo Ngọa Long tiên sinh đã về. Huyền Đức sai người thắng ngựa. Trương Phi nói: Khổng Minh chỉ là một tên thôn phu quèn, hà tất kha kha phải thân đến. Cứ sai người đi gọi cũng được.
Huyền Đức mắng rằng: Em há không nhớ lời Mạnh Tử nói: “Muốn cầu người hiền mà không biết đạo, khác gì muốn cho người ta vào nhà mình mà lại đóng cửa lại”. Khổng Minh là bậc đại hiền thời nay, cho đi gọi sao được?
Bèn lên ngựa đến Long Trung. Quan Trương cũng theo đi.
Bấy giờ đang thời tiết mùa Đông, khí trời rét buốt, mây xám nghịt trời. Ba người chưa đi được vài dặm, bỗng nhiên trời nổi gió bấc, tuyết bay phơi phới, núi tựa ngọc gieo, rừng như bạc rắc.
Trương Phi nói: trời rét, đất đóng băng, đánh nhau còn chẳng được lại phải lận đận đi cầu người vô ích làm chi. Không bằng trở về Tân Dã, tội gì mà dầm mưa dãi tuyết thế này.
Huyền Đức nói: chính ta muốn làm cho Khổng Minh biết đến lòng nhiệt thành của ta. Các em sợ rét thì hãy về trước.
Phi nói: chết cũng chẳng ngại, ngại chi rét. Chỉ sợ kha kha uổng công vất vả thôi.
Huyền Đức nói: “em chớ nói nhiều lời. Hãy theo ta đi”. Gần đến nhà tranh, chợt nghe thấy tiếng ca trong một quán rượu bên cạnh đường, Huyền Đức dừng ngựa lại nghe, lời ca rằng:
Công danh tráng sĩ muộn thay
Than ôi lâu chẳng gặp ngày dương xuân
Người chẳng thấy lão nhân Đông hải
Lìa bụi gai theo với vua Văn
Chư hầu bát bách lai thần
Gặp điềm cá trắng Mạnh Tân sang đò
Mục nguyên một trận đánh to
Công danh lừng lẫy ai so được tầy
Cao Dương lại có thầy hay rượu
Vái Cao Hoàng theo điệu làm tôi
Bàn mưu vương bá kỳ tài
Lọt tai cũng phải mời ai lên ngồi.
Thành Tề hạ bẩy mươi hai
Thế gian há dễ mấy ai nối mình
Hai người không gặp phận hanh
Đến nay ai biết là danh phận gì
Một người hát xong, người khác lại hát tiếp luôn:
Vua ta vung lưỡi gươm dẹp loạn
Gây cơ đồ Hán bốn trăm năm
Đời Hoàn Linh vận lửa tắt ngầm
Gian thần tặc tử tay cầm quyền to
Chốn ngự tòa, rắn bò điềm gở
Nơi ngọc đường, rồng đổ yêu ma
Bốn phương trộm giặc đổ ra
Gian hùng lũ lượt theo đà múa may
Chúng ta chỉ vỗ tay nói tếu
Buồn ra hàng chén rượu cho vui
Một mình sung sướng thảnh thơi
Chẳng cần tiếng để muôn đời làm chi.
Hai người hát xong, vỗ tay cười ầm cả lên. Huyền Đức nói: Có lẽ Ngọa Long ở trong này. Liền xuống ngựa bước vào, hai người đương tựa bàn, đối nhau uống rượu, một người mặt trắng râu dài, một người mặt mũi khôi ngô. Huyền Đức vái rồi hỏi:
- Thưa hai ông, ông nào là Ngọa Long tiên sinh?
Người râu dài lại hỏi:
- Ông là ai, tìm Ngọa Long tiên sinh để làm gì?
Huyền Đức đáp: thưa tôi là Lưu Bị, muốn tìm tiên sinh để cầu mưu giúp đời, yên dân.
Người râu dài nói: Chúng tôi không phải là Ngọa Long mà là bạn của Ngọa Long đấy thôi. Tôi là Thạch quảng Nguyên ở Dĩnh Châu, ông này là Mạnh công Thành ở Nhữ Nam.
Huyền Đức nói: tôi được biết đại danh của hai tiên sinh đã lâu, nay được bái yết, thực là may quá. Nhân tôi có mang theo cả ngựa, xin mời hai tiên sinh đến nhà Ngọa Long với tôi.
Quảng Nguyên nói: chúng tôi là bọn quê mùa, chẳng biết đâu những việc trị nước yên dân, xin đừng bận lòng hỏi chúng tôi những việc nơi ấy. Mời ông cứ lên ngựa đi tìm Ngọa Long.
Huyền Đức từ giã hai người rồi lên ngựa đi thẳng đến Ngọa Long cương. Tới trước nhà, gõ cửa hỏi tiểu đồng:
- Hôm nay tiên sinh có nhà không?
Tiểu đồng đáp: Đang ngồi trên nhà xem sách.
Huyền Đức mừng lắm, theo ngay tiểu đồng đi vào. Đến giữa cửa, nhìn thấy đôi câu đối:
Đạm bạc dĩ minh chí
Ninh tĩnh dĩ chí viễn.
Huyền Đức đương xem câu đối, lại nghe có tiếng ngâm thơ, vội vàng đứng nép bên cạnh nhòm vào, thấy trên nhà tranh, có một thanh niên ôm gối ngồi cạnh hỏa lò hát rằng:
Phượng bay cao, phi ngô đồng không đỗ
Sĩ ẩn mình, phi minh chủ không thờ
Nông thôn vui thú cầy bừa
Thảnh thơi đàn sách, đợi cơ chuyển vần.
Huyền Đức đợi hát xong mới bước lên thềm vái chào nói:
- Bị lâu nay hâm mộ tiên sinh, chưa dịp nào bái kiến. Mới đây được Từ Nguyên Trực tiến cử, vội đến tiên trang, rủi phải về không, nay xông pha mưa gió đến đây, được chiêm ngưỡng tôn nhan, thật may mắn quá.
Người thanh niên vội vàng đáp lễ:
- Tướng quân có phải là Lưu Dự châu đến tìm anh tôi không?
Huyền Đức ngẩn người hỏi rằng:
- Thế tiên sinh cũng không phải là Ngọa Long sao?
Người thanh niên đáp: Tôi là Gia Cát Quân, em Ngọa Long, chúng tôi ba anh em: anh cả Gia Cát Cẩn hiện đang làm mạc tân bên Tôn Trọng Mưu ở Giang đông, Khổng Minh là anh thứ hai tôi.
Huyền Đức hỏi: Ngọa Long hôm nay có nhà không?
Quân đáp: Hôm qua vừa có Thôi Châu Bình đến rủ đi chơi rồi.
Huyền Đức hỏi đi chơi đâu. Quân nói:
- Khi thì bơi chiếc thuyền nhỏ chu du trên sông, khi thì thăm hỏi các nhà sư trên núi, khi thì tìm anh em bạn chốn hương thôn, khi thì vui gẩy đàn đánh cờ, trong hang núi. Anh tôi đi, ở bất thường không biết đâu mà tìm.
Huyền Đức nói: tôi thực là duyên mỏng, phận hèn, hai phen đi đều không gặp đại hiền.
Quân nói: Mời ngài hãy thư thả ngồi chơi xơi nước.
Trương Phi nói: tiên sinh ấy đã đi vắng, xin kha kha đi ngựa về thôi.
Huyền Đức nói: cất công đến đây, chẳng lẽ không bầy tỏ một đôi lời.
Lại hỏi Gia Cát Quân: tôi nghe nói lệnh huynh Ngọa Long tiên sinh tinh thông thao lược, mài miệt binh thư có phải không?
Quân nói: tôi không được biết.
Trương Phi nói: hỏi người ta làm gì? Mưa gió to lớn, kha kha đi về cho sớm.
Huyền Đức mắng át Phi đi. Quân nói: Anh tôi đi vắng, không dám lưu ngựa xe ở lại lâu, xin để khi khác đáp lễ.
Huyền Đức nói: tôi đâu dám mong tiên sinh hạ cố. Vài hôm nữa, Bị sẽ đến hầu. Hôm nay nhân đây xin tiên sinh cho mượn bút giấy tôi viết bức thư để lại, nhờ chuyển đến lệnh huynh, để tỏ ý ân cần của tôi. Quân đưa bút mực ra. Huyền Đức viết thư như sau:
Bị tôi lâu nay hâm mộ cao danh, đã hai lần yết kiến đều không gặp phải trở về, ân hận vô cùng.
Tôi trộm nghĩ mình là dòng dõi nhà Hán, lạm hưởng danh tước, mà nay trông thấy triều đình suy sụp, kỷ cương rối ren, gian hùng loạn nước, ác đảng dối vua thật là đau lòng xót ruột. Tuy có lòng cứu nước giúp dân, nhưng kém kinh luân, cho nên mong ngóng tiên sinh mở lòng nhân từ trung nghĩa đứng ra trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thi thố kế lạ của Tử Phòng, thì thiên hạ may lắm, xã tắc may lắm.
Nay trước có mấy lời bày tỏ với tiên sinh. Bị xin về tắm gội ăn chay, đến bái tôn nhan một lần nữa, để giải lòng quê kệch xin tiên sinh soi xét cho.
Huyền Đức viết xong thư, đưa gửi Gia Cát Quân, rồi từ biệt ra về. Quân tiễn ra tận cửa. Huyền Đức còn ân cần dặn lại đôi ba lần.
Huyền Đức vừa lên ngựa sắp đi, thì thấy tiểu đồng đứng bên ngoài bờ rào vẫy tay nói.
Lão tiên sinh đã đến.
Lưu Bị nhìn ra thấy bên phía tây, chiếc cầu nhỏ, có một người đội mũ ấm trùm đầu, mặc áo hồ cừu cưỡi con lừa, theo sau một tiểu đồng mặc áo xanh đi hầu, tay xách một bầu rượu, đương rẽ tuyết đi lại, qua cái cầu nhỏ đang ngâm một bài thơ:
Một đêm gió lạnh lùng
Muôn dặm mây đỏ ối
Bời bời hoa tuyết bay
Nước non hình sắc đổi
Ngoảnh mặt trông lên trời
Tưởng là rồng ngọc chọi
Vây mai tua tủa bay
Một lát khắp bốn cõi
Cưỡi lừa qua cầu con
Than vì mai gầy cỗi.
Huyền Đức nghe ngâm xong nói rằng:
- Đây hẳn là Ngọa Long rồi.
Rồi nhẩy xuống ngựa bước tới chào nói:
- Tiên sinh xông pha rét mướt, mệt nhọc lắm nhỉ. Bị này đợi mãi tiên sinh.
Người ấy vội tụt xuống lừa, đáp lễ. Gia Cát Quân ở đằng sau nói: Đây là Hoàng Thừa Ngạn, ông nhạc anh tôi đó, không phải Ngọa Long đâu.
Huyền Đức (Thừa Ngạn?) nói: Nhân lão phu xem bài Lương Phủ ngâm ở nhà con rể có nhớ được một đoạn. Nay qua cầu nhỏ, chợt thấy hoa mai bên rào, nên sực nhớ lại đọc chơi, không ngờ quý khách nghe thấy.
Huyền Đức nói: Ngài đã gặp lệnh tế chưa?
Thừa Ngạn nói: Lão cũng đương đến tìm Ngọa Long đây.
Huyền Đức nghe xong từ biệt Hoàng Thừa Ngạn, rồi cưỡi ngựa về đang cơn mưa tuyết dữ dội. Huyền Đức vừa đi vừa ngoảnh lại ngắm gò Ngọa Long, buồn rầu không biết ngần nào.
