CHƯƠNG 9

     amera đường phố bằng cỡ hộp giày đặt trên cột điện, trông có gì đó gian ác, mỗi cái như vậy gắn một con mắt đen trừng trừng vô cảm. Các camera quay theo các hướng đối nhau, dõi theo suốt chiều dài phố Alderbrook sôi động người và xe. Hai bên vỉa hè đầy những cửa hàng, quán bar và tiệm cà phê. Xe buýt hai tầng liên tục ngược xuôi trên làn đường riêng.
“Đây là chỗ Người bỏ chạy của Bristow bị ghi hình,” Strike quan sát, quay lưng về phía đường Alderbrook để nhìn xuống con phố Bellamy yên tĩnh hơn, dẫn thẳng đến những ngôi nhà cao lớn sừng sững như cung điện trong trung tâm khu Mayfair. “Người bỏ chạy đi qua đây mười hai phút sau khi Lula rơi xuống… đây là đường ngắn nhất từ Kentigern Gardens. Xe buýt đêm dừng ở đây. Nhưng chắc tay đó đã gọi taxi. Mặc dù mới giết người mà đi taxi thì không được thông minh lắm.”
Strike lại cắm mặt vào một cuốn sách hướng dẫn chỉ đường “London: Từ A tới Z” đã tơi tả. Hắn có vẻ như chẳng thèm lo lắng sẽ bị nhầm với khách du lịch. Mà có vậy thì cũng chẳng sao, Robin nghĩ thầm, hắn to cao như gấu thế kia.
Trong mấy ngày ngắn ngủi đi làm cho Strike, Robin đã được giao vài việc nằm ngoài hợp đồng thư ký, vậy nên khi Strike rủ đi dạo, cô cũng thấy hơi ngại. Tuy nhiên sau đó cô nhẹ nhõm nhận ra Strike không hề có ý tán tỉnh gì cả. Cuộc đi bộ khá dài, cho tới lúc này hầu như im lặng, Strike chỉ tập trung suy nghĩ và lâu lâu thì nhìn bản đồ.
Khi cả hai đến phố Alderbrook, hắn quay lại nói:
“Nếu cô nhận ra cái gì, hoặc nghĩ ra cái gì mà tôi không thấy được cô sẽ nói với chứ?”
Nghe thật hấp dẫn: Robin luôn tự hào về khả năng quan sát của mình, đây chính là lý do mà cô vẫn còn âm thầm giữ ước mơ làm thám tử như tên to cao đang đứng bên cạnh. Cô quan sát từ đầu đến cuối con đường và cố gắng mường tượng ra cảnh một người đang loay hoay trong đêm tuyết rơi, nhiệt độ dưới không, lúc hai giờ sáng.
“Đi lối này,” Strike lên tiếng khi cô chưa kịp nghĩ ra gì cả, rồi cả hai đi tiếp, dọc theo phố Bellamy. Con phố hơi uốn về phía bên trái với khoảng sáu mươi căn nhà nối tiếp, hầu như giống hệt nhau, căn nào cũng có cửa đen bóng, hàng rào thấp ở hai bên bậc tam cấp trắng sạch sẽ và mấy bụi cây cảnh tỉa tót. Thỉnh thoảng điểm vài nhà có tượng sư tử đá và bảng hiệu nhỏ bằng đồng, ghi tên tuổi nghề nghiệp; đèn chùm lấp lóe ra từ cửa sổ trên lầu. Một cánh cửa đang mở, hé lộ sàn nhà bên trong lót gạch trắng đen như bàn cờ, những bức tranh sơn dầu lồng khung vàng và cầu thang kiểu Georgian.
Strike vừa đi vừa nghĩ tới những thông tin mà Robin tìm được trên mạng lúc sáng. Đúng như Strike nghĩ, Bristow đã không hoàn toàn nói thật khi kể rằng cảnh sát không hề tìm kiếm Người bỏ chạy và kẻ đồng phạm. Giữa vô vàn những bài báo ra liên tục về Landry vẫn có những lời kêu gọi hai người đó ra gặp cảnh sát, nhưng vô vọng.
Khác với Bristow, Strike không nghĩ chuyện này cho thấy cảnh sát bất tài, hay một nghi phạm bị lọt lưới điều tra. Nội chuyện chiếc xe hơi bị báo động có trộm cũng đủ là lý do khiến họ không muốn liên lạc với cảnh sát. Hơn nữa, Strike không chắc Bristow có kinh nghiệm xem các đoạn phim chất lượng không đều từ camera đường phố. Strike từng thấy quá nhiều đoạn băng trắng đen mờ mịt đến nỗi không thể nhìn rõ mặt ai cả.
Strike cũng để ý thấy Bristow không hề nói đến hay ghi chép gì về mẫu AND tìm được trong căn hộ của em gái. Hắn đoán rằng việc cảnh sát loại hai kẻ tình nghi nói trên ra khỏi quá trình điều tra cho thấy không có mẫu AND khác lạ nào được tìm thấy ở hiện trường. Tuy nhiên Strike quá hiểu những kẻ tự nói dối mình như Bristow. Họ sẽ sẵn sàng lờ đi những thứ nhỏ nhặt như AND, hoặc lấy lý do mẫu không sạch, hoặc đổ cho một thứ âm mưu nào đó. Họ luôn lấy thứ họ muốn thấy nhưng lại mù quáng trước những sự thật hiển nhiên trái ý mình.
Những thông tin tìm được sáng nay lại gợi ý thêm một nguyên nhân tại sao Bristow khăng khăng muốn điều tra Người bỏ chạy. Trước đó Lula đã cố đi tìm nguồn gốc thực sự của mình và thậm chí từng tìm ra người mẹ đẻ - một người mà cứ cho là báo chí nói quá đi nữa thì vẫn có phần không đàng hoàng. Những chi tiết trên mạng mà Robin tìm thấy hẳn không dễ nuốt tí nào, không chỉ với Landry mà còn với cả gia đình nhận nuôi cô. Có lẽ chính sự bất ổn tâm lý của Bristow (Strike không thể giả vờ là ông này trông hoàn toàn bình thường) khiến ông ta nghĩ rằng Lula, vì đang quá may mắn mà đã đùa quá tay với số phận? Rằng Lula đã tự chuốc họa vào thân khi đi tìm nguồn gốc của mình; rằng cô ta đã đánh thức một con quỷ dữ từ quá khứ và bị chính nó giết chết? Phải chăng điều đó khiến Bristow bất an khi biết có một người đàn ông da đen ở gần hiện trường?
Strike và Robin tiếp tục đi sâu vào nơi ở của giới lắm tiền nhiều của, dừng lại ở góc phố Kentigern Gardens. Cũng như phố Belllamy, chỗ này toát lên vẻ giàu có kín đáo và lạnh lùng. Nhà cửa ở đây theo kiểu Victoria, cao lớn, tường gạch đỏ viền đá, bệ cửa sổ ốp đá nặng nề trên cả bốn tầng, mỗi cửa sổ đều có một ban công nhỏ cũng bằng đá. Cổng đá trắng hai bên, bậc tam cấp trắng dần từ vỉa hè đến những cánh cửa đen bóng. Mọi thứ đều gọn gàng, sạch sẽ, được chăm sóc cẩn thận và tốn kém. Quanh đó chỉ có vài chiếc xe đậu. Một tấm biển nhỏ thông báo phải có giấy phép mới được đậu xe trong khu này.
Không còn hàng rào cảnh sát và đám nhà báo, tòa nhà số 18 lui về tĩnh lặng, y như những tòa nhà chung quanh.
“Cô ta rơi xuống từ ban công tầng trên cùng,” Strike lên tiếng, “khoảng mười hai mét.”
Hắn quan sát kỹ mặt tiền đẹp đẽ của tòa nhà. Robin nhận thấy ban công ở ba tầng trên cùng đều rất đẹp, hầu như không có chỗ đứng giữa lan can và cửa sổ.
“Vấn đề ở chỗ,” Strike nói với Robin, mắt nheo lại nhìn ban công phía trên, “bị xô từ trên đó xuống không đảm bảo chết được.”
“Ô - không lý nào?” Robin phản đối, trong đầu tính toán cú rơi từ trên ban công cao nhất xuống mặt đường cứng.
“Cô không biết đâu. Tôi từng nằm viện một tháng với một thằng cha người xứ Wales, cũng bị rơi từ tầm cao như vậy sau khi bom nổ. Gãy dập chân và xương chậu, xuất huyết bên trong khá nhiều nhưng tới giờ vẫn sống.”
Robin liếc nhìn Strike, tự hỏi tại sao hắn lại phải nằm viện một tháng; nhưng gã thám tử đang mải nghĩ chuyện khác, chăm chăm nhìn cánh cửa ra vào.
