Xưa kia, ở bên Tàu, cách thành Đông Kinh lối 30 dặm có một bến đò, thuyền bè qua lại suốt ngày đêm sự buôn bán rất là sầm uất. Ông già họ Đổng cũng đến đó lập nhà ngủ cho lữ khách đến trọ. Nhờ đông khách vãng lai nên cơ nghiệp ngày càng phát đạt và Đổng ông trở nên giàu có nhất làng. Tuy vậy ông vẫn bắt buộc người con trai duy nhất là Đổng Nhơn phải cất hàng đi buôn bán nơi xa. Bạn bè thấy vậy có ý chê bai và hỏi móc: - Bố giàu có bạc muôn, còn bắt con vất vả kiếm thêm. Bộ hai cha con định vơ hết của thiên hạ sao? Đổng ông nghiêm giọng đáp: - Ta còn khỏe mạnh, một mình trông coi nhà trọ còn dư sức không cần thằng Nhơn vả lại cho nó lăn lộn với đời sau này nó mới biết giá trị của sự làm việc khỏi ỷ y cha mẹ có của mà sanh ra lười biếng. Thời gian sau, Đổng ông muốn cho Đổng Nhơn yên bề gia thất nên có ý chọn nơi hỏi vợ cho con. Dĩ nhiên kẻ mối người mai cũng lắm song Đổng trưởng gia chẳng ưa đám nào. Ông thường nói: - Tiền bạc tôi dư xài, đâu có ham lấy vợ giàu cho thằng Nhơn. Yù tôi chỉ muốn được đứa con dâu nhà làm ăn buôn bán đặng chỉ dẫn dần dần việc trông coi nhà ngủ này để mai hậu nó gìn giữ cơ nghiệp họ Đổng. Sau đó người làm mai Dương thị là con người bán trà ở xóm Đông cho Đổng Nhơn. Dương thị năm nay tuổi vừa đôi chín. Nàng buôn bán rất giỏi, không bị thua lỗ mấy khi, lại thêm có sắc đẹp mặn mà, ăn nói có duyên, nhưng phải cái lẳng lơ… Đổng ông đến tận cửa hiệu trà của cha Dương thị để thử thách và quan sát. Ông rất hài lòng về tài buôn bán của Dương thị nên đánh tiếng hỏi nàng cho con trai. Về phần Đổng Nhơn thì phải đi xa luôn có khi đôi ba tháng mới về nhà nên cũng không rõ tính tình Dương thị nay đi xem mặt thấy đẹp liền chịu ngay. Thế là đám cưới đôi trẻ được cử hành trọng thể ít tháng sau. Về làm dâu họ Đổng, Dương thị biết tỏ ra cung kính bố mẹ chồng rất mực, khiến Đổng ông rất hài lòng. Sau tuần trăng mật, Đổng Nhơn lại lên đường đi buôn bán nơi xa. Dương thị ở nhà thức khuya dậy sớm đốc thúc gia nhân chăm lo mọi việc khiến nhà trọ thiệt là sạch sẽ, khang trang. Lại thêm nàng xinh đẹp, nói năng dịu dàng, đôi môi hồng tươi thắm luôn luôn nở nụ cừơi duyên, đôi mắt phượng đa tình như thu hồn đám mày râu làm cho khách hàng hầu hết là chủ đò và tay buôn xuôi ngược trên sông này kéo đến xin ngủ trọ rần rần. Tuy vậy cũng chưa có chuyện gì đáng tiếc xảy ra một phần vì Dương thị mới về nhà chồng được ít tháng còn bỡ ngỡ, phần khác vì Đổng ông tuy già mà còn tráng kiện cứ sục sạo đi ra đi vô luôn chẳng chịu ngồi yên một chỗ. Thấy Dương thị được việc lại không có điều tiếng chi Đổng ông thường bảo vợ rằng: - Nhà ta có phước mới được đứa dâu như thế. may cho mình không nghe lời gièm pha của thiên hạ. Nều không thì hối hận biết bao. Sự tin cậy của bố chồng đối với nàng dâu ngày càng gia tăng đến độ một hôm Đổng ông vui vẻ biểu Dương thị: - Ta thấy con đảm đang ngaon nết lại bặt thiệp nghĩ mà mừng cho thằng Nhơn, nên định