Từ khi Huyền Đức về Tân Dã, ngày tháng thấm thoát đã sang xuân mới liền kén chọn ngày tốt, ăn chay ở sạch trong ba ngày tắm gội hun hương, thay quần đổi áo, rồi sang gò Ngọa Long yết kiến Khổng Minh. Quan Trương được tin cũng phát chán, kéo nhau vào can.
Quan Công nói: huynh trưởng đã hai lần thân đến nhà bái yết, lễ nghi như vậy là quá hậu rồi; có lẽ Gia Cát Lượng cũng chỉ có hư danh, không có thực tài nên mới tránh mặt không cho gặp đấy thôi. Sao huynh trưởng quá sùng bái người ấy làm vậy.
Huyền Đức nói: Không phải thế đâu. Ngày xưa Tề Hoàn Công muốn đi cầu một người quê mùa ở Đông Quách, năm lần đến mới gặp được, huống chi ta muốn cầu một đại hiền.
Trương Phi nói: kha kha nhầm đó, gã nhà quê đó sao gọi là đại hiền được. Chuyến này không cần kha kha đi nữa. Nếu hắn không đến, em sẽ lấy thừng trói điệu về đây là ổn chuyện.
Huyền Đức mắng: chú không nhớ việc vua Văn Vương ngày xưa đi cầu Khương Tử Nha, Văn Vương còn kính người hiền như thế nào à? Chú sao vô lễ quá vậy. Lần này chú đừng đi nữa, để ta đi cùng với Vân Trường thôi.
Phi nói: hai anh cùng đi cả, tiểu đệ ở nhà làm gì?
Huyền Đức nói: nếu muốn đi thì không được thất lễ.
Phi vâng theo. Nói rồi ba người cưỡi ngựa cùng bọn tùy tùng đến Long Trung. Còn cách lều tranh độ nửa dặm, Huyền Đức xuống ngựa đi bộ gặp Gia Cát Quân, Huyền Đức vội thi lễ hỏi:  Lệnh huynh hôm nay có nhà không?
Quân nói: anh tôi mới về chiều qua, tướng quân đên hôm nay thì gặp. Nói rồi ung dung đi ra.
Huyền Đức nói: phen này may được gặp tiên sinh đây.
Trương Phi nói: người này mới vô lễ chứ. Dẫn luôn bọn ta vào nhà thì mất gì, sao cứ cắm đầu đi thẳng.
Huyền Đức nói: ai có việc người nấy, bắt buộc người ta sao được. Ba người lại đi, đến trước nhà gõ cửa, tiểu đồng ra mở cửa nói:
Tiên sinh hôm nay có nhà nhưng đang ngủ.
Huyền Đức nói: đã vậy xin đừng thông báo vội.
Rồi dặn Quan Trương hãy đứng chờ ngoài ngõ. Huyền Đức rón rén đi vào. Thấy Khổng Minh đương nằm nghỉ trên ghế, Huyền Đức chắp tay đứng chực dưới thềm. Được một lúc lâu, Khổng Minh vẫn chưa dậy. Quan Trương đứng đợi ngoài ngõ mãi, chẳng thấy động tĩnh gì mới lén vào xem, thấy Huyền Đức vẫn chắp tay đứng hầu.
Trương Phi giận lắm bảo Vân Trường rằng:
Lão tiên sinh này sao kiêu kỳ lắm thế. Thấy anh ta đứng thế kia, nó càng giả vờ ngủ khì không dậy. Để em ra sau nhà cho một mồi lửa xem nó có phải dậy không?
Vân Trường can mãi Trương Phi mới thôi. Huyền Đức bắt hai người ra đứng đợi, rồi trông vào nhà thấy Khổng Minh trở mình, nhưng rồi lại quay mặt vào vách tường ngủ yên.
Tiểu đồng toan lại đánh thức, Huyền Đức bảo chớ nên đánh thức vội. Rồi lại đứng đợi một lúc nữa, Khổng Minh mới tỉnh ngâm bài thơ rằng:
Mơ màng ai tỉnh trước
Bình sinh ta biết ta
Thềm tranh giấc xuân đẫy
Ngoài song bóng ác tà.
Ngâm xong Khổng Minh mới quay ra hỏi tiểu đồng rằng: Có tục khách nào đến đấy không?
Tiểu đồng thưa: có Lưu hoàng Thúc đứng đợi đây đã lâu lắm.
Khổng Minh liền vùng dậy nói: sao không báo tin ngay, để ta dậy thay áo đã. Rồi đi vào nhà trong, một lúc mới mặc áo đội khăn chỉnh tề ra tiếp. Huyền Đức lạy thụp xuống đất nói rằng: tôi là kẻ ngu hèn, dòng dõi nhà Hán, lâu nay nghe tiếng lớn tiên sinh, như sấm bên tai, đã hai lần đến hầu, đều chưa được gặp. Tôi có viết bức thư nhờ đệ tới, không biết đã được tiên sinh xem đến chưa?
Khổng Minh nói: tôi là một người quê mùa ở Nam Dương, tính quen lười biếng. Mấy lần đội ơn tướng quân có lòng hạ cố, tự thấy hổ thẹn vô cùng.
Tuổi tiên sinh mới hai mươi bẩy.
Xếp cầm thư ra khỏi điền viên.
Gia Cát Lượng nhẩy lên vũ đài chính trị lúc còn là một thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi, trong khi Lưu Bị đã 49 tuổi. Quá nửa đời lăn lộn xông pha, nay Lưu Bị chịu nghe theo một thư sinh mặt trắng thì quả cái đức khiểm hư của Lưu Bị đáng cho đời sau noi gương vậy.
Mặc dầu các sách lược và cửu châu xuân thu chép rằng: Lưu Bị đồn quân tại Phàn Thành, Gia Cát Lượng lên đó yết kiến. Lưu Bị thấy Lượng vốn người không quen biết bao giờ, lại trông dạng tướng còn non nớt, nên chỉ lấy lễ đối đãi với học trò mà đáp.
Chép như vậy ít phần đúng, bởi vì nếu ta đọc lại lời biểu của Khổng Minh với những câu: Tiên đế không ngại thần quê mùa, đã ba lần đến thăm thần ở mái nhà tranh; có thể chứng tỏ một cách chắc chắn Khổng Minh không tới tìm Lưu Bị trước.
Tìm đến người hay đợi người tìm đến mình có phải là một vấn đề mà phần tử trí thức đặt ra do thói xấu câu nệ chăng?
Đành rằng: Danh sĩ đương thời có cái tệ câu nệ. Nhưng đối với con người tiến bộ như Khổng Minh thì tuyệt đối không, chẳng qua đây là một tác dụng chính trị. Nhà Nho tiến bộ, vấn đề ẩn dật và xuất chính được quan niệm hết sức linh động. Hơn nữa phần tử trí thức thời Tam quốc đã có cùng chung một lý tưởng là xuất chính nắm quyền lãnh đạo vận mệnh chính trị, đánh đổ hệ thống tồi tàn lạc hậu cũ. Tất cả nguyện vọng đứng lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đã được bầy tỏ một cách tuyệt khéo trong những lời ca Lương Phủ, Ngoạ Long ngâm v.v… văn chương tuy đầy vẻ ẩn dật, nhưng tư tưởng thì sôi réo lên ý định giúp đời cứu dân. Tưởng cũng nhắc độc giả, trước khi Lưu Bị gặp Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã biết Tư Mã Đức Tháo, Thôi Châu Bình, Thạch Thao, Từ Thứ…. Vậy Khổng Minh không phải chỉ trơ trọi một mình mà đằng sau ông có cả một tập đoàn thanh niên trí thức khá đông đảo, lập thành một lưới tình báo đưa dần Lưu Bị từ chỗ nhu cầu người bầy mưu kế đến chỗ sợ sệt, thán phục, kính nể vị lãnh tụ của họ là Khổng Minh. Cái lối nâng cao thân giá của Khổng Minh là phương pháp lấy lùi làm tiến, lấy ẩn để tới, trước hết làm người ta biết mình, rồi làm cho người ta thành khẩn cầu mình sau mới mang hết tài năng ra đền đáp.
Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, trú quán huyện Lang Gia (nay thuộc tỉnh Sơn đông), sinh năm Quang Hòa thứ tư đời vua Linh Đế (181 Tây lịch), vốn dòng dõi nhà quan tư lệ hiệu úy Gia Cát Phong, cha tên là Khuê mất sớm. Lượng mới theo chú là Huyền. Huyền trước làm thái thú Dự Chương do Viên Thuật đề bạt. Sau Huyền bỏ Viên Thuật sang nương nhờ Lưu Biểu. Loạn bắt đầu, khu vực Lưu Biểu nhờ sự phát triển nông nghiệp nên dân cư vẫn yên ổn. Huyền ở với Biểu chăm lo nghề nông tang tại đất Tương Dương. Anh em Gia Cát Lượng là người thừa hưởng sản nghiệp đó.
Hai chữ “cung canh” trong tờ biểu, độc giả Tam quốc thương hình dung gia thế Gia Cát Lượng nghèo nàn. Sự thực nhờ quan hệ chính trị của Gia Cát Huyền với Lưu Biểu, anh em Gia Cát Lượng cũng được coi gần như thuộc vào cấp bậc công tử. Về gia sản gần đến mức phú nông.
Từ thuở 18, 19 tuổi Khổng Minh đã cùng các bạn như Từ Thứ, Mạnh Công Uy, Thạch Quảng Nguyên dứt bỏ lối học hoa hòe hoa sói thịnh hành lúc bấy giờ mà đi vào con đường “học dĩ chí dụng” “Dĩ nho vi thể, dĩ pháp vi dụng”. “Nho pháp đồng qui” “Vương bá tạp dụng”.
Khoảng từ 22 đến 23 Khổng Minh lấy vợ, tuy là thân phận công tử nhưng vợ ông rất xấu, đến nỗi ngay ca dao của Việt cũng có câu (xấu như vợ ông Gia Cát). Chuyện lấy vợ của Khổng Minh thật cực kỳ đơn giản, sách Tương Dương ký chép:
Hoàng Thừa Ngạn nói với Khổng Minh: nghe nói anh muốn lấy vợ, lão có đứa con gái xấu xí, tóc vàng da đen nhưng rất hiền thục, anh chịu chăng? Khổng Minh gật đầu. Hoàng Thừa Ngạn cho cưới ngay. Ai cũng buồn cười chế diễu. Miền Tương Dương hiện nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ:
Mạc tác Khổng Minh trạch Phụ
Chỉ đắc ả Thừa sú nữ.
(Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ. Chỉ lấy được mụ xấu như ma)
 
Thất bại Kinh châu lần thứ nhất.
Sinh hoạt chính trị của Gia Cát Lượng bắt đầu từ năm ông 27 tuổi thuộc Hán Linh Đế Lưu Hiệp đệ thập nhất niên. Ông ra phò giúp Lưu Bị giữa lúc Lưu Bị đang thất cơ lỡ vận, nương nhờ Lưu Biểu ở Tân Dã nhưng lại bị chân tay Lưu Biểu đuổi đánh.
Vì cớ gì, Lưu Bị trong tình trạng khốn cùng như vậy lại được tập đoàn thanh niên trí thức vùng Tương Dương ủng hộ?
Trả lời câu hỏi trên, ta phải nhìn vào tình hình chính trị Kinh Châu.