“Khóa mật mã,” hắn lẩm bẩm, xem xét bàn phím nhỏ bằng kim loại gắn trên cửa, “có một camera đặt ngay trên cửa. Bristow không nhắc tới camera. Có lẽ mới lắp.”
Hắn đứng đó vài phút, trong đầu liên tục thử những giả thuyết khác nhau trước mặt tiền gạch đỏ của cái pháo đài giàu có này. Tại sao Lula lại chọn sống ở đây? Kentigern Gardens yên tĩnh, truyền thống và bảo thủ hẳn là phù hợp với một thể loại nhà giàu khác: mấy ông trùm người Nga và Ả Rập; các tay giám đốc đi về giữa thành phố và tư trang ở nông thôn; mấy bà giàu có cô độc sắp chết già giữa những bộ sưu tập nghệ thuật. Hẳn thấy chỗ này thật là một sự lựa chọn lạ lùng đối với Lula, một cô gái mới hai mươi ba tuổi. Theo như thông tin Robin tìm được lúc sáng, Lula có một đám bạn sành điệu, nghệ sĩ, phong cách bụi bặm đường phố chứ không hề chải chuốt kiểu thượng lưu.
“Trông rất là kiên cố an toàn nhỉ?” Robin nói.
“Ừ, đúng thế. Đó là chưa nói tới đám paparazzi chầu chực suốt đêm hôm đó.”
Strike đứng dựa lưng vào hàng rào màu đen của tòa nhà số 23, nhìn chăm chăm vào nhà số 18. Cửa sổ căn hộ của Landry cao hơn hẳn so với cửa sổ ở các tầng khác, ban công không đặt chậu cây cảnh nào cả. Strike rút gói thuốc lá từ trong túi ra mời Robin; cô lắc đầu, hơi ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy Strike hút thuốc trong văn phòng. Bật lửa đốt thuốc, rít một hơi dài, mắt vẫn nhìn vào cánh cửa, Strike tiếp tục nói:
“Bristow nghĩ là hôm đó có ai lẻn vào rồi ra mà không bị phát hiện.”
Thấy ngôi nhà có vẻ bất khả xâm phạm, Robin đoán ắt hẳn Strike sắp sửa chê bai giả thuyết của Brisrow, nhưng cô lầm.
“Nếu đúng vậy,” Strike nói tiếp, mắt vẫn dán vào cửa, “ắt hẳn tay đó đã lên kế hoạch từ trước, rất kỹ. Không ai có thể đi qua đám phóng viên, một cái khóa mật mã, một người bảo vệ và một cánh cửa đóng chặt bên trong, rồi lại mò được trở ra mà chỉ nhờ may mắn. Vấn đề là,” hắn gãi cằm, “tính toán trước kiểu đó không ăn khớp với một vụ giết người bừa thế này.”
Robin cảm thấy Strike nói năng hơi bị tàn nhẫn.
“Xô người ta xuống ban công trong một giây mất trí,” Strike nói tiếp, cứ như hắn đang đọc suy nghĩ của cô. “ắt hẳn phải vô cùng giận dữ, đến nỗi mù quáng.”
Hắn thấy Robin khá là dễ chịu nhẹ nhàng, không chỉ vì cô ta nuốt lấy từng lời của hắn, không làm gián đoạn sự yên tĩnh, mà còn vì chiếc nhẫn sapphire trên tay cô như một dấu chấm hết gọn gàng: giữa hai người không có thể có gì hơn cả. Rất thích hợp với hắn lúc này. Hắn tha hồ tung hứng khoe tài, theo kiểu nhẹ nhàng từ tốn – một trong những thú giải khuây ít ỏi còn lại của hắn.
“Nhưng nếu kẻ sát nhân đã ở bên trong từ trước?”
“Khả năng đó cao hơn,” Strike đáp, Robin thấy vui vui. “Và nếu tên sát nhân đã ở sẵn trong đó thì chúng ta có vài lựa chọn: ông bảo vệ, một trong hai hay cả hai vợ chồng Bestigui, hay một người khác trốn trong tòa nhà mà không ai hay biết. Nếu là ông bảo vệ hay cặp Bestigui thì rõ là không có vẫn đề gì về chuyện đi ra đi vào; họ chỉ cần quay lại vị trí trước đó. Nhưng với những người này, hành động như vậy rủi ro ở chỗ Lula vẫn có thể còn sống và đi tố cáo. Nhưng giết chóc kiểu nóng nảy, không tính toán như vậy thì có vẻ phù hợp với mấy đối tượng này hơn. Hàng xóm cãi nhau rồi xô xuống lầu chẳng hạn.”