trao hết tiền bạc và sự trông coi nhà ngủ này cho con, trước là để ta sớm được di dưỡng tuổi già sau là để con tập cho quen công việc lúc ta còn khỏe mạnh có thể chỉ bảo cho. Nói rồi ông đưa hết chìa khóa các tủ để sổ sách, và két đựng bạc vàng châu báu cho Dương thị. Ông lại dời phòng riêng về phía cuối ở cách biệt hẳn một góc và cho Dương thị thay thế ông dậy mở cửa đêm hôm cho khách tới lui. Ông già còn cẩn thận dặn con dâu quý: - Con đừng e sợ chi hết. Vùng này nghiêm lắm chẳng có trộm cướp bao giờ vì vậy ta chẳng nuôi chó vả lại cũng ngại nó rượt cắn khách thì phiền. Tuy vậy để đề phòng gia nhân biến tính dòm ngó đồ đạc của khách trọ ta đuổi chúng sang ngủ ở phía đầu vườn đằng kia mỗi khi dọn dẹp xong và chỉ được lên nhà buổi sáng khi ta gọi mà thôi. Được vô cùng cảm động lại càng ra công làm việc gây dựng cho giang san nhà chồng ngày thêm bề thế. Nhưng sự vắng nhà thường xuyên của Đổng Nhơn và sự tín nhiệm quá mức của Đổng ông đối với con dâu đã tạo nên hoàn cảnh thuận tiện cho sự sa ngã của Dương thị. Trong đám trai tứ chiếng tới lui nhà ngủ có tên chủ đò Tôn Khoan bảnh trai, mạnh khỏe lại khéo mồm mép thường hay chuyện vãn, đùa rỡn với Dương thị. Hai người rất hạp ý nhau. Rồi thì việc phải đến thì đến: Tôn Khoan và Dương thị vụng trộm ân ái với nhau. Là đứa xảo quyệt, Tôn Khoan chờ khuya mới lỏn vô phòng riêng Dương thị tới sáng sớm lại dông xuống đò. Y lại thận trọng dùng lối tắt đi qua vườn sau nhà trọ. Khoảng vườn này tiếp giáp với con đường mòn chạy sát hàng rào, dẫn ra tới bờ sông. Tuy nhà trọ không nuôi chó nhưng khách trọ không ai ưa dùng lối tắt này vì ngại phải đi ngang cầu tiêu ở cuối vườn. Ban đem lại càng không có ai lai vãng sợ e vấp ngã hay sẩy chân té xuống giếng sâu ở giữa vườn. Lúc đầu Dương thị còn tỏ ý lo ngại vì người ta bắt gặp nhưng Tôn Khoan đã khôn ngoan chặn ngay: - Em khỏi lo. Anh đã xem kỹ địa thế rồi. Dùng lối qua vườn không ai trông thấy vì nhà trọ này hình cánh cung. Phía giữa làm nhà ngủ cho khách, vợ chồng Đổng gia ở tuốt phía Đông. Căn nhà dành cho gia nhân thì đâu lưng lại khỏan vườn còn phòng em thì ở tận phía này là phía Tây lại không có cửa thông qua vườn anh ra vô đều qua cửa sau nhà trọ mở ra vườn. Giả tỉ có ai trông thấy đi nữa, họ cho là vì đò đến bến muộn sáng lại đi sớm nên anh thấy lối sau tiện thì đi cái đó là sự thường mà. Dương thị vẫn chưa hết thắc mắc liền kéo Tôn Khoan lại gần cửa sổ thấp có chắn song ở ngay đầu giường nằm của vợ chồng Dương thị và nũng nịu nói: - Thế anh quên là ở phía này chỗ cuối vừơn nhằm bên hông nhà mụ Tư già có cái cửa sổ nhỏ trông ra vườn nhà ta đó sao? Tôn Khoan vỗ về Dương thị mà rằng: - Em lo xa quá rồi. Mụ ấy già rồi còn đâu hơi sức mà đi dòm ngó chuyện người khác. Vả lại đên tối làm sao nhận ra mặt anh mà em ngại. Để cho khỏi bị nghi ngờ, anh sẽ nói là không ghé bến ban đêm nên không có lên nhà trọ. Phần em cũng cứ nói vậy. Thế rồi từ đó, cứ mỗi kỳ đò, hai đứa lại lén lút gặp nhau thấm thoát đã được nửa năm mà trong nhà Đổng ông chẳng ai hay biết gì. Phải, người trong nhà chưa tỏ nhưng ngoài ngõ có một người hay biết. Người đó chẳng phải ai xa lạ, chính là bà Tư già vậy. Số là đôi gian phu dâm phụ cứ yên trí không ai có thể biết được hành vi ám muội của chúng nên chẳng giữ ý chi nữa và mỗi lần mở cửa ra vườn cho Tôn Khoan lỏn đi, Dương thị lại đốt đèn soi cho khỏi té khi bước xuống thềm. Một đêm nọ trời nóng nực oi ả nhưng đêm canh tư thì trở lạnh như muốn mưa. Vì già không chịu nổi sự thay đồi đột ngột của thời tiết, bà Tư liền ngồi dậy ra đóng cửa sổ lại, thời bắt gặp Dương thị soi đèn cho Tôn Khoan ra đi. Trông điệu bộ hai đứa, bà Tư lẩm bẩm “Đờn bà chi mà kỳ vậy”. rồi từ bữa đó bà Tư bắt đầu để ý đến hai người. Cứ đêm nào tiếng chó trong xóm sủa từ xa lại gần thì một lát sau bà Tư nghe tiếng chân người từ phía rào sau nhà trọ đi về phía cửa sổ đầu giường Dương thị rồi trở lại phía có cửa nhà trọ thông ra vườn. Và sớm hôm sau lúc gà vừa gáy lần đầu bà dòm ra thì lại thấy Dương thị đốt đèn đưa Tôn Khoan ra vườn đi mất dạng. Bà Tư nghi hai đứa thông dâm với nhau nên một bữa gặp Tôn Khoan ở chợ, bà hỏi liền: - Mạnh giỏi chớ Khoan? Chà lâu không thấy mày đến nhà trọ của Đổng ông. Bữa nọ tao tính nhờ mày mua ít thứ ở miệt xuôi, tao ghé hỏi Đổng ông thì được biết đã mấy tháng nay mày không đến trọ nữa. Thế mày trọ ở đâu Khoan? Tôn Khoan cười đáp: - Dạo này cháu không hay ghé bến này nên không đến nhà trọ nữa bác ạ! Bà Tư buông một tiếng “Thế à” mắt nhìn cây đoản đao chắc làm bén lắm mà Khoan luôn luôn giắt bên hông như các đồng nghiệp khác. Bất giác bà rùng mình nghĩ đến sự hung ác tàn bạo của các tay anh chị ngược xuôi trên dòng sông kiếm ăn, sẵn sàng hạ thủ những ai dòm ngó cản trở công việc của họ. Bà liền quay lưng đi. Tôn Khoan nhìn theo mỉm cười lẩm bẩm: - Xem ra mụ già có vẻ tin lời ta nói. Càng tốt. Khỏi lo. Nhưng Tôn Khoan đã lầm vì có lẽ hắn chưa biết rằng người già cả có bao giờ chịu tha các chuyện làm đồi phong bại tục. Cho nên đi được một quãng xa nhân gặp một chủ đò lớn tuổi mà bà quen biết, bà Tư giả bộ hỏi thăm về Tôn Khoan. Người này tình thật khai ra: - Thằng Khoan vẫn ghé bến nhưng không lên vào buổi chiều. Tối đến y vẫn lên bờ ngủ. bà cần chi cứ cho người ra bến đò mà kiếm hay lại nhà trọ mà hỏi. Bà Tư vội đáp: - Không cần chi, tôi hỏi thăm vậy thôi. lâu không gặp nó tôi tưởng nó bỏ đi làm ăn nơi khác rồi. - Không có đâu, thằng ấy có mua nhà cửa đàng hoàng ở thôn Nam cách đây 10 dặm, không khi nào nó lại dời đi đâu nữa. - Thằng đó có tính chuyện vợ con chi không mà sao nó cứ lông bông hoài vậy? - Ui chà, hơi đâu mà lo cho nó. Thôi chào bà Tư nhé, tôi đi kẻo lỡ việc. Bà Tư đáp lại lời chào rồi lầm lũi đi thẳng, lòng tin chắc là Dương thị và Tôn Khoan có tư thông với nhau. Bà muốn đến nhà trọ nói cho Đổng ông nghe nhưng lại thôi vì ngại Tôn