Kinh Châu vốn vẫn là khu vực thái bình. Mãi sau thế lực của Tào Tháo phát triển, vùng này mới bị đe dọa, ngôi Lưu Biểu như ngọn đèn trước gió. Nội bộ phát sinh xung đột, phản phúc, bè phái. Nội tôn, ngoại thích xâu xé lẫn nhau. Phe ngoại thích mạnh vây cánh hơn, nhưng vì chủ trương hàng Tào Tháo nên bị dân chúng vẫn còn mang nặng đầu óc địa phương phong kiến chống lại, và phần tử trí thức rất ghét tập đoàn ngoại thích Sái Thị (vợ Lưu Biểu) và Sái Mạo (em Sái Thị) cầm đầu, thường làm lắm điều ngang ngược. Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu, nhưng đứng về phe nội tôn, vận động cho Lưu Kỳ trong việc kế vị Lưu Biểu nên Lưu Bị bị bọn Sái Mạo lập mưu giết, Lưu Bị trốn được (xin xem lại hồi 34)
Tuy thất bại liên tiếp nhưng Lưu Bị vẫn đáng kể như một trong những lãnh tụ quan trọng lúc bấy giờ vì tính chất kiên trì bất khuất và tiếng tăm biết nghĩa, yêu dân của ông. Thêm nữa dân chúng Kinh Châu đang bất mãn với chính quyền Lưu Biểu, nên đồng tình hùa theo Lưu Bị. Nhờ thế mà sau khi nhảy qua Đàn Khê thoát chết, Lưu Bị được quần chúng che chở, trí thức giúp đỡ.
Bởi chưng phò tá một kẻ đã khánh tận, nên kế sách của Gia Cát Lượng mới lập trên việc đi tìm căn cứ địa trước hết. Kế sách ấy như thế nào, Tam quốc chí diễn nghĩa viết:
Khổng Minh nói:
- Từ khi Đổng Trác phản nghịch đến nay, hào kiệt bốn phương trỗi dậy. Như Tào Tháo kém thế Viên Thiệu mà đánh được Viên Thiệu, đó không những chỉ có thiên thời mà cũng có cả mưu người nữa. Nay Tháo đã cầm được quân trăm vạn, mượn tiếng thiên tử để khống chế chư hầu, xem đó thật không thể tranh giành với hắn được. Tôn Quyền giữ đất Giang Đông đã được ba đời, đất đai hiểm trở mà lòng dân lại quy phục, xem thế Giang Đông cũng chỉ dùng để giúp ta chứ không thôn tính được, duy chỉ có Kinh Châu, phía bắc có sông Hán, sông Miện kéo dài đến tận Nam hải, phía Đông nối liền với Ngô Hội, phía Tây thông vào Ba Thục, chỗ ấy là đất dụng võ, phải có chúa giỏi mới giữ nổi, trời để dành riêng cho tướng quân đó. Tướng quân nghĩ sao? Lại có Ích Châu, hình thế hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu ngàn dặm, thực là một vựa thóc của trời. Cao Tổ ngày xưa cũng do nơi đó mà dựng thành nghiệp đế. Nay Lưu Chương ngu si hèn yếu, dân nhiều nước giầu mà không biết trông coi, những người hiền tài dân trí chỉ mong mỏi được vua sáng mà thờ. Tướng quân đã là dòng dõi nhà vua, tín nghĩa tỏa ra bốn bề, thu nạp anh hùng, mong người hiền như khát nước, nếu tướng quân gồm được châu Kinh, châu Ích, giữ vững nơi hiểm trở, mặt tây hòa với các tộc, mặt nam phủ dụ các nước Di Việt, ngoài thì liên kết với Tôn Quyền, trong thì sửa sang việc chính trị, đợi lúc thiên hạ có biến, sai một thượng tướng đem quân Kinh Châu tiến sang Uyển Lạc, còn tướng quân thì đem quân tiến ra Tây Xuyên, nhất định trăm họ phải đem giỏ cơm bầu nước đến đón tướng quân. Nếu được như thế, nghiệp lớn mới thành, nhà Hán mới phục hưng được. Đó là việc Lượng này định bầy với tướng quân, tướng quân thử xét xem.
Nói xong sai tiểu đồng đem bản địa đồ treo giữa nhà rồi trỏ bảo Huyền Đức rằng: đây là địa đồ 54 châu ở Tây Xuyên. Tướng quân muốn thành nghiệp bá thì phải nhường thiên thời cho Tào Tháo ở phía bắc, nhường địa lợi cho Tôn Quyền ở phía nam, còn tướng quân nắm vững lấy Tây Xuyên để dựng cơ đồ, hình thành cái thế chân vạc rồi sau mới tính đến Trung Nguyên được.
Toàn bộ kế sách Khổng Minh bầy cho Lưu Bị ngay buổi đầu gặp gỡ có thể thu gọn vào mấy điều sau đây:
Cấp tốc kiến lập căn cứ địa.
Đoàn kết các lực lượng để đương đầu với Tào Tháo.
Củng cố căn cứ địa thật vững chãi
Đợi cơ hội tấn công chính quyền Tào Tháo.
Kế sách Khổng Minh thực là vững vàng chu đáo. Nhưng rút cuộc Khổng Minh thất bại. Nguyên nhân thất bại thứ nhất là không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn. Nguyên nhân thứ hai anh em Lưu Quan Trương bị giao động, phá hoại chính sách Liên Ngô, thí thân vô ích.
Tại sao không lấy nổi địa bàn Kinh Châu sớm hơn?
Tam Quốc Chí diễn nghĩa nói: sở dĩ không lấy nổi Kinh Châu sớm là vì Lưu Huyền Đức không chịu làm điều phi nghĩa. Một lần Khổng Minh xui Lưu Bị đánh úp Kinh Châu giữa lúc Lưu Biểu ốm nặng. Huyền Đức nói: Thà ta chết thì thôi, chớ không chịu làm điều phi nghĩa. Lần khác Y Tịch xui Lưu Bị mượn danh nghĩa viếng tang đến Tương Dương dụ Lưu Tông ra đón, lập tức bắt lấy giết sạch những bọn tòng đảng. Huyền Đức ứa nước mắt nói rằng: Lúc anh ta sắp mất đã gửi con cho ta, nay nếu bắt lấy con, cướp lấy đất thì sau này xuống chín suối còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa.
Sự thật nếu đọc kỹ mấy hồi 39, 40, 41 sẽ thấy rõ: Tào Tháo thấy Lưu Biểu sắp mất, sợ Lưu Bị sẽ toạ hưởng kỳ thành đất Kinh Châu nếu Lưu Kỳ kế vị, liền đem quân tấn công Tân Dã đánh nhau với Lưu Bị, chiến tranh Tào – Lưu đang gay go thì Lưu Biểu mất. Nhờ cuộc tấn công của Tào Tháo vào lực lượng Lưu Bị mà tập đoàn ngoại thích Sái Mạo hất cẳng Lưu Kỳ, tôn Lưu Tông lên kế vị Lưu Biểu và bí mật đầu hàng Tào Tháo. Mặc dù Khổng Minh chiến thắng Tào Tháo hai trận Tân Dã và Bác Vọng, nhưng trên đại thế vẫn là hết lực chống đỡ và buộc phải rút lui. Tháo biết tình trạng khó khăn của Lưu Bị, nên mới sai Từ Thứ đi sứ đến dụ hàng. Từ Thứ tới Phàn Thành. Huyền Đức, Khổng Minh ra đón. Từ Thứ nói Tào Tháo sai tôi đến đây dụ sứ quân, chẳng qua giả danh mua chuộc lòng người đó thôi. Nay Tháo chia quân làm tám đạo, lấp sông Bạch Hà mà tiến, tôi e Phàn Thành không giữ được, nên liệu mà đi chỗ khác. Lưu Bị bèn bỏ Phàn Thành rút về Tương Dương. Tháo đánh đến Tương Dương, Lưu Bị bỏ chạy sang Giang Hạ, ở Giang Hạ cũng không xong, may nhờ thoả ước giữa Khổng Minh và Lỗ Túc, Lưu Bị mới đến Đông Ngô tá túc.
Ngoại giao trên hết
Gỡ thế bí cho Lưu Bị là tài ngoại giao của Khổng Minh. Khổng Minh thường nói: “Đạo có ba đặc điểm: sự, thế và tình. Sự cơ đến mà không biết ứng không phải là trí. Thế cơ động mà không biết mưu đồ, không phải là giỏi. Tình cơ đến mà không biết hành động, không phải là dũng.” Tình cảnh sự việc và thế lực của Lưu Bị sau khi chạy dài ở cầu Trường Bản, nếu không có cái trí, cái giỏi và cái dũng của Khổng Minh chắc hẳn nghiệp lớn Lưu Bị đã tan tành.
Chẳng những vậy trí ấy, giỏi ấy, dũng ấy còn tạo nên một tình thế đặc biệt, kể đại cục là chia ba chân vạc, kể cá nhân Lưu Huyền Đức là tay trắng khởi nghiệp chiếm Kinh Châu, Ba Thục, nhỏ hoá lớn, không thành có.
Gia Cát Lượng vận động xoay chuyển thành thế tam phân không nhờ binh hùng, lực mạnh. Tất cả vốn liếng của ông chỉ là nước bọt biện thuyết. Sức lực biện thuyết của ông rộng lớn mãnh liệt như lời cổ nhân nói: “Khả dĩ lãnh quyền uy nhi lập quyền uy, thăng giáp binh nhi tự vi giáp binh.”
Đọc hồi thiệt chiến quần nho, trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa thật kỳ thú vô cùng. Tuy nhiên vì phải vận dụng thú vị tiểu thuyết nên Tam Quốc Chí diễn nghĩa không khỏi làm cho độc giả hiểu nhầm biện là bẻm mép. Nếu chỉ bẻm mép, Khổng Minh khó lòng thâu kết quả lớn như vậy. Con người biện thuyết của Khổng Minh còn ghê gớm đáng khâm phục hơn nhiều. Mặc Tử nói: Biện thuyết là trình bày nổi sự phải trái để thắng.
Văn Trung Tử diễn rằng: Kẻ tục cho diễn thuyết chỉ là bẻm mép, thấy ai ăn nói trơn tru hoạt bát dáng dấp tựa cuồng phong vũ bão, thì vì hiếu kỳ mà thán phục.
Biện thuyết không phải là khuất phục cái miệng người khác mà chủ yếu là khuất phục nhân tâm. Muốn khuất phục nhân tâm người biện thuyết phải đầy đủ bốn đức tính: Cơ, dũng, trí, biến.
Cơ: Xét thời, xét thế nhân lợi thừa tiện.
Dũng: Quyết đoán quả cảm, làm và tin những điều thiên hạ còn do dự sợ sệt.
Trí: Biết rõ sự lý, thông đạt nhân tình, giải quyết giỏi giang.
Biến: Thay đổi không ai liệu được.
Bàn về tư tưởng chính trị, tài cán quân sự của Gia Cát Lượng
Chính sách mà Gia Cát trình bày với Lưu Bị tại Long Trung khái quát mấy điểm chủ yếu đi theo thứ tự dưới đây:
1) Hoà hiếu với Đông Ngô.
2) Chiếm đất Thục làm căn cứ khởi nghiệp.
3) Ổn định nội bộ.
4) Chống giữ với các lực lượng bên ngoài.
5) Bình định man tộc.
6) Hưng binh đánh Ngụy.
Hơn 20 năm liền, Khổng Minh nỗ lực tận tuỵ thực hiện 6 sách lược. Chúng ta hãy kiểm điểm quá trình hơn hai mươi năm ấy. Khổng Minh đã làm được những gì? (Về vấn đề Kinh Châu đã nói ở trên rồi).
Năm Kiến An thứ 9, Lưu Chương đầu hàng Huyền Đức. Huyền Đức chiếm Thục. Đất Thục tuy bờ xôi ruộng mật, nhưng xã hội loạn vì lẽ giáp ranh các ngoại tộc, “loạn” Trung Nguyên bấy giờ mới lan tới đây, sự xung đột giữa tư tưởng mới cũ, con người mới cũ, tiến bộ và phản động còn rất mạnh. Chiếm Thục rồi, vấn đề nhân tâm hãy còn trăm đầu ngàn mối rối ren. Cho nên công việc mà Khổng Minh coi là quan trọng hàng đầu là: an bài nhân sự. Sách Chiêu Liệt truyện chép: “Những kẻ sĩ có chí, không người nào là không được khuyên giải, vỗ về, nhiêm dụng.” Các bọn có thế lực ở đất Thục như: Đổng Hoà, Hoàng Quyền, Lý Nghiêm, Bành Nghĩa, v.v… đều chịu phục cả. Nhờ tài an định nhân tâm, nên việc chiếm cứ Ba Thục không gặp những vụ phản kháng lớn. Nhờ chính sách Liên Ngô nên Tôn Quyền làm ngơ mặc cho Lưu Bị độc quyền hoành hành ở Tây Xuyên.