Strike hút thuốc và tiếp tục quan sát mặt tiền tòa nhà, đặc biệt là khoảng cách giữa cửa sổ tầng một và tầng ba. Hắn nghĩ tới Freddie Bestigui, nhà sản xuất phim. Theo như thông tin Robin tìm được trên internet, lúc Lula rơi xuống Bestigui vẫn đang ngủ trên giường. Chuyện vợ của Bestigui hét lên báo động và liên tục nói rằng kẻ sát nhân vẫn còn ở trên lầu khi ông chồng đã tỉnh dậy cho thấy bà ta không nghĩ ông này là thủ phạm. Tuy vậy, Freddie Bestigui vẫn là đối tượng ở gần Lula nhất khi án mạng xảy ra. Kinh nghiệm của Strike cho thấy người ngoài thường chỉ nghĩ tới động cơ, nhưng với dân trong nghề thì cơ hội ra tay mới là hàng đầu.
Robin hỏi, vô tình khẳng định suy nghĩ của Strike.
“Nhưng tại sao lại đi gây lộn với cô ta vào lúc nửa đêm? Mà cũng đâu có nghe nói gì chuyện cô ta không thuận hòa với hàng xóm? Và rõ là Tansy Bestigui không thể là thủ phạm, đúng không? Vì nếu phải thì tại sao bà ta lại chạy xuống nhà dưới và báo cho bảo vệ?”
Strike không trả lời trực tiếp; hắn vẫn đuổi theo suy nghĩ của mình, một lúc sau, hắn mới mở miệng:
“Bristow tập trung vào quãng thời gian mười lăm phút ngay sau khi em gái ông ta đi vào bên trong tòa nhà, khi đám phóng viên đã bỏ đi và ông bảo vệ thì bị đau bụng không còn ngồi ở bàn trực. Có nghĩa là khi đó sảnh lễ tân để trống – nhưng làm sao người đứng ở ngoài biết được lúc đó Wilson không còn ngồi ở bàn? Cửa chính đâu có gương.
“Hơn nữa,” Robin nhanh nhảu cắt ngang, “muốn vào còn phải biết mật mã trên khóa.”
 “Nhiều người khá bất cẩn. Trừ phi bảo vệ thay đổi mật mã thường xuyên, còn không rất nhiều người không liên quan vẫn xoay xở biết được mật mã. Xuống dưới kia xem sao.”
Họ im lặng đi hết khu Kentigern Gardens, nơi đó có một ngõ hẹp, chạy theo góc xéo ngay sau tòa nhà của Landry. Strike thấy hơi buồn cười vì cái ngõ có tên là Serf’s Wat (Ngõ Nông Nô). Ngõ này chỉ vừa đủ một chiếc xe hơi lọt qua nhưng có khá nhiều đèn đường và không có chỗ nào để trốn vì hai bên mặt đường lát sỏi là những bức tường sừng sững cao lớn, phẳng lì. Cuối ngõ là hai cánh cổng vận hành tự động chắn lối vào bãi đậu xe tầng hầm cho cả khu Kentigern Gardens.
Khi áng chừng đã đến sau lưng nhà số 18, Strike nhảy một phát lên tường, rướn người lên nhìn vào mấy khu vườn nhỏ được cắt tỉa cẩn thận. Giữa các bãi cỏ xanh mướt gọn gàng trước mỗi nhà là cầu thang đi xuống tầng hầm. Strike luận ra nếu muốn leo vào từ phía sau thì phải có thang, hoặc có một người giúp và vài đoạn dây thừng chắc chắn.
Hắn trượt xuống, khẽ rên một tiếng đau đớn khi cả trọng lượng cơ thể rơi lên chân giả.
“Không sao”, hắn nói khi Robin xuýt xoa; Robin nhìn thấy chân hắn hơi cà nhắc, cô lo là hắn bị trặc cổ chân.
Mặt đường lát sỏi làm vết trầy ở chỗ chân cụt rất đau đớn. Khớp cổ chân giả cứng nhắc làm Strike không dễ gì đi trên mặt đường gồ ghề. Hắn rầu rĩ tự hỏi liệu cú nhảy lên tường vừa rồi có đáng không. Robin xinh thì xinh thật, nhưng chẳng thể nào so sánh nổi với người đàn bà hắn mới bỏ.