Khoan thù oán: bà có đứa con trai út ở xa lâu lâu lại đáp đò về thăm bà một lần. Bà sợ Tôn Khoan để tâm làm hại con bà. Lại nói về Tôn Khoan ngay đêm bữa gặp bà Tư già, hắn có kể lại câu chuyện cho Dương thị nghe. Vợ Đổng Nhơn cười khúc khích nói: - Anh mưu mẹo lắm. - Chớ sao. Thôi từ nay khỏi lo sợ chi nữa nhé. Chuyện tụi mình kín như bưng khỏi lo đổ bể. Nói vậy thôi chớ cách 10 hôm sau, một đêm, Tôn Khoan và Dương thị, hai đứa cũng vẫn bị một phen hoảng sợ. Lần đó, Tôn Khoan quen lệ lần trong bóng tối vô vườn nhà trọ. Hắn lò dò đến cửa sổ thấp ở đầu giường Dương thị rồi theo thường lệ luồn bàn tay lạnh ngắt qua chấn song cửa, toan kéo gối đánh thức Dương thị dậy ra mở cửa cho hắn vô. Ai dè hắn sờ đúng mặt Đổng Nhơn khiến anh này đang mơ màng giấc điệp choàng dậy la làng chói lói kêu có rắn hổ mang chung vô giường mình! Tôn Khoan rụng rời rút vội tay ra rồi nhanh chân lẩn vào bóng đêm chuồn về đò nằm nín khe. Dương thị nghe chồng la tỉnh dậy hiểu ra ngay cơ sự, thị liền bịt mồm chồng kéo nằm xuống và nói mau: - Anh chớ la hét vùng vẫy rắn nó chết. Anh ráng nằm im một lát cho nó bò đi đã nào. Đổng Nhơn nghe vậy lại càng sợ, lắp bắp hỏi vợ: - Mình… mình xem hộ nó đã cắn lủng cổ anh chưa? Dương thị bật cười vuốt má chồng đáp: - Nếu có cắn lủng cổ anh thì anh đâu còn sống mà hỏi. Miệng nói, vợ Đổng Nhơn vẫn lắng tai nghe tiếng chó sủa mỗi lúc một xa dần. Biết là Tôn Khoan đã chạy thoát, thị bèn ngồi dậy đốt đèn cầy làm bộ rũ giường chiếu và lấy gậy khua quanh gầm giường. Nhìn Đổng Nhơn mặt mày xanh lét ngồi co hai chân trên ghế, Dương thị thấy chồng đáng ghét lạ. Thị lầu bầu nói: - Khi không nhảy choàng về nhà sớm năm bữa rồi lại còn sanh giặc. Đổng Nhơn nghe không rõ, cất tiếng hỏi: - Mình nói sao? Dương thị bực mình gắt: - Nói cha nội đi ngủ đi. Nó chạy thoát ra đến sông rồi cng loã tang vật không có, chứng cớ cũng không, sao Vệ Điển dám bảo tôi đánh cướp nhà y được? Bao Công ngạc nhiên nhìn Tử Thừa bụng nghĩ thầm: - Aùi chà, đụng phải tên này coi mòi lý sự khá lắm. Nó đã nói thế mình phải tìm cho ra. Để hỏi Vệ Điển xong rồi mới lập kế sau. Nghĩ vậy Bao Công truyền lính đưa Tử Thừa ra ngoài sân rồi cho gọi Vệ Điển vào mà hỏi rằng: - Nhà ngươi cáo Tử Thừa có dự vào cuộc đánh cướp đêm rồi. Chẳng hay ngươi có căn cứ vào đâu mà buộc tôi hắn như vậy? Vệ Điển vội trả lời: - Thưa Thương quan, Tử Thừa không có nghề nghiệp lương thiện, đã không làm ruộng mà cũng chẳng buôn bán lại còn chức côn đồ cờ bạc suốt ngày. Như vậy nhà y hẳn là ổ trộm cướp, xin quan tra xét rõ gian ngay. Bao Công suy nghĩ một lát rồi phán rằng: - Sự nghi ngờ của nhà ngươi hợp lý lắm. Tử Thừa không lo làm ăn lại chuyên cờ bạc, mà thói thường hễ có cờ bạc là sanh lắm chuyện: trộm, cướp, bậy bạ đủ điều. Chính ta cũng nghĩ như thế. Tuy nhiên đạo tặc là việc hệ trọng nay chứng cớ không có, tang vật cũng không, đồng loã cũng chẳng bắt được nốt thì lấy đâu mà cứu