Kiến lập căn cứ địa xong, Khổng Minh lại xác định thêm một lần nữa chính sách Liên Ngô để rảnh tay tiến hành kiến thiết Ba Thục. Công cuộc Kiến Thiết đất Thục là một công việc hết sức vĩ đại, vì dưới chế độ Lưu Chương khu vực này đã quá ung thối. Sử nói về công tích như sau:
Ruộng nương khai phá. Kho lẫm thừa đầy. Đồ dùng tốt rẻ. Gia súc sinh sản nhiều. Đường phố không có người say rượu. Viên chức không gian tham. Mỗi người đều cố gắng. Của rơi không ai nhặt. Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu. Phong hoá nghiêm chỉnh, vui sướng. Nhà cửa cầu cống sửa sang.
Trần Thọ phê rằng:
Ông Gia Cát Lượng làm Tướng quốc phủ dụ trăm dân, nêu cao tín nghĩa điều chỉnh quan chức đâu ra đấy, áp dụng công đạo, thể hiện tâm thành. Kẻ tận trung, khó nhọc tuy thù vẫn trọng thưởng, kẻ phạm pháp biếng lười tuy thân cũng trừng trị. Phép cai trị của ông chú dụng đến bản chất của vật lý, trọng thực hơn danh.
Kiến thiết hoàn thành, Khổng Minh chuyển sang giai đoạn bình định các man tộc. Muốn đánh Nguỵ mà không lo hậu hoạn tất nhiên phải giải quyết vấn đề các man tộc. Bảy  lần bắt bảy lần tha Mạch Hoạch, vừa bằng biện pháp quân sự, vừa chính trị, Gia Cát giải quyết tốt đẹp nỗi khó khăn biên giới. Sau đó Khổng Minh mới khởi binh đánh Nguỵ.
Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng rất khoát đạt, mềm dẻo, không câu thúc hẳn trong khuôn khổ pháp gia cũng không câu nệ trong khuôn sáo nho gia. Căn cứ vào những sự việc đã được thực hiện ở Tây Xuyên thì triết học chính trị của Gia Cát Lượng có thể nói là tập hợp các sở trường của cả nho lẫn pháp, là đại thành của cả hai đạo vương, đạo bá. Nho gia chú trọng nhân trị, pháp gia chỉ trọng pháp trị. Gia Cát chú trọng pháp với nhân ngang nhau. Vương đạo quí tín nghĩa, Bá đạo quí lợi hại. Gia Cát cai trị đất Thục vừa mở rộng Tín vừa điều chỉnh lợi hại.
Đời sau Tô Đông Pha có ý chê Khổng Minh nói:
- Lấy thiên hạ bằng nhân nghĩa, giữ thiên hạ bằng nhân nghĩa là nhà Chu. Lấy thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt, giữ thiên hạ bằng vũ lực, bằng thủ đoạn xảo quyệt là nhà Tần. Mượn cách thức nhà Tần để chiếm thiên hạ, lấy cách thức nhà Chu để giữ thiên hạ là nhà Hán.
Vừa dùng nhân nghĩa vừa dùng trá lực là lề lối của Gia Cát Lượng. Vì thế mà Gia Cát thất bại.
Nói vậy ý Tô Đông Pha cho rằng: vì Khổng Minh không dứt khoát bề nào nên hỏng. Lời phê bình của Tô Đông Pha hơi vũ đoán đối với Gia Cát Lượng và quá công thức đối với chính trị. Tô Đông Pha là một nhà văn không tưởng nên ông không hiểu rõ hiện thực chính trị. Vương An Thạch đã cho họ Tô một bài học khá sâu sắc, khi họ Tô chữa câu thơ: Hoàng khuyển ngoạ hoa tâm (con chó vàng nằm dưới bóng cây hoa). Vương An Thạch bị Đông Pha chê dốt, cười không nói gì ra lệnh đày Tô Đông Pha đến địa phương mà ông đã cư trú trước đây.  Đến nơi Tô Đông Pha mới biết rằng ở vùng này có thứ sâu mà dân chúng đặt tên là sâu “hoàng khuyển”.
Ở vào cái thế Khổng Minh tại Tây Xuyên thì mới thấy hành động của Khổng Minh không lầm. Trong khi quần chúng tranh thắng, sự nguy cấp tồn vong cho mỗi lực lượng chỉ mong manh như sợi tóc, nhân chính và vương đạo là việc lâu dài, đương nhiên không có khả năng ứng phó ngay với cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Trị loạn trước phải dùng nghiêm hình, vậy thì lề lối pháp gia rất thích hợp. Gia Cát Lượng dùng tính cấp của pháp gia để hộ vệ cho tính khoan của nho gia là đúng vậy.
Sách Thục Ký chép:
Dưới chế độ Lưu Chương, sĩ đại phu nhiều kẻ dùng thế dùng tiền để áp bức khinh thị tiểu dân, Lượng nắm chính quyền quyết ra tay tiêu trừ tình trạng đó, các nhà đại gia oán than rầm trời.
Đại thần tên là Pháp Chính cho thế là quá nghiêm ngặt nên can Khổng Minh rằng:
“Ngày xưa vua Hán Cao Tổ vào đây, đã ra điều ước gồm 3 chương, dân Tần nhớ đức vua Cao Tổ. Nay ngài dựa vào uy lực chiếm cứ được một Châu, mới trị nước mới, chưa thi ân huệ phủ dụ, chủ với khách chưa thật đồng tình. Tôi nghĩ ngài nên nới tay để yên lòng thắc mắc, thoả mãn nguyện vọng trăm họ.”
Gia Cát Lượng nghe Pháp Chính nói, cười đáp rằng:
Ông mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà Tần vô đạo, chính sách hà khắc. Dân tâm oán vọng. Cao Tổ dựa đấy mà khoan hậu cởi mở, tháo gỡ bàn tay tàn bạo của nhà Tần. Còn như Tây Xuyên, Lưu Chương bạc nhược hôn ám, kể từ ngay các đời trước Văn với Pháp đã bỏ chểnh mảng, uy lệnh trễ nải, chính sự hỗn loạn. Đạo quân thần mất hết trật tự. Cho ngồi cao, vị cao tất lạm quyền. Thi điều ân nghĩa vặt, ân nghĩa hết thì sinh hỗn láo. Bệnh Ba Thục là do gốc loạn mà ra. Tôi không thể không nghiêm pháp để lập lại trận tự.
Sách Hoa Chương Chí ghi: Có người trách Gia Cát Lượng chỉ ham công mà tiếc thưởng. Gia Cát đáp: Trị thiên hạ theo ý tôi, cần lấy “đại đức” làm căn bản chứ không lấy “tiểu huệ” làm căn bản. Xem như Lưu Cảnh Thăng là con người trọng tiểu huệ, nay cho kẻ này cái này mai cho người kia cái khác. Rút lại tiểu huệ chỉ gây thêm mầm loạn. Đại đức là gì, chúng ta hãy kiểm điểm lại công tích Gia Cát đã nêu ra ở trên: Ruộng nương khai phá… viên chức không gian tham… Kẻ mạnh không hà hiếp người yếu… v.v.
Cơ sở tư tưởng pháp trị của Khổng Minh đặt trên nền tảng đại đức cho nên ông thường nói với thuộc hạ: Lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ (Ngã tâm như bình, bất năng vị nhân tác khinh trọng). Câu nói đó biểu hiện minh bạch tính chất chí công vô tư của Khổng Minh mỗi lần ông thi hành quyền bính.
Trương Duệ nhận xét Khổng Minh rất đúng khi ông nói rằng:
- Gia Cát thưởng không bao giờ quên những người ở xa. Phạt không bị kẻ ở gần làm mờ ám. Ở với ông thì chức tước đổi bằng công lao. Hình tội không thể đem thế lực tiền tài mà được miễn.
Sử dụng lề lối pháp gia, để ứng với những vấn đề cấp thời, ngay sau khi chiếm cứ Tây Xuyên để đặt lại trật tự yên đâu đấy rồi, Gia Cát Lượng cho áp dụng lề lối nhân trị của nho gia, để tiếp tục kiến thiết Ba Thục.
Trước hết ông nêu lên phương châm:
Không vì người mà giao việc, phải vì việc mà chọn người.
Vũ Hầu dùng người lấy tài năng làm tiêu chuẩn. Phương pháp nhận định để biết người, Vũ Hầu ghi tất cả trong thiên Tri nhân thuộc tập “Tưởng Uyển” như sau:
- Tính người thật khó hiểu. Dung mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo. Kẻ bề ngoài cung kính mà trong lòng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng lại nhát sợ. Kẻ thật tận lực mà bất trung. Tuy nhiên đạo biết người cũng có thể chia làm bẩy cách:
a) Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.
b) Lấy lý luận dồn vào thế bí để biết biến thái.
c) Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.
d) Nói với họ những nỗi khó khăn để xem đức dũng.
e) Cho họ uống rượu say để dò tâm tính.
f) Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm lòng liêm chính.
g) Hẹn công việc với họ để biết chữ Tín.
Do nhu yếu của thời thế, nên toàn bộ chính sách nhân trị của Khổng Minh đều quy vào vấn đề tiến cử người hiền. Ông viết: “Trị nước chẳng khác gì trị bản thân. Trị thân cần nuôi dưỡng thần khí, đạo trị quốc là tiến cử người hiền năng. Nước có người hiền như nhà có cột chèo vững chắc. Quốc gia nào mà dân chúng nghèo đói, quan lại giầu sang, bọn nịnh hót ở ngôi cao, người trung lương bị đầy ải, thì quốc gia đó không thể bình an được.”
Vũ Hầu chú trọng đến vấn đề nhân tài đến thế, kết cuộc ông thất bại ngay trên vấn đề này. Tại sao? Chúng ta sẽ bàn đến trong một chương khác.

*

Người đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa ai ai cũng thấy cực hứng thú, mỗi lần xem việc quân sự Gia Cát Lượng dùng binh.
Lần đầu tiên Khổng Minh ra mưu là trận đánh ở Bác Vọng. Trận này lực lượng Lưu Bị đúng như lời Hạ Hầu Đôn: Lưu Bị như lũ chuột, thế nào ta cũng bắt được. Chính Huyền Đức cũng công nhận khi Khổng Minh nói: Quân Minh Công cũng chẳng qua được vài ngàn, nếu Quân Tào kéo đến đánh lấy gì mà chống cự? Kết quả trận Bác Vọng rằng:
Bác Vọng dùng mưu đánh hoả công.
Cười cười nói nói vẫn thung dung.
Tào Man nghe tiếng hồn bay bổng.
Rời khỏi lều tranh đệ nhất công.
Trận thứ hai là trận Tân Dã với kết quả: Quân sĩ Tào chạy lửa dày xéo lẫn nhau, chết vô kể. Bọn Tào Nhân vừa thoát nạn lửa thì đằng sau đã thấy ngay Triệu Vân dẫn quân đuổi đánh giết, quân Tào tranh nhau chạy trốn, không ai dám ngoảnh cổ lại. Đang chạy bị My Phương kéo quân ra bồi cho một trận nữa. Tào Tháo thua to, cướp đường rún chạy. Chạy đến sông Bạch Hà lại bị Quan Vân Trường phục sẵn khơi nước. Quân Tào chết vô số.
