- Bên giường mấy nỗi dặn-dò,Phu-nhân nghĩ-ngợi thêm hồ-nghi ra.Cùng nhau bàn mảnh trong nhà,Xuân-Hương mách-lẻo trình bà phu-nhân:"Chuyện này xin chớ ngại-ngần,"Tôi đà tỏ hết nỗi gần nỗi xa."Cũng vì có một chiếc thoa,"Kẻ bâng-khuâng nhớ, người ngờ-ngẫn thương."Hai phòng bệnh cũng một đường,"Mê rồi lại tỉnh, mơ-màng lăng-nhăng."Vả xem những tiếng trối-trăng,"Kẻ rằng chính bắc, người rằng chính nam."Chuyện này để vậy chưa cam,"Xin dò nhắc lại xem làm sao đây."Theo Vân-thư mới đi ngay,1850.- Phen này quyết tỏ lòng này cho ai.Lẳng-lơ đứng trước thư-trai,Đem thơ tiễn-biệt Trùng-đài đọc chơi.Mục-Vinh nghe vẳng bên tai,Bằng dường xét đánh lưng trời bỗng đâu.Gọi vào, hỏi trước, hỏi sau,Mỉm cười, Hương mới kể đầu, kể đuôi.Nỗi nàng mách hết rạch-ròi:"Khi thần đưa đến, khi người bắt nuôi."Trộm thoa, tội ấy về tôi,1860.- "Khiến trong nhìn nhận, để ngoài xót-xa."Mấy câu tôi đọc bây giờ,"Thơ này bắt được với thoa một lần."Làm khuây, xin hãy tỉnh dần"Đã đành tài-tử, giai-nhân một nhà."Vả ông tôi dặn trong tờ,"Đinh-ninh dành gả tiểu-thư cho chàng,"Bây giờ gặp nghĩa cũ-càng,"Chẳng hay duyên mới có mang-mể cùng?"Sinh rằng: "Muôn đội ơn lòng,1870.- "Nỗi bà trân-trọng, nỗi ông yêu-vì."Ví bằng được hẳn thế thì,"Duyên sau nghĩa trước, hai bề vẹn hai."Bỗng như nói nói, cười cười,Mười phần bệnh, phỏng còn vài bốn phân,Xuân-Hương tức-tốc dời chân,Tình đầu bạch với phu-nhân bấy giờ.Lại vào bảo thực Hạnh-thư:"Mục-Vinh ngoài ấy, ấy là Mai-sinh."Hạnh-Nguyên nghe rõ thực tình,1880.- Cất quang-quảng bệnh, nhẹ thênh-thểnh người.
- Cho hay những bậc sắc tài,Thảm vì tình lắm, lại vui vì tình.Phu-nhân chọn được ngày lành,Mới truyền dọn-dẹp, mời sinh vội-vàng.Sửa-sang cuộc rượu hai bàn,Cách rèm làm lễ truy-hoanmột nhà.Hạnh-Nguyên quốc-phục như xưa,Khoác mành-mành, mới bước ra hỏi chàng.Rõ mười còn tưởng mơ-màng,1890.- Mừng mừng, tủi tủi, khóc than một hồi.Khóc rồi kể lể đầu đuôi:Nỗi trên núi nhạn, chuyện ngoài ải mây.Chết thừa sống thiếu là may,Bên kia quan gặp, bên này thần đưa.Bèo trôi, sóng vỗ đến giờ,Kẻ sang Châu-phủ, người nhờ Phùng-công.Biết bao nhiêu chuyện đau lòng,Xuân-sinh lưu-lạc, Sơn-đông cách vời.Một phen nói, một bồi-hồi,1900.- Bâng-khuâng cố-quậnngậm ngùi thiên-lao.Phu-nhân khuyên-giải thấp cao,Cùng thôi nước mắt lại vào tiệc hoa.