vấn. Thôi ngươi đi về đi. Lần sau không được tố cáo bừa bãi ngư vậy nữa nghe không? Vệ Điển vái chào, tiu nghỉu lui ra. Bao Công cho đòi Tử Thừa vô và vỗ án mắng rằng: - Cớ sao nhà ngươi không chịu lo làm ăn đàng hoàng lại quy tụ côn đồ, rượu chè, cờ bạc sáng đêm tối ngày như vậy? Nay ta truyền cho nhà ngươi phải lập tức lo cải nghiệp làm ăn, lần này ta tha cho nếu còn tái phạm sẽ bị trừng trị nghe không? Tử Thừa sợ xanh mặt chắp tay vái vội Bao Công rồi lủi nhanh như cắt ra khỏi công đường như sợ Bao Công thay đổi ý kiến vậy. Hai người đi khỏi, Bao Công lắc đầu lẩm bẩm: - Chắc Vệ Điển oán hờn ta lắm. Nhưng không dùng mưu kế làm sao tra ra thủ phạm được? Bọn cướp khôn ngoan đâu có dại gì để lại bằng chứng. Nếu vụ nào cũng có bằng chứng sẵn thì triều đình đặt quan để làm gì? Nghĩ vậy, Bao Công sai thám tử đi dò la khắp nơi. Nhưng ông cũng không thâu thập được tin tức, bằng chứng gì khả dĩ khép tội tử Thừa được. Trái lại theo tờ trình của thám tử thì Tử Thừa ngay sau khi được tha về đã tức tốc dẹp nghề gá bạc, lo cải nghiệp buôn bán làm ăn đàng hoàng lắm. Bao Công bực tức lắm, tự bảo: - Hừ, bọn cướp nhà Vệ Điển khôn ngoan thiệt. Phải làm cho chúng tin là ta chịu bó tay, bỏ qua vụ này, để chúng yên trí không giữ ý đề phòng nữa mới có thể núm đầu trọn ổ được. Bao công suy nghĩ hồi lâu rồi kêu viên thơ lại đem hồ sơ vụ cướp nhàVệ Điển vô. Bao Công cầm bút phê chữ “bỏ” to tướng trên lá đơn của Vệ Điển và giả bộ lắc đầu bảo rằng: - Vụ này không tra ra tang tích, thôi xếp bỏ cho được việc. Thơ lại đi khỏi, Bao Công mật thám tử thân tín vô dặn nhỏ một hồi. Lát sau, dân chúng nội ngoại thành đều đồn đãi ầm ỹ là Bao Công chịu không tìm được bằng chứng nên bỏ qua không xét vụ cướp nhà Vệ Điển nữa. Bọn cướp bắt được tin này mừng rỡ nhưng dè dặc cho người dọ hỏi nơi các thơ lại cho chắc ăn. Khi được biết tin đích xác là Bao Công đã phê bỏ không xét lá đơn của Vệ Điển thời chúng cả cười hẹn nhau đêm sau hội tại miếu Thành Hoàng ở giữa đồng đặng mở tiệc ăn mừng và phân chia tiền bạc đã cướp được nơi nhà Vệ Điển. Lại nói cề Bao Công từ bữa không tìm ra dấu tích gì về bọn cướp thời bực mình lắm, cứ đêm đêm ông giả dạng làm thường dân theo một thám tử, lẻn ra khỏi phủ, đi dò la khắp chốn có khi đến gần sáng mới về. Đến đêm đã hẹn, bọn cướp tề tựu đông đủ tại miếu vật heo lễ tạ Thành Hoàng. Khu thờ Thành Hoàng gồm có một ngôi nhà giữa để làm nơi thờ phượng và hai trái thường gọi là trái đông và trái tây để các chức việc và dân làng tụ hội tế lễ. Miếu này không có thủ từ và lại ở giữa cánh đồng vắng vẻ nên bọn bất lương thường hay lui tới tụ họp. Cúng quả xong xuôi, chúng hạ lễ vật xuống bưng ra sân. Hai tên coi bộ sừng sỏ nhất tiến lên trước mặt bọn cướp rồi một tên dõng dạc tuyên bố: - Hai ta là Thiết Mộc Nhi và KimĐôi Tử, tuy vẫn đứng đầu hai đảng riêng biệt nhưng thường hiệp tác với nhau. Bữa nọ cướp nhà Vệ Điển, quan quân tra ra không nổi, vậy