Việc Gia Cát mượn 10 vạn mũi tên của Tào Tháo.
Vụ phục binh ở Hoa Dung Lộ tiêu diệt nốt tàn lực Tào.
Vụ cướp Nam Quận dùng binh phù của Tào Nhân rồi sai Trương Phi đánh úp Kinh Châu.
Vụ bẩy lần bắt Mạnh Hoạch.
Vụ gẩy đàn đuổi Trọng Đạt.
Vụ lừa Vương Song và đánh úp Trần Sương.
Vụ đấu trận làm nhục Tư Mã Ý.
Vụ chém đầu Trương Cáp.
Vụ vây khốn cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương Cốc.
Tất cả mọi trận, mưu trí của Khổng Minh thật là tài tình, các mặt: từ việc xét thế lực đến cách thắng địch, trọng địch khinh địch, đến vấn đề chủ động, đoạt yếu tước nhược lực lượng địch, dùng lực lượng địch làm cho địch hoang mang, lầm lỗi, đến đường lối gây thêm vây cánh đồng minh nhất nhất Khổng Minh không sơ hở bao giờ.
Tư Mã Ý cũng là một vị tướng giỏi đời Tam Quốc, nhưng không bao giờ ông dám sánh ngang với Khổng Minh. Mỗi lần bình phẩm Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý chỉ nói: “Đấy là kỳ tài trong thiên hạ.”

*

Những trước tác về phương diện quân sự của Khổng Minh đều gom góp trong tập “Tưởng Uyển ngũ thập thiên”. Tôi xin trích dẫn ít đoạn Gia Cát nói về nghề làm tướng để bạn đọc cứu xét:
Tướng tài:
Tướng tài phân định làm tám cỡ:
- Biết lấy đức mà dẫn dắt, dùng lễ để hoà nhân, xét đến nỗi dốt, nỗi rét hiểu điều cơ cực của quân lính, là nhân tướng. (Ông tướng có lòng nhân từ).
- Làm việc không cẩu thả, không lợi nhiễu tâm tính, chết vinh sống không nhục là nghĩa tướng.
- Ở ngôi quí không kiêu, thắng không tự thị, cứng rắn nhưng biết nhẫn nhục là lễ tướng.
- Biến hoá khôn lường, hành động ứng phó giỏi, chuyển hoạ thành phúc, nhân nguy chế thắng là trí tướng.
- Tiến có thưởng, thoái trừng phạt, thưởng đúng lúc, phạt không chừa người thân quí là tín tướng.
- Linh động, đánh nhanh, rút mau, giỏi dùng đoản binh, quân sĩ kính sợ là bộ tướng.
- Đánh ào ạt, xông pha nơi hiểm yếu, lúc tiền phong lúc hậu vệ che đỡ ba quân là kỵ tướng (Kỵ binh).
- Khí chất làm phấn khởi ba quân, ham đánh trận lớn, tránh trận nhỏ là mãnh tướng.
- Thấy người hiền thì quí trọng, biết nghe, biết dùng lời hay lẽ phải, khoan hoà mà không kém phần cương dũng, giản dị nhưng nhiều mưu đó là đại tướng.
Tướng giỏi:
Làm Tướng có năm điều giỏi, bốn điều cần:
Năm điều giỏi:
Giỏi biết dùng thế của địch.
Giỏi biết đạo tiến thoái.
Giỏi biết hư thực của một nước.
Giỏi biết thiên thời nhân sự.
Giỏi biết sông núi hiểm yếu.
Bốn điều cần:
Khi bàn luận cần nhiều mưu lạ.
Khi dùng mưu cần bí mật.
Khi động binh cần yên lòng dân chúng.
Khi chiến tranh cần làm dân chúng nhất tâm.
Tư tưởng người làm tướng
Thu dụng hào kiệt để giữ nhân tâm. Khéo dùng quần chúng để có nhiều nhân lực. Hiểu đạo nhu cương. Trước nhân nghĩa sau mới trí dũng. Lúc tĩnh như cá lặn. Lúc động như voi lồng. Phân tán đồng minh của địch. Đánh chỗ yếu để đập gẫy chỗ mạnh. Rút chắc như núi chuyển. Tiến nhanh như vũ bão. Lấy lợi dụ địch. Giả hèn cho địch kiêu. Thân với người đa mưu. Xa kế trước động binh sau. Tính thắng đã rồi mới chiến.
Bàn về cái mượn của Khổng Minh
Hồi thứ 46, Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:  Hôm sau Chu Du hội cả các tướng dưới trướng, mời Khổng Minh đến bàn việc. Khổng Minh đến, Du hỏi:
Nay sắp đánh nhau với Tào Tháo trên mặt sông, nên dùng vũ khí gì cho tiện?
Khổng Minh thưa:
Trên mặt sông lớn, cốt lấy cung tên làm đầu.
Du nói: Lời tiên sinh hợp ý tôi lắm. Hiện trong quân đang thiếu tên bắn, phiền tiên sinh trông nom giúp cho việc làm mười vạn tên. Đây là việc công, tiên sinh chớ nên từ chối.
Khổng Minh nói: Đô Đốc đã sai, tôi xin hết sức. Xin hỏi mười vạn tên khi nào dùng đến?
Du hỏi: Trong mười hôm có làm xong không?
Khổng Minh nói: Quân Tào nay mai sắp đến, nếu đợi mười ngày e việc lớn hỏng mất.
Du hỏi: Tiên sinh liệu mấy hôm thì xong?
Khổng Minh thưa: Trong nội ba ngày sẽ nộp đủ mười vạn tên.
Du nói: Việc quân không phải trò đùa đâu.
Khổng Minh nói: Đâu có dám đùa với Đô Đốc, tôi xin làm giấy cam đoan. Nếu ba ngày không xong cam đoan chịu trọng tội.
Du mừng lắm, gọi ngay quan Chính Tư, mang đồ văn phòng ra làm tờ cam kết, rồi mở tiệc khoản đãi và nói:
Khi nào xong việc xin có đền đáp.
Khổng Minh nói: Hôm nay đã không kịp rồi, ngày mai bắt đầu làm, đến ngày thứ ba, xin Đô đốc sai năm trăm quân đến bờ sông nhận tên đem về. Khổng Minh uống thêm vài chén rồi từ biệt.
Lỗ Túc hỏi Chu Du: Người này có nói khoác chăng?
Du nói: Rõ ràng hắn tự mua lấy cái chết, chớ ta cũng không bắt ép gì hắn. Hôm nay đông đủ mặt các quan, làm tờ cam kết, dù hắn có mọc cánh cũng không bay thoát. Ta dặn bọn thợ cố làm dây dưa và không cấp đủ cho đồ dùng, tất nhiên hắn lỡ hạn. Khi ấy ta trị tội, xem có kêu ca được nữa không. Tử Kính thử sang thăm dò tình hình, về báo cho ta biết.
Lỗ Túc vâng lệnh đến gặp Khổng Minh.
Khổng Minh nói: Ta đã bảo Tử Kính, đừng nói chuyện gì với Công Cẩn e Công Cẩn lại tìm kế hại ta. Không ngờ Tử Kính không biết giấu giếm hộ, hôm nay quả nhiên lại có chuyện. Trong ba ngày làm sao vót nổi mười vạn tên. Tử Kính phải cứu ta mới được.
Túc nói: Ông tự rước lấy tội, tôi biết cứu làm sao bây giờ?
Khổng Minh nói: Tử Kính cho ta mượn ba chục tay thuỷ thủ tốt. Trên thuyền căng vải xanh che chung quanh và vặn hơn nghìn hình nhân bằng rơm xếp đứng hai bên mạn thuyền. Ta sẽ có kế. Đến ngày thứ ba, ta bảo đảm được đủ mười vạn tên cho mà xem, nhưng chớ để cho Công Cẩn biết nữa, nếu hắn biết thì kế ta hỏng mất.
Túc vâng lời nhưng chưa hiểu rõ mưu mô Khổng Minh ra sao? Lúc về gặp Chu Du, quả nhiên Túc không hề đả động đến việc mượn thuyền chỉ bảo không thấy Khổng Minh dùng đến tre gỗ lông chim sơn nhựa gì cả, chỉ nói rằng sẽ có cách.
Du ngạc nhiên nói: thử đợi đến hôm thứ ba xem sao?
Lỗ Túc cắt riêng hai chục chiếc thuyền nhanh nhẹ, mỗi chiếc ba chục người bơi, đủ đồ vải căng, cỏ bó dự bị sẵn sàng cho Khổng Minh. Ngày thứ nhất không thấy gì, ngày thứ hai cũng vậy. Mãi đến hôm thứ ba độ canh tư, Khổng Minh mới lén sai người mời Lỗ Túc xuống thuyền.
Túc hỏi: lấy tên ở đâu?
Khổng Minh nói: Tử Kính không phải hỏi, cứ đi sẽ biết.
Nói rồi sai lấy thừng chạc ràng cả hai chục chiếc thuyền làm một cho bơi thẳng lên phía Bắc.
Đêm ấy sương mù phủ kín trời, trên mặt sông lại càng mờ mịt, giáp mặt không trông thấy nhau. Khổng Minh giục quân chèo thuyền đi thật gấp. Quả thật là một buổi sương mù rất đẹp, rất nên thơ.
Lỗ Túc sợ hãi hỏi: Quân Tào ùa ra thì làm thế nào?
Khổng Minh cười đáp: Tôi chắc Tào Tháo thấy sương mù thế này không dám cho quân ra. Chúng mình cứ yên chí uống rượu làm vui, đợi khi nào sương tan thì về.
Canh năm đêm ấy thuyền đến sát thuỷ trại Tháo. Khổng Minh sai đỗ thuyền quay về hướng tây, dàn thành hàng nhất, rồi đánh trống và hò reo ầm ĩ. Mao Giới, Vu Cấm vội vàng phi báo với Tào Tháo. Tháo truyền lệnh rằng: Sương mù dày đặc, quân giặc kéo đến bất thần tất có mai phục, không nên khinh động.
Tháo chỉ ra lệnh cho quân cung nỏ bắn tứ tung ra, lại sai người lên trại cạn gọi Trương Liêu, Từ Hoảng, mỗi người dẫn ba ngàn quân cung nỏ cấp tốc đến bờ sông trợ chiến. Hiệu lệnh đến nơi thì Vu Cấm, Mao Giới sợ quân Nam tràn vào thuỷ trại, đã sai quân bắn rào rào ra rồi. Một lát quân trên cạn cũng đến ước hơn vạn người, đều chĩa vào chỗ có trống bắn tới như mưa. Khổng Minh một mặt cứ việc thúc trống reo hò ầm ĩ. Khi mặt trời đã mọc, sương mù tan dần. Khổng Minh sai thu thuyền về, các bó cỏ trên hai chục chiếc thuyền, bó nào cũng chi chít những tên cắm.
Khổng Minh sai quân sĩ đồng thanh reo to lên rằng:
Tạ ơn Thừa Tướng giúp tên.
Khi quân vào báo cho Tháo biết, thì thuyền nhẹ nước xuôi đã đi xa hàng chục dặm rồi, đuổi không kịp nữa. Tào Tháo tức bực vô cùng.
Khổng Minh quay thuyền về nói với Lỗ Túc rằng:
Mỗi thuyền được ước lượng năm sáu ngàn tên mà không tốn chút công sức nào của Đông Ngô cả. Thế là đã được hơn mười vạn tên, nay mai lại đem tên ấy bắn lại quân Tào, chẳng tiện lắm ư?
Phê bình việc mượn tên, ông Mao Tôn Cương nói:
Điểm tuyệt diệu mỗi lúc Khổng Minh dùng kế là giỏi mượn. Muốn phá quân bắc, Khổng Minh mượn binh đội Giang Đông, giúp Giang Đông Khổng Minh mượn tên quân bắc. Vừa mượn Đông, vừa mượn Bắc. Lấy tên mượn thuyền của Lỗ Túc. Khiến Tào Tháo ngờ vực, Khổng Minh mượn sương mù trên sông. Đã mượn của người lại còn mượn cả của trời. Binh cũng mượn, tên cũng mượn thì sau này cớ sao Kinh Châu không mượn nốt nhỉ.