- Tin Kinh bỗng thấy đưa ra:Châu-công thăng chức hiệu là Thị-lang.Chỉ ban về lễ từ-đường,Chàng ra mười dặm đình-trường đón xa.Ngó trông rợp bóng quan-hà,Thẻ bài phụng-chỉ ngọn cờ vinh-hương.Giáp nhau ông đã gặp chường,1910.- Song song đôi ngựa trỏ đường cố-gia.Thu quân hồi trống vào nhà,Trên yên vách phấn, cắm cờ giá son.Vào trong thong-thả ôn-tồn,Một nhà thầy, tớ, vợ, con lạy mừng.Trong nhà nhộn-nhịp, tưng-bừng,Âm-thầm thiều nhạc, lẫy-lừng tiệc hoa.Phu-nhân giả cách lơ-mơ,Truyền đòi đệ-nhất tiểu-thư ra hầu.Ông rằng: "Khéo lẽ dối nhau,1920.- "Hiếm-hoi một gái lấy đâu nhất nhì?"Hạnh-Nguyên ra trước lạy quì,Nỗi nàng bà kể mọi bề gian-truân:"Nghĩ rằng xa, chẳng là gần,"Ai hay con gái bác Trần Đông Sơ!"Tơ đào nghĩ những bao giờ,"Nhân-duyên sớm định về nhà họ Mai."Hôm xưa lắm chuyện nực cười,"Kẻ trong nhận của, người ngoài mất thoa."Hai buồng gang tấc nên xa,1930.- "Thất tình bệnh đã hóa ra mấy ngày."Tỏ ra mười mấy hôm nay,"Bên kia nhận vợ, bên nây nhận chồng."Ông nghe thấu hết sự lòng,Cả cười, mới dạy rằng: "Trong đạo trời."May ta gặp cả hòa hai,"Trọn tình bè-bạn, được người thi-thư."Nghĩ chăng, dở một nỗi nhà,"Tính vào thế ấy, hóa ra thế này!"Bà rằng: "Tôi cũng nghĩ đây,1940.- "Xưa nay đôi quả một tay cũng nhiều."Vả trong hai ả tiểu-kiều,"Mười phần xem đã kính yêu cả mười."Bấy nay hình-ảnh chẳng rời,"Thờ chung quân-tử một người cũng nên."Mai-sinh nghĩa cả chưa đền,"Phỏng chừng ép-uổng cũng nên một lòng."Châu-công nghe nói thỉ-chung,Liền ra tiệc ngọc thư-phòng với sinh.Lòng chàng nghe đã tỏ tình,1950.- Lẽ nào giấu quẩn giấu quanh được rày!Thưa rằng: "Chút phận hèn ngây,"Bấy nay giả-dối, tội rày đã cam."Ông rằng việc tỉnh Hà-nam,"Bấy lâu cậy một tay làm biết bao?"Kinh-luân đã tỏ tài cao,"Thớ cong, rễ quánh, thủ dao long-tuyền."Hiếm-hoi chút gái vụng-hèn,"Nâng khăn sửa túi, xin yên phận nhờ."Sinh rằng: "Nguyệt lão xe tơ,1960.- "Nhân-duyên đã định Trần-gianhững ngày,"Làm chi bể ái vơi đầy,"Hạ-đườngdám lụy, tiếng này đến ai?"Vả con hổ phận bất tài,"Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông-sàng."Ông rằng: "Thôi chớ rẫy-ruồng,"Nhà Ngu xưa có Nga Hoàng, Nữ Anh."Trượng-phu dù quyết hẹp tình."Thẹn thay phụ tấm lòng thành lão nô."Chàng nghe lạy trước thềm hoa,1970.- Xưa còn gia-khách nay ra thân tình.
- Năm mây nghe chiếu rành rành,Thi hương, thi hội, thi đình một phen.Bàn rồi dường lẽ chưa yên,Chấp kinh cứ thực họ tên sao đành.Sổ dâng quán chỉ đại-danh,Quyển đề họ Mục, tên Vinh vào trường.Đua tài tỉnh thí, khoa hương,Bảng đầu đã rõ tên chàng Mục Vinh.Phủ Châu mừng-rỡ linh đình,1980.- Hết lòng sắm-sửa tiến Kinh cho chàng.Chân hề, giong-ruổi dặm tràng>Đứa đeo thơ túi, đứa mang rượu bầu.Mấy tuần gióng- giả vó câu,Tràng-an trông đã thoắt đâu tới gần.Tớ thầy tìm chốn chứa chân,Chờ ngày nhảy sóng, đợi tuần hóa long.Chen vai tài-tử, danh công,Kẻ toan bẻ quế, người hòng tung mây.Qui-mô trường-ốc ai xây?1990.- Chia khu thập đạo, rào vây bốn thành.Ba bề chín cửa thênh-thênh,Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu caoCậy tài sinh cũng xem sao,Vũ-môn ba đợt sóng đào xem khinh,
- Lại còn một nỗi Xuân-sinh,Khâu-Khôi đã đổi tính-danh những ngày.Hà-nam nhập bạ phen này,Đỗ hương cũng định ngày rày tiến Kinh.Mấy tuần vừa tới đô-thành,2000.- Trời kia xui-khiến hai sinh đỗ đầu.Cửa Phùng Đô-sát gặp nhau,Người tầm mẫu-cữu kẻ cầu ân-sư.Quân hầu vâng dặn vào thưa,Mời hai sinh hãy ngồi nhà nghênh tân.Kìa thì Mai, nọ thì Trần,Bâng-khuâng suốt buổi, tần-ngần giờ lâu.Khóc than kể hết chuyện nhau,Hợp tan mấy độ, trước sau mấy từng.Tỏ-tường chân tóc kẽ răng,2010.- Kẻ mừng chị sống, người mừng mẹ yên.Hay đâu Đô-sát Lạc Thiên,Chiếu theo chủ khảo cầm quyền chưởng văn.Biết đâu truyền gọi gia-nhân,Vâng lời ra quán nghênh tân đón vào.Phùng công mừng-rỡ xiết bao,Hai sinh kể hết tiêu-hao chuyện mình.Ông rằng: "Gác chuyện gia-tình,"Trường-quan, Cống-sĩ có hình hiềm-nghi."Ra ngoài hãy đợi trường kỳ,2020.- "Nhờ trời khi dễ việc gì cũng xong."Hai chàng bái tạ Phùng-cônpx;'>