kể là đa thành công nên bữa nay có bữa tiệc rượu này khao thưởng anh em, tiền bạc sáng mai sẽ phân chia làm 2 phần.Phe của đại ca Thiết Mộc đây có 28 người còn phe Kim Đôi Tử này chỉ có 22 người vậy phần của thiết đại ca được nhiều hơn. Bây giờ anh em chia nhau lễ vật này để chúng ta cùng ăn uống cho no say. Cứ tính đầu người phát phần, đừng có tranh giành nhau, nhe? Bọn cướp dạ ran xúm lại chia phần. Phe Thiết Mộc Nhi chọn trái Tây làm nơi thiết tiệc còn phe Kim Đôi Tử kéo nhau sang trái đông đánh chén. Hai bọn cướp đốt đèn cầy sáng choang, ăn nhồm nhoàm, uống ừng ực, cười nói ồn ào, không cần giữ ý chi nữa. Trong đám bọn Thiết Mộc Nhi có một tên gầy ốm,lắm mưu nhiều kế lại có óc châm biếm sâu sắc, được đồng bọn tôn làm “quân sư”. Lúc tiệc đã gần tàn, hơi men đã thấm, tên “quân sư” này mới đứng dậy cất tiếng nói lớn: Thưa đại ca (chỉ Thiết Mộc Nhi) vàchư huynh. Tôi mạn phép đề nghị với đại ca và anh em nâng ly mừng một ân nhân của chúng ta. Bọn côn đồ nhao nhao hỏi: - Ai? Ai? Phải nói tên ra trước đã. Tên “quân sư” cả cười đáp: - Thì cứ châm cho đầy rượu rồi nâng ly lên, nghe được thì cạn chén bằng không thì thôi, có sao? Những tiếng “đồng ý” “được được” vang lên tứ phía. Rồi trong lúc bọn cướp tranh nhau rót đầy các ly rượu thì Bao Công đi thám sát cũng vừa tới khu miếu Thành Hoàng. Thấy hai trái Đông Tây đèn đuốc sáng choang lại nghe có tiếng ồn ào, Bao Công ngạc nhiên bảo nhỏ thám tử theo hầu: Bữa nay không cúng tế cho sao có người tụ đông đảo vậy? Không đợi thám tử trả lời, Bao Công khoát tay làm hiệu cho thuộc hạ theo mình ra phía sau trái Tây để nghe ngóng. Nhòm qua lỗ thủng ở vách nhà, Bao Công rõ tất cả bọn Thiết Mộc Nhi. Giữa lúc ấy, tên “quân sư” nâng ly rượu đế làm bộ mặt nghiêm trang nói lớn: Từ lâu anh em ta nghe đồn Bao đại nhơn là bậc thần minh nay mới rõ quả thiệt là danh bất hư truyền. Xin anh em nâng ly cầu chúc cho ngài sanh con cháu đầy đàn, đời nối nghiệp quan để trấn giữ thủ này hoài hoài đặng bọn mình dễ dàng thong thả làm ăn, khỏi phải lo sợ. Nào ta cạn chén! Cả bọn nâng ly nốc thẳng một hơi. Tên “quân sư” mặt tỉnh khô, chậm rãi ngồi xuống. Bọn cướp đa số đều kém thông minh, chưa hiểu ngay ra tính chất hài hước của lời nói đó nên vẫn ngồi yên. Chừng có tên sáng ý hơn rỉ tai cắt nghĩa chúng mới hay liền phá ra cười ầm ĩ: đứa thì bò ra chiếu mà cười, đứa thì lăn đùng ra đất vừa cười vừa giãy đành đạch, lại có đứa miệng cười ha hả tay đấm vào đùi bạn liw6n hồi, cũng có đứa ôm lấy cột nhà hay gục vào lưng bạn mà cười như bò rống. Bao Công đứng sau nhà lẩm bẩm: - Ừ thì nó nói mong mình như vậy ccũng chẳng làm chi ba cái điều đó. Nhưng tai sao nó lại nói khỏi phải lo sợ. Thôi nó nói xỏ xiên mình rồi. Chắc là bọn này đã cướp nhà Vệ Điển, nay thấy ta không tra ra, chúng cho ta là gà mờ nên mở tiệc ăn mừng và giễu cợt ta chơi. Xem kiểu cách chúng thế kia và lối sắp đặt trong nhà này hẳn nơi đây là ổ xuất