Tây Phương cũng như Đông Phương, những chính trị gia đều hết sức chú trọng đến vấn đề mượn. Bởi vì tranh thiên hạ, đoạt chính quyền bao giờ cũng bắt đầu từ không đến có, từ nhỏ đến lớn (vô sinh hữu chi lực, tiểu biểu đại chi lực) từ một tia lửa biến thành đám cháy to (de l’étincelle jaillit en flammes)
Ở lịch sử Trung Quốc, quy luật mượn được khai thác triệt để trong mọi hành động chính trị. Mượn là gì?
Mượn là lấy ở người dùng cho mình. Mượn lực người làm lực ta, mượn công người bồi đắp việc ta. Ông Quản Trọng nói: Thánh nhân thiên dụng phi kỳ hữu sử phi kỳ nhân. (Bậc thánh dùng được cả những gì mình không có, sai khiến cả những người không phải của mình). Tỉ dụ: Tử Cống mượn Ngô đánh Tề để cứu nước Lỗ, mượn nước Tấn để ngăn chặn tham vọng của nước Ngô.
Hết thảy mọi thành công đều nhờ biết lợi dụng hết mức và đúng mức các lực lượng cần thiết. Hán Bái Công chỉ là một người đình trưởng nhưng nhờ tài dụng nhân nên thành công. Lý Tư có tài, tuy nhiên nếu không nhờ Lã Bất Vi làm sao Lý Tư có thể đắc chí ở Tần? Lã Bất Vi cực giàu có nhưng cũng phải nhờ Tử Sở (còn Tử Sở?) cũng phải dựa vào Lã Bất Vi để gìn giữ cái thế của chính anh ta.
Muốn lấy ở người dùng cho ta, lấy lực người làm lực mình, mượn công sức người bồi đắp việc ta thì trước hết phải nghiên cứu để phát hiện ý muốn của sự vật (la découverte de la volonté des choses). Vị kỹ sư xây đập nước, điều kiện đầu tiên là phải biết dòng thác đổ theo chiều hướng nào đã. Nói rõ hơn, mượn và dựa chất chứa ý nghĩa: Tìm được sự cộng tác chặt chẽ (La lutte est une perpétuelle collaboration)
Trong bức thơ gửi cho anh em đảng, một lãnh tụ chính trị danh tiếng Tây Phương viết: “Tất cả nghệ thuật đấu tranh chống bạo quyền của ta là phải nghiên cứu để có thể sử dụng được mọi việc, mọi vật. Đồng thời sức tạo khả năng lãnh đạo toàn bộ phong trào”.
Tào Tháo từ Đông Quân đánh vào Duyện Châu, lúc đi Tháo mang theo sứ mạng triều đình để dẹp phong trào đó mà gây binh quyền cho mình.
Khổng Minh cùng Lưu Bị lếch thếch đến Đông Ngô sau khi bỏ trốn khỏi Kinh Châu, nhờ Khổng Minh biết nắm vững tâm lý nóng nẩy kiêu hùng của hai vị lãnh tụ trẻ tuổi Đông Ngô nên lập kế vừa khích vừa thuyết phục để rồi mượn tay Đông Ngô mà xoay chuyển lại thời thế.
Cổ nhân nói:
“Bằng tạ giả, sự bán nhi công bội, thứ trí giả chi sở lạc vi chi dã. Mượn nổi, dựa được thì việc làm có nhiều hiệu quả, cho nên người trí giả thích nghĩ ngợi về điều ấy”.
Những lời trên, đáng để cho độc giả Tam Quốc Chí diễn nghĩa suy nghĩ khơi đào thêm.
Bàn về những thất bại của Gia Cát Lượng
Thi gia Vương Việt làm mười bài thơ nhan đề là Long Trung thập vịnh. Lời thơ trong Long Trung thập vịnh đều phảng phất xót thương thân thế sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc.
Bài chiêm bái giếng Đại Giốc, Vương Việt viết:
Nhất mạch tâm tình khởi ngọa long
Độc lân vị toại tế thời công
Cổ kim đa thiểu anh hùng lệ
Tận tại tiên sinh thứ tỉnh trung
(những giọt lệ anh hùng kim cổ đều ở trong nước giếng nơi quê nhà tiên sinh. Thất bại của Gia Cát Lượng trở thành thất bại điển hình, các nhà chính trị đời sau truyền nhiễm nho giáo, mỗi lần thất bại đều cảm thấy hay miễn cưỡng cảm thấy anh linh Gia Cát hiện về với họ.)
Sinh thời Khổng Minh, ông thường hoài bão:
Sử phi thường chi thế, kiến phi thường chi nghiệp (ở đời khác thường, làm sự nghiệp khác thường)
Cùng tác độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ (cùng thì tự tốt lấy ta, đạt thì đem hạnh phúc cho thiên hạ)
Thế mà rút cục sự nghiệp phi thường hỏng, độc thiện kỳ thân không được, kiêm thiên hạ cũng hão huyền. Mặc dù ông đã gắng hết lực mình cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ (chăm chỉ tận tụy, chết mới thôi). Tam quốc chí diễn nghĩa diễn tả tâm trạng Gia Cát lúc chết thật bi ai:
Khổng Minh gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ, ra trại đi xem các dinh. Gió thu thổi mạnh, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ đây ta không còn được ra trận đánh giặc nữa. Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.
Muôn việc chẳng qua do số phận
Người sao cưỡng được lòng trời.
Trước khi đi vào những thất bại thực tiễn của Khổng Minh tưởng cũng nên bàn qua vấn đề lòng trời, mệnh vận đối với người Trung Quốc. Có hai quan niệm về vấn đề này. Một tiêu cực mê tín dị đoan coi mệnh vận là bất di bất dịch do bàn tay tạo hóa định sẵn, quan niệm mê tín dị đoan được đại đa số quần chúng và ít nhiều trí thức giả tin theo. Còn rất ít phần trí thức biết trách nhiệm của mình thì coi mệnh vận và lòng trời là sự biến đổi tranh đấu không những con người có thể thay trời mà hành đạo. Như Trương Tải nói: Vì trời đất lập tâm, vì sinh dân lập mệnh, kế túc cái học gián đoạn của bậc thánh, vì vạn đời mở thái bình. Bởi vậy người chân trí thức không tin không sợ mệnh nghĩa là luôn luôn phải có thái độ thấy cơ hội thì làm (quân tử kiến cơ nhi tác). Ta khởi đầu cho người sau tiếp tục, thành bại không do một đại biến động.
Như thế sự thất bại của Gia Cát chỉ là thất bại của một chánh trị gia trước chính quyền toàn nước Trung Quốc. Nhưng nếu về công cuộc thống nhất lớn lao của dân tộc thì phần đóng góp của Khỏng Minh không phải nhỏ. Đứng trên lập trường trách nhiệm trí thức thì Khổng Minh không thất bại chút nào. Tinh thần “Tri bất khả nhi vi” trong nho giáo là tinh thần không vụ lợi, đã được Khổng Minh tu dưỡng đến cao độ. Trên thực tiễn chính trị, Gia Cát Lượng chịu đựng hai thất bại nặng nề có tính chất quyết định quân sự cũng như nhân sự là hai sở trường của Khổng Minh, tại sao ông lại để đến nông nỗi trời thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi.
Lấy được căn cứ địa Tây Xuyên rồi, Gia Cát Lượng lập hai sách lược: Bình man và phạt Ngụy.
Sách lược Bình man dẫn đến việc Nam Chinh vượt sông Lư Thủy, bẩy lần bắt bẩy lần tha Man Vương Mạnh Hoạch. Sách lược phạt Ngụy dẫn đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn.
Sách lược thứ nhất áp dụng lề lối công tâm chiến của Mã Tắc. Khổng Minh hoàn toàn thành công, các dân tộc biên cương không còn là mối lo sau lưng cho Thục nữa. Sách lược thứ hai hoàn toàn thất bại.
Thất bại trên sách lược phạt Ngụy liên hệ đến vấn đề nhân sự. Sự thất bại không phải do Gia Cát mà ra, chủ yếu do lỗi Quan Vũ phá hoại chính sách Liên Ngô mà nên.
Gia Cát Lượng ngay từ lúc ở Long Trung đã nói đến đánh Ngụy, ông dự định đem chủ lực ra vùng Hồ Bắc chứ không lấy Tứ Xuyên làm khởi điểm. Kế hoach của ông  là lấy binh Kinh Châu đánh mạnh vào Uyển Lạc tức khu vực lòng ruột của thành Hứa Xương nhà Ngụy. Ngoài ra binh Ích Châu Tân Xuyên đánh tới chỉ có nhiệm vụ bổ trợ.
Kinh Châu mất, chủ lực do Lưu Bị cầm đem tới cứu bị thua. Sách lược phạt Ngụy đến lúc này chẳng qua chỉ còn là mớ giấy lộn. Chuyển binh quay vòng về Kỳ Sơn để đánh Trung Nguyên là một chuyện ảo tưởng. Đến việc sáu lần ra Kỳ Sơn, độc giả Tam Quốc chí diễn nghĩa sơ ý, không biết rằng sự việc xuất binh phạt bắc trước sau vỏn vẹn có năm lần. Tổng quát cả năm lần xuất binh, nói về chiến lược cơ bản đều thất bại, nói về chiến thuật quá nửa thành công. Tuy nhiên những thành công chiến thuật không cứu vãn nỗi thất bại chiến lược. Đấy là nguyên nhân khiến cho con người quân sự kỳ tài trở thành một nhân vật của vở bi kịch Tam Quốc, mà kẻ làm cho Gia Cát Lượng táng mạng không ai xa lạ, chính là Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường. Khổng Minh năm lần Bắc phạt, trên chiến thuật trừ lần thứ nhất Mã Tắc vi phạm tiết độ và lần thứ năm ông bị bệnh chết không gây được những thành tích lớn. Còn các lần khác, như lần thứ hai chém được tướng Ngụy là Vương Song, lần thứ ba thu phục hai quận Vũ Đô và Âm Bình, lần thứ tư bắn chết Trương Cáp.
Cả năm lần xuất binh Gia Cát Lượng  đều phải kiệt lực chống với kẻ thù ghê gớm của tất cả nhà quân sự là: vấn đề binh lương do đường giao thông khó khăn. Mặc dù ông đã phát minh ra trâu gỗ ngựa máy, nhưng cũng không lại. Rút hết kinh nghiệm của bốn lần trước, lần thứ năm Gia Cát Lượng giải quyết bằng phương pháp đồn điền, cho quân nhân tập cư với dân chúng vừa cày cấy giúp dân vừa tiến đánh Ngụy quân. Tuy nhiên phương pháp đồn điền cũng chỉ tạm giải quyết được một phần rất nhỏ vì ruộng đất, cày cấy ở đây thiếu. Hơn nữa bên phía Ngụy, Tư Mã Ý áp dụng chiến lược trường kỳ nhất định không chịu giáp chiến. Tam Quốc chí diễn nghĩa kể:
Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần sai người ra khiêu chiến, Ngụy quân nhất định không ra. Khổng Minh bèn lấy một cái khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà đựng vào một cái hòm rồi viết thư sai người đưa đến trại Ngụy.
Các tướng không dám giấu giếm, dẫn người đưa thư vào ra mắt Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư nói rằng:
Trọng Đạt đã làm Đại Tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong ổ trong hang để lánh lưỡi dao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm, quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy, nếu còn biết xấu hổ có chí khí người con trai thì  phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến.