phát của chúng đi đánh cướp các nơi. Mai sớm trở lại bắt còn kịp, bây giờ ta qua xem bọn bên kia ra sao. Nghĩ vậy, Bao Công cúi xuống lượm viên gạch non viết lên tường ba chữ “tiền” lớn rồi bấm thám tử rút êm qua trái Đông dò xét. Bao Công, tới nơi thì vừa kịp nghe một tên mập lùn, trong bọn Kim Đôi Tử nói lớn: - Thưa chư huynh, đệ ông Thành Hoàng làng này linh và Thiết Diện đại nhơn (chỉ Bao Công) tốt thiệt là là la øtốt! Anh em ta có phước lắm mới gặp được người như ổng. Nếu là vị khác tất chúng ta chẳng khỏi phiền não. Không thấy đứa nào phá ra cười mà chỉ thấy chúng gật gù mà thôi. Bao Công nhìn kỹ lại thì ra bọn cướp đều say bét cả rồi. Ngoại trừ tên vừa nói còn say vừa vừa chớ 21 tên khác ngồi cũng không vững nữa cứ đảo lia đảo lịa như người lên đồng. Thậm chí có đứa đã phục bên mâm rượu ngủ vùi. Bao Công lẩm bẩm: - Y nói thế là làm sao? Vì lẽ gì nó nói nếu chẳng phải ta trị nhậm phủ này thì bọn y sẽ bị phiền não? Hừ, lạ thiệt. Bên kia 28 đứa bên này 22 đứa, vị chi là 50. Thôi phải rồi, đây là bọn cướp nhà Vệ Điển. Chúng say mèn thế này chờ sáng ra bắt còn kịp chán. Bao Công liền móc túi lấy tiền treo trên vách làm dấu để mai sớm bắt cho trúng. Xong xuôi, Bao Công ghé mắt nhìn qua kẽ vách lần nữa để nhận diện vài tên cướp. Bỗng ông quay phắt lại rồi hấp tấp chạy mau ra cánh đồnga1Tha1m tử theo hầu chẳng hiểu chuyện chi cũng hoảng hồn co giò rượt theo quan. Chạy gần được một trăm bước, thám tử thấy Bao Công dừng lại: tuy Bao Công đã ấn cả tay áo vào miệng mà thám tử cũng nghe bốn năm tiếng “phì, phì” như có trăn lớn phun nọc vậy. Thì ra Bao Đại nhơn nhẩy mũi! Chợt nhớ tới cái tật của Bao Công hắt hơi vang mấy gian nhà, Viên thám tử thở phào sung sướng, lấy vạt áo lau mồ hôi trán, miệng lẩm bẩm: - Hú vía. May mà ngài nhanh trí tháo lui gấp gấp nếu nhè lỗ nhĩ mấy chục tên vừa rồi mà làm đùng đùng mấy phát như đại bác thần công thì có mình cũng hết hy vọng trông thấy mặt vợ con. Hai người lặng lẽ bước theo nhau về nhà nghỉ. Sáng hôm sau.Bao Công cho sửa lễ vật giả bộ lên yết miếu Thành Hoàng. Ông cho kiểm hơn trăm binh mã và ra lệnh nhắm thẳng miếu Thành Hoàng tiến phát. Quan quân rầm rộ kéo đến nơi thì trời vừa sáng rõ mặt người. Bao Công giữ lại cho mình hai chục lính khẻo mạnh, giỏi võ còn bao nhiêu ông cho chia ra bố trí, bao vây tứ phía. Mọi người ai vào việc nấy xong xuôi. Bao Công lững thững tiến đến trước miếu, hai bên có lính gươm giáo sáng loà theo hộ vệ. Lúc đó trong bọn cướp đã có đứa dậy rồi. Chúng thấy quan quân kéo đến liền kêu đồng bọn: - Anh em ơi, quan đến lễ miếu Thành Hoàng, mau mau cất giấu khí giới đi kẻo quan vô hỏi ta khó trả lời đó, nghe. Ở miếu ra, Bao Công tiến sang căn nhà phía Tậy, thấy đúng ba chữ “tiền” ông viết hồi đêm, liền truyền lính vô bắt trói phe đảng của Thiết Mộc Nhi gồm 28 mạng. Đoạn ông qua phía Đông thấy còn đồng tiền treo nơi vách biết là đúng địa điểm rồi, bèn túm trọn ổ 22 người