Tư Mã Ý xem xong trong bụng căm giận, nhưng cũng gượng cười nói rằng: Khổng Minh coi ta như đàn bà ư. Liền chịu nhận đồ ấy, trọng đãi người đưa thư.
Đánh Ngụy chỉ còn một hy vọng nữa là Đông Ngô đánh úp Ngụy mà thôi. Nhưng đến lúc Phí Vĩ đến báo cho Gia Cát biết rằng: Tào Tuấn nghe Đông Ngô ba mặt tiến quân, cũng dẫn đại quân đến Hợp Phì, sai Mãn Sủng, Diễn Lự, Lưu Thiệu chia  quân làm ba mặt chống cự. Mãn Sủng bày mẹo đốt sạch chiến thuyền và lương thảo khí giới của Đông Ngô. Không làm nên chuyện gì, phải rút quân trở về.
Khổng  Minh nghe tin ấy, thở dài một tiếng, không ngờ ngất đi ngã gục xuống đất. Mấy hôm sau Khổng Minh chết. Sách lược Bắc phạt thất bại hẳn.
Nói thất bại trên vấn đề nhân sự hay nói theo hiện đại nghĩa là thất bại trên chính sách cán bộ.
Chính sách cán bộ gồm có ba phần:
biết người
 dùng người
Nuôi dưỡng, đào tạo tài năng
Thất bại trên chính sách cán bộ của Gia Cát Lượng gây nên với những nguyên nhân thuộc cả chủ quan lẫn khách quan.
Nguyên nhân khách quan là nước Thục không có nhân tài nhiều. Căn cứ vào sự kiện: Liêu Hóa làm tiên phong thì đủ rõ.
Thục trung vô đại tướng.
Liêu Hóa tác tiên phong.
Nếu ta chịu khó xem xét tỉ mỉ lý lịch các nhân vật trong pho Tam Quốc chí, sẽ thấy nhân tài phân bố ra sao? Đại khái chia làm bốn khu vực: khu Quan Trung, khu Trung Nguyên, khu Hoài Tứ và khu Kinh Tương. Riêng địa phương Tây Xuyên lại không phải là khu vực sản sinh nhân tài. Sở dĩ Tây Xuyên thiếu nhân tài vì lẽ: đây là khu vực mà nền giáo dục hãy còn lạc hậu. Trước kia do loạn ở Trung Nguyên, nhân tài di chuyển tới Tây Xuyên nhưng lúc thế chia ba đã rõ rệt, họ lại trở về Trung Nguyên hết.
Thêm vào đấy, chính sách vơ vét nhân tài của Tào Thào giỏi quá, theo Ngụy Chí bản truyện thì Tào Tháo cần người tài giỏi như người chết khát đòi uống nước, khiến cho những lãng tử đa tài về quy phục Tháo đông như kiến.
Tam Quốc chí diễn nghĩa cho ta biết tình trạng thiếu cán bộ của Thục Quốc qua những sự kiện:
Khổng Minh thu quân thắng trận về trại, sắp sửa cất quân tiến đi. Có người ở Thành Đô lại báo tin Trương Bào mất, Khổng Minh khóc ầm lên, miệng thổ huyết, ngất đi, ngã lăn xuống đất. Chúng vội vã cứu dậy, từ đó mắc bệnh. (hồi thứ chín mươi chín)
Tư Mã Ý gọi người về hỏi han chuyện Khổng Minh ăn ngủ cùng là công việc nhiều ít ra sao.
Sứ giả bẩm rằng:
Thừa tướng tôi thức khuya dậy sớm, hình phạt từ hai chục roi trở lên cũng phải coi xét đến mà mỗi ngày chỉ ăn được vài thưng mà thôi.
Ý quay lại bảo với các tướng rằng:
“Khổng Minh ăn ít làm nhiều, sống lâu làm sao được” (hồi 103)
Nguyên nhân chủ quan là Khổng Minh chỉ biết người, biết dùng, nhưng không biết đào tạo người, thiếu hẳn kế hoạch bồi dưỡng cán bộ. Ông chết đi không có lấy một người đủ khả năng thừa kế sự nghiệp bỏ dở dang. Vì không ai lãnh đạo, nên ngay sau khi ông mất, nội bộ văn quan có tranh chấp giữa Phí Vĩ, Tưởng Uyển. Có một mình Khương Duy thì Duy lại vô quyền, hơn nữa Duy cũng chỉ giỏi việc quân cơ nhưng kém mặt chính trị.
Cổ nhân luận về kiểu mẫu một chính trị gia lý tưởng như sau:
“Đức hạnh cao diệu, dụng chỉ khả pháp. Kỳ đức túc dĩ lệ phong tục kiến lập pháp chế; cường quốc phú dân. Kỳ pháp túc dĩ chính thiên hạ, tư thông đạo hóa. Sách mưu kỳ diệu”
Ý nói: chính trị gia lý tưởng phải là người có nhãn quan xa rộng, nhận rõ thời đại, học vấn quảng bác, tư tưởng chu đáo, có kế hoạch an bang tế thế, giỏi ứng phó với hoàn cảnh nhân sự, can đảm gánh vác trách nhiệm biết đùng đạo đức, dám nói và dám làm.
Chỉ có Vũ hầu Gia Cát Lượng Khổng Minh là nhân vật duy nhất trong Tam Quốc có thể mang so sánh với mẫu người chính trị lý tưởng của cổ nhân mà thôi. Tuy nhiên Khổng Minh vẫn kém Tháo trên ý thức thực tiễn khả dĩ ứng phó với xã hội nhiễu nhương xã hội Tam Quốc.
Đọc lại những lời tha thiết trong bài biểu cuối cùng:
“Tôi chết đi không để trong nhà có tấm lụa thừa, hay có chút của riêng để phụ lòng bệ hạ đâu.”
Người đọc đều có chung một cảm giác yêu mến kính phục mẫu người chính trị lý tưởng Gia Cát Lượng.
Thất thủ Nhai Đình
Mã Tắc không tuân lời Gia Cát Khổng Minh để mất Nhai Đình thật là một vết thương chí mạng cho Vương nghiệp nhà Thục, đồng thời cũng là một thất bại lớn trong đời chánh trị của Khổng Minh. Mã Tắc còn gây nên chia rẽ trong nội bộ nước Thục để tạo thành môi trường cho sự đổ vỡ của nước Thục.
Sự thể như dưới đây:
Lưu Bị đến Ba Thục lập vương nghiệp, chính sách quy tụ nhân tài khi đem ra thực hiện, trên hiện tượng ta thấy có người bốn phương kéo tới, nhưng sự thực chủ lực cán bộ đều chỉ trông cậy vào tập đoàn trí thức vùng Kinh Châu.
Khổng Minh là thủ lãnh tập đoàn Kinh Châu.
Sau khi Lưu Bị chết, thì nhân sự Thục liền chia làm hai phái của tiên chủ và phái của Gia Cát.
Phái tiên chủ với các người cốt cán như: Ngụy Diên, Trương Dực, Vương Bình, Hứa Từ, Tiều Chu, v.v…
Hai phái chống đối nhau.
Phái Khổng Minh giỏi hơn và nắm nhiều quyền hơn, tuy nhiên phái tiên chủ lúc nào cũng hục hặc không chịu và mưu toan giành giật quyền lại.
Các chiến tướng giỏi như Ngụy Diên và Triệu Vân không ưa tập đoàn Khổng Minh nên dùng đủ mọi cách chống đối, ngược lại Khổng Minh cũng luôn luôn thiết kế chấn áp nhóm Diên. Mã Tắc nguyên quán Tương Dương, là một trí thức có hạng của tập đoàn Kinh Châu. Nhờ Khổng Minh nâng đỡ, nên lên chức rất nhanh. Mã Tắc giỏi biện thuyết về quân kế cho nên Gia Cát dụng làm tham quân. Khổng Minh thường cùng Mã Tắc đàm luận thâu đêm.
Năm Kiến Hưng thứ ba, Gia Cát Lượng đem binh bình định phía Nam. Mã Tắc tiễn ra ngoài mười dặm, bày mưu bẩy lần tha Mạnh Hoạch để thu phục nhân tâm.
Theo các sách khác thì đại khái Mã Tắc giỏi như vậy. Nhưng ở Tam Quốc chí diễn nghĩa thì lại có câu: "Mã Tắc là người ngôn quá kỳ thực, không thể dùng làm việc lớn được" của Lưu Bị nói với Khổng Minh.
Sách nào sai, sách nào đúng, Mã Tắc giỏi hay không giỏi, bây giờ chúng ta không thể đoán được.
Nhưng việc Mã Tắc ghi trong nhiều sách đều mang những điểm giống nhau, để chứng dẫn cho ta biết rằng:
Có mâu thuẫn trong nội bộ Thục giữa hai phái Tiên chủ và phái Gia Cát Lượng
Mã Tắc làm mất Nhai Đình khiến cho mâu thuẫn nổ bùng thành tranh chấp trong nội bộ Thục.
Gia Cát có lầm lỗi về việc dùng người, trong hành động quá thiên tư đối với tập đoàn trí thức Kinh Châu, ở đây Gia Cát đã phản lại phương châm: lòng tôi như chiếc cân, không vì người mà nặng nhẹ của ông đã nêu ra.
Năm Kiến Hưng thứ sáu, Gia Cát Lượng xuất binh Kỳ Sơn đánh Ngụy. Lần này, ai cũng nghĩ Ngụy Diên sẽ được lãnh chức tiên phong, nên ai cũng ngạc nhiên khi thấy chức này Khổng Minh lại giao phó cho Mã Tắc.
Để ứng chiến, Ngụy Đế là Tào Sảng (Tuấn?) sai Trương Cáp cầm quân. Hai bên giáp nhau ở Nhai Đình.
Kể về hình thế và lực lượng thì quân Thục chiếm ưu vị vì quân đã đông lại thêm địa hình hiểm trở. Còn quân Ngụy thì quân đã ít lại ở chỗ bất lợi.
Thế mà kết quả thật không ngờ, quân Thục tan vỡ chạy tán loạn, quân Ngụy thừa thắng chiếm Nhai Đình.
Thất bại, đương nhiên lỗi tại Mã Tắc. Theo Tam Quốc chí diễn nghĩa thì nguyên nhân thất bại là tại Mã Tắc không tuân lệnh Thừa Tướng, không nghe can gián của Vương Bình.
Mã Tắc thua rồi Khổng Minh chỉ còn một nước là lui binh. Dư luận ở Thục sôi nổi, phái tiên chủ nhân chuyện Mã Tắc cực lực công kích Gia Cát Lượng. Không thể bênh vực được Mã Tắc nữa, Gia Cát Lượng đành phải đem ra xử. Toàn thể tập đoàn Kinh Châu cũng không chịu và buộc Khổng Minh phải cứu Mã Tắc.
Nhưng tội Mã Tắc đã rành rành. Địa vị Gia Cát Lượng thật hết sức khó khăn.
Công việc chưa ngã ngũ, thì một chuyện động trời xẩy ra. Hướng Lãng, bí thư trưởng của Khổng Minh, nửa đêm giúp cho Mã Tắc vượt ngục. Cuộc vượt ngục không thành công vì bị phái Tiên chủ khám phá. Phái tiên chủ luôn luôn kết tội Mã Tắc có ý đầu hàng Ngụy.
Gia Cát Lượng đành phải gạt lệ chém Mã Tắc và cất chức Hướng Lãng rồi dâng sớ nhận tội sơ suất.
Cũng từ đây Gia Cát Lượng bị tập đoàn Kinh Châu chê bai là nhẫn tâm, đồng thời cũng bị phái tiên chủ chỉ trích là con người tư tâm, nên ông ưu uất thành bệnh nặng.
Ngụy Diên tạo phản và tình hình Ba Thục
Khổng Minh chết ở Ngũ Trượng Nguyên, tang chế chưa xong thì nội bộ đã phát sinh xung đột. Dương Nghi và Ngụy Diên đem binh đánh lẫn nhau. Kết quả Dương Nghi thắng lợi, Ngụy Diên táng mạng. Đời sau chịu ảnh hưởng Tam Quốc Chí diễn nghĩa, lên án kết tội Ngụy Diên là phản loạn. Tính chất truyền kỳ Tam Quốc Chí diễn nghĩa với nghệ thuật quá cao phổ vào các sự kiện như sau lưng Ngụy Diên có xương chồi hình tướng của phản loạn, cẩm nang Khổng Minh trao cho Dương Nghi thách Ngụy Diên, không sao cởi gỡ được.
Ở đây tôi xin nêu lên ít luận cứ, để tìm hiểu sự thực về vụ Ngụy Diên tạo phản.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa kể:
Phí Vĩ đến trại Ngụy Diên, đuổi tả hữu ra ngoài nói:
Canh ba đêm hôm qua Thừa tướng qua đời rồi. Lúc gần mất có căn dặn lại, sai tướng quân dẫn quân đi sau để chống lại quân Tư Mã Ý. Quân ta phải từ từ rút về, không được phát tang. Nay binh phù ở đây, xin tướng quân cất đi cho.
Diên hỏi: Ai coi thay việc cho thừa tướng?
Vĩ nói: Nội là công việc to tát, thừa tướng giao cho Dương Nghi, mật pháp dùng binh thì giao cho Khương Bá Ước, binh phù này là của Dương Nghi đây.
Diên nói: Thừa tướng tuy mất, còn có ta đây. Dương Nghi chẳng qua là một chức Trưởng sử, gánh nổi sao được việc to này. Hắn chỉ nên rước ma về Xuyên an táng để ta cầm quân đánh nhau với Tư Mã Ý, cố cho thành công, có đâu vì một mình thừa tướng mà bỏ mất việc to nhà nước được.
Vĩ nói: Thừa Tướng di chúc lại bảo hãy tạm rút về, không nên trái lời.
Diên nổi giận: Nếu thừa tướng nghe mẹo ta khi xưa thì lấy được Tràng An lâu rồi. Ta nay làm Chinh tây đại tướng quân Nam trịnh hầu, lại thèm đoạn hậu cho Trưởng sử à.
Vĩ nói: Tướng quân nói phải lắm, nhưng cũng không nên khinh động, quân giặc chê cười cho. Vậy để tôi đem lẽ lợi hại bảo Dương Nghi để hắn nhường binh quyền cho Tướng quân. Tướng quân nghĩ sao?
Diên y lời, Phi Vĩ từ về trại lớn, ra mắt Dương Nghi thuật lại chuyện đó.
Nghi nói: Thừa tướng lâm chung có mật bảo ta rằng Ngụy Diên tất sinh bụng kia khác. Ta cho binh phù ra sai, là muốn dò bụng hắn đấy thôi. Nay quả nhiên như lời Thừa Tướng thật, ta sai Bá Ước đoạn hậu cũng xong.
Bởi thế Dương Nghi đưa ma về trước, Khương Duy đi giữ mặt sau tuân lời Khổng Minh từ từ rút về. Ngụy Diên ngồi chờ trong trại, lâu không thấy Phi Vĩ trở lại, trong bụng nghi hoặc, liền cho Mã Đại dẫn vài tên kỵ dò xem tin tức thế nào. Mã Đại về bảo rằng: Khương Duy tổng đốc hậu quân, còn tiền quân lui về trong cửa hang cả rồi.
Diên nổi giận nói: Quân hủ nho dám lừa dối ta. Thế nào ta cũng giết được mới nghe
Diên ngoảnh lại bảo Mã Đại rằng: Ông có chịu giúp tôi không?
Đại nói: Tôi vốn cũng ghét Dương Nghi, xin vui lòng giúp Tướng quân.
Diên mừng lắm, lập tức nhổ trại, kéo quân bản bộ về phía nam.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho rằng mầm loạn bắt đầu từ sau cái chết của Vũ Hầu, thật ra xung đột Ngụy, Dương âm ỷ tích oán đã từ lâu, cái chết của Vũ Hầu chẳng qua chỉ là một hoàn cảnh, một cơ hội để xung đột Ngụy, Dương bùng nổ thành tranh chiến.
Ngụy Diên vốn là một viên tướng lãnh đạo bộ khúc đi theo Lưu Bị, nhân vì lập được nhiều chiến công mà lên chức lớn. Lưu Huyền Đức chiếm xong Hán Trung quay trở về Thành Đô, nên cần tuyển lựa người trấn thủ Hán Trung. Ai ai cũng tiến cử Trương Phi và chính Trương Phi cũng tự nguyện. Nhưng vua Thục lại chọn Ngụy Diên làm cho mọi người ngạc nhiên, bởi vì sau Trương Phi còn có Triệu Tử Long là những công thần thân cận với vua Thục, đồng thời cũng là tướng tài, chứ đâu đã đến lần Ngụy Diên. Việc giao trọng trách trấn thủ Hán Trung cho Ngụy Diên chứng tỏ tài lược của người này vượt cả Trương Phi, Triệu Vân lẫn Vân Trường. Tài lược Ngụy Diên đã rõ ràng trong kế hoạch mà Diên hiến cho Gia cát Lượng lúc sửa soạn đem quân bắc phạt, xin cho mình đánh úp Tràng An. Nhưng Khổng Minh không nghe, cho rằng quá ư mạo hiểm. Nếu nghe kế Diên chắc Khổng Minh không bị vố bại sâu cay thất thủ Nhai Đình do viên tướng mà Lưu Bị xét đoán là người nói quá sự thật tên Mã Tắc.
Căn cứ vào những ghi chép sử sách khác thì lúc Vũ hầu bị trọng bệnh, bèn giao phó cho Ngụy Diên xử lý hết các việc của mình. Diên và Dương Nghi vốn vẫn hiềm thù nhau. Nghi sợ Diên nắm quyền Thừa Tướng sẽ hại mình, liền phao tin Ngụy Diên làm phản, định đầu hàng quân Bắc. Nghi được Phí Vĩ, Tưởng Uyển về hùa nên đốc quân đánh úp Diên. Diên thua chạy bị Nghi giết chết.
Tam Quốc Chí diễn nghĩa và những thuyết thấy trong các sách sử khác đều có những điểm đáng ngờ, không chắc bên nào là thực.
Gia Cát Lượng định thoái quân tất nhiên phải cho cả Ngụy Diên biết chứ sao lại chỉ báo riêng với Phí Vĩ và Dương Nghi? Nếu bảo là nghi Ngụy Diên, sao Gia Cát Lượng vẫn cho Diên đi hộ tống đoạn hậu để bảo vệ cuộc rút lui.
Gia Cát Lượng giao phó toàn quyền bính cho Ngụy Diên thì toàn bộ lực lượng sẽ nằm gọn trong tay Diên, Dương Nghi là một vị quan văn, lấy gì mà đánh giết được Ngụy Diên?
So sánh những điểm vô lý ta có thể đưa ra một giả thuyết mà tìm đến gần sự thật hơn là cái chết của Khổng Minh đột ngột quá nên ông không kịp đặt kế hoạch lui quân. Bọn Dương Nghi, Phí Vĩ âm mưu với nhau kế hoạch này.
Diên chống lại Nghi và Vĩ. Nghi, Vĩ và Diên đều cố về vận động ở Thành Đô, nhưng Diên cô lập vì Tưởng Uyển ủng hộ Nghi, Vĩ. Quân lính theo Diên thấy Diên kém thế liền bỏ Diên. Ít quân, Diên bị Nghi giết. Đọc Tam Quốc Chí diễn nghĩa người ta nhận thấy những đoạn:
Tưởng Uyển tâu rằng: Cứ ý tôi thì Dương Nghi tuy tính khí hẹp hòi, không dung người, nhưng đến việc trù tính lương thảo, tham tán quân cơ cũng giúp được thừa tướng nhiều lắm. Thừa tướng lâm chung phó thác cho việc lớn, quyết không phải là người làm phản. Ngụy Diên xưa nay cậy có công, khinh người, Dương Nghi không chịu nên Ngụy Diên vẫn ghét. Nay thấy Nghi được cầm binh quyền, Diên ganh tị mới đốt đường vu cáo Nghi làm phản. Tôi xin đem già trẻ cả nhà bảo cứ cho Dương Nghi không phải là người làm phản, chớ không dám nhận cho Ngụy Diên.
Hà Bình được lệnh Dương Nghi kéo quân đến núi Sà Sơn đánh Ngụy Diên. Gặp Diên, Bình quát to mắng rằng: Phản tặc Ngụy Diên.
Diên cũng mắng lại: Mày giúp Dương Nghi làm phản lại dám mắng tao à?
Bình cầm roi trỏ sang đám quân Ngụy Diên nói lớn:
Quân sỹ chúng mày toàn là người Tây Xuyên, có cha mẹ vợ con anh em ở trong ấy cả. Khi thừa tướng còn, không bạc đãi gì chúng mày. Nay chớ nên giúp quân phản tặc, nên về cả quê hương mà chờ đợi ơn trên ban thưởng.
Quân sỹ nghe xong reo rầm lên một tiếng rồi tản đi quá nửa.

*

Vậy có thể kết luận vụ Ngụy Diên là một vụ tư thù, một mâu thuẫn chính trị nội bộ vì tranh quyền sau cái chết quá bất ngờ của Gia Cát Khổng Minh.
Kể từ năm Thái Hòa thứ hai, Khổng Minh không ngừng xuất binh đánh Ngụy. Năm Thái Hòa thứ hai tức là năm thứ chín của Tam Quốc. Khổng Minh mất vào năm thứ mười của Tam Quốc. Nhà Thục diệt vong vào năm thứ bốn mươi bốn của Tam Quốc. Như vậy thì Thục Hán còn tồn tại thêm 29 năm sau khi Gia Cát chết. Khoảng 29 năm đó, chính quyền Thục Hán ở trong tay Tưởng Uyển 12 năm, Phí Vĩ bảy năm và 10 năm sau cùng do Khương Duy. Tưởng Uyển, Phí Vĩ không xuất binh phạt Ngụy lần nào, chỉ có Khương Duy mấy lần mưu toan, nhưng bị Phí Vĩ gàn trở. Phí Vĩ chết, Khương Duy mới thực hiện được mộng tưởng, tuy nhiên không những Duy không thành công, trái lại còn gây thêm nhiều nỗi khó khăn trong nước. Người đương thời cũng như hậu thế đều đổ lỗi cho Khương Duy đã gây can qua làm hại Thục Hán. Thật oan cho Khương Bá Ước, bởi vì binh lực Tây Thục so với nước Ngụy thua kém rất xa. Ngay lúc sinh thời Gia Cát Lượng, sở dĩ có năm lần phạt Ngụy chính là vì cần phải áp dụng chiến lược dĩ công vi thủ, muốn bảo vệ ta nên tấn công địch. Đời Tưởng Uyển, Phí Vĩ có thể yên vì nội bộ Ngụy chưa ổn định. Khi họ Tư Mã cướp quyền họ Tào rồi, điều khiển Đặng Ngải, Chung Hội tấn công Tây Thục thì với chín vạn quân Tây Thục không chống đỡ ba mặt với quân số nước Ngụy gần gấp ba. Lẽ ra Tưởng Uyển và Phí Vĩ phải theo kế hoạch Khương Duy tấn công Ngụy giữa lúc tình hình chính trị nội bộ nước Ngụy đang rối loạn mới đúng. Thục Hán mất chính là tại chính sách cầu an của Tưởng Uyển và Phí Vĩ. Giả sử Ngụy Diên chưa chết, chính sách phạt Ngụy được kiên quyết duy trì chắc tình trạng đã khác đi nhiều.