của Kim Đôi Tửu1Li1nh lục soát khắp nơi thấy được vũ khí của bọn cướp. Bao Công truyền áp giải 50 tên cướp về nha. Phe Thiết Mộc Nhi và phe Kim Đôi Tử, mỗi phe bị giam một nơi. Lát sau, Bao Công cho dẫn bọn Thiết Mộc Nhi tới công đường xét hỏi trước. Bao Công nhìn mặt từng tên nào là đầu đảng nên đành nói đổng lên rằng: - Tụi bay đã không chịu làm ăn lương thiện lại còn hiệp đảng đánh cướp nhà Vệ Điển. Mau khai cho thiệt đừng để ta phải nhọc lòng tra hỏi. Thiết Mộc Nhi ra bộ hạ đều lặng thinh không trả lời. Bao Công cười gằng nói tiếp: - Tụi bây gan thiệt. Lính đâu đem đồ tra tấn ra đây. Lính hầu dạ ran rồi khiêng ra la liệt trước công đường đủ thứ cực hình: Kìm kẹp, dùi sắt nung đỏ,còn gỗ, roi song v.v… Bọn cướp vẫn đứng như tượng gỗ. Bao Công xô ghế đứng dậy,và tới trước mặt tên “quân sư” đã nói đêm qua. Ông chỉ tay vào ngựa tên này mà quát rằng: - Muốn ta ở đây lâu dài cho thong thả làm ăn, cớ sao còn đi ăn cướp? Có cướp nhà Vệ Điển không? Nói mau. Tất cả sợ xanh mặt tưởng Bao Công biết rõ hết nên đứa nọ nhìn đức kia nhớn nhác như gà gặp cáo. Riêng tên “quân sư” sợ hãi, run lẩy bẩy, lắp bắp đáp: - Dạ…dạ… thưa có ạ. Tên “quân sư” không dám nói mà chỉ liếc nhìn Thiết Mộc Nhi. Bao Công nhanh ý nhận ra ngay, liền trỏ Thiết Mộc Nhi mà quát lớn: - Lính đâu,lôi tên đầu đảng này ra tra tấn cho ta xem nó còn gan lì được nữa không? Bọn cướp thất kinh thi nhau khai bằng hết và tố cáo luôn cả bọn Kim Đôi Tử. Bao Công biểu một tên đi theo lén chỉ mặt bọn Kim Đôi Tử cho ông rõ. Đoạn. Bao Công truyền tống giam trọn ổ Thiết Mộc Nhi vào ngục thất rồi cho giải bọn Kim Đôi Tử vào. Cũng như trước, 22 tên này chẳng chịu khai một lời. Bao Công quắc mắt nhìn suốt lượt và nói: - Thành Hoàng làng linh thiệt là linh, còn ta đây tốt thiệt là tốt. Muốn khỏi bị phiền não thời bọn ngươi phải làm ăn lương thiện chớ sao lại đi ăn cướp nhà Vệ Điển như vậy? Thấy bọn Kim Đôi Tử tái mặt lấm lét nhìn nhau, Bao Công đánh một đòn quyết liệt: - Tụi bây đừng chối cãi vô ích. Chính bọn Thiết Mộc Nhi đã cung khai hết rồi. Biết điều thì thú tội ngay đi chớ để ta phải mất thì giờ tra tấn. Rồi Bao Công chỉ mặt Kim Đôi Tử mà hỏi lớn rằng: - Kim Đôi Tử! Mi có nhận tôi không? Tên đầu đảng mặt tái mét, run rẩy thú nhận hết nhưng cũng trút lỗi phần lớn cho Thiết Mộc Nhi. Bao Công hỏi cung suốt lượt xong phán rằng: - Lính đâu, để Kim Đôi Tử lại đây và đem tụi này hạ ngục cho ta. Khi lên thì áp giải Thiết Mộc Nhi trở lại có việc mau. Lát sau, Bao Công cho một toén lính dẫn hai tên đầu đảng về khu miếu Thành Hoàng chỉ chỉ chỗ chúng cất giấu của cải. Quân lính đào lên đem về nha, tất cả bạc vàng châu báu mà bọn cướp đã lấy được của Vệ Điển. Vệ Điển được gọi đến, nhìn nhận đúng là của cải bị mất cướp nên được lãnh về. Đoạn Bao Công lấy bút mực viết án tuyên xử Kim Đôi Tử và Thiết Mộc Nhi phải bị phạt tử hình, chém bêu đầu giửa chợ. Còn 48 tên bộ hạ đều bị lưu đày qua xứ khác.