- Buổi triều vừa rạng ngày mai,Hơn trăm sĩ-tử chực ngoài hành-langPhùng-công tâu án Lư, Hoàng,Phân-minh trạng chỉ, rõ ràng tờ cung,Đường hoàng xem hết thỉ-chung,2370.- Phán rằng: "Gian-tặc thông đồng bấy nay."Bá Cao oan-uổng thương thay!"Đông Sơ bỏ ngục, nào hay tội gì?"Cửu-trùng hạ chỉ tức thì:Họ Trần tha tội, lại về chức xưa.Mai-công oan khuất xót-xa,Chẳng hay con cái bây giờ còn ai?Phùng-công tâu trước mấy lời:"Chuyện ny chân, giả đèn trời xin soi."Trạng-nguyên ấy thực họ Mai,2380.- Mà Khâu Bảng-nhãn hẳn-hoi họ Trần.Phán rằng một cửa trung-thần,"Truyền cho hai gã vào sân đan-trì.Lễ rồi, trước điện đều quỳ,Bạch oan sẵn sớ tức thì dâng lên.Vua Đường xem hết sự duyên,Phán rằng: "Tung, Kỷ hại liền bấy lâu.Truyền đem chính-pháp bêu đầu,Trạng-nguyên Bảng-nhãn đứng đầu hai bên.Ban cho phục họ, phục tên,2390.- Cao minh muôn đội ơn trên chín lần
- Suy ra mới biết trời gần,Chính-tà một bụng, quỉ-thần hai vai.Gian-thần chưa chắc nẩy chồi,Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.Trung-trinh dẫu có mắc oan,Vẫn trơ cây cứng, không chồn gió lay.Về sau ngay lại ra ngay,Khỏi tuần hoạn nạn, đến ngày hiển-vinh.Lư, Hoàng thực đã đáng tình,2400.- Đem ra chính-pháp hành-hình một giây.Tan-tành thịt nát, xương bay,Nắng bêu mặt nịnh, đất rây máu tà.Chán lời kẻ lại, người qua:"Bây giờ thế ấy thuở xưa thế nào?"Trần-công ra khỏi thiên-lao,Ngọ-môn chực sẵn đã vào tạ ân.Phùng-công mừng-rỡ cố-nhân,Mời về tư-thất ân-cần thở-than.Rể con sum-họp một đoàn.2410.- Người than chuyện trước, kẻ bàn nỗi xưa.Nhớ-nhung kẽ tóc chân tơ,Gian-nan là mấy, nương-nhờ những đâu?Bao nhiêu tân khổbấy lâu,Giật mình đòi lúc, lắc đầu đòi phen.
- Khi nên mọi việc mọi nên,Chiếu trời đâu đã tốc truyền tới nơi.Định ngày ngự tế họ Mai,Phong làm Thái bảo dựng bài liệt-trung Trạng-nguyên với lại Trần, Phùng,2420.- Ban quyền Học-sĩ dự phần yếu thanh .Còn như Bảng-nhãn Xuân-sinh,Làm Đô-ngự-sử, quyền hành hạch tâuHọ Trần, họ Đảng, họ Khâu,Trật gia tam cấp đợi sau kén dùng.Vợ Mai-công, vợ Trần-công,Lại cùng Trần Hạnh, lại cùng Vân AnhPhu-nhân nhất phẩm cực vinh,Khen cho chữ nghĩa, chữ trinh một nhà,Vân Tiên với lại Ngọc Thư,2430.- Phẩm đề đệ-nhị, cũng là phu-nhân.Mai-công khai táng đến tuần,Hoàng-thân tế điện, triều-thần trợ nghi.Trạng-nguyên nhân tiện đường đi,Duyên đồ hộ-tống, về quê châu Thường.Lại ban tuần-thú bốn phương,Ấn vàng một quả, kiếm vàng một thanh.Một mình quyền được tiện hành,Thẳng tay nẩy mực, công bình cầm cân.Lại cho về việc đại tuần2440.- Hoàn-hôn ngự tứ nghênh thân một ngày.Lắng tay rõ chiếu năm mây,Hai chàng vào trước, lạy bày tạ ân.Xem ngày ngự tế đã gần,Cho tin báo trước tăng-nhân dọn chùa.Trạng-nguyên mặc áo thôi-ma,Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần.Điển-nghi khắp mặt triều-thần,Một tờ dụ-chỉ, ba tuần rượu hoa.Cột kết thái, trướng rủ là,2450.- Đèn gần chong sáp, đỉnh xa bay trầm.Trống tam nghiêm, nhạc bát âm,Mấy mâm sinh lễ mấy mâm tư thình.Sống trung-liệt thác anh-linh,Suối vàng thơm phách, mây xanh thỏa hồn.Đã đành trung hiếu nhất môn,Ơn vua nhuần gội, tiếng con rỡ-ràng.
- Tế rồi linh-cữu lên đường,Trạng-nguyên lĩnh ấn, gươm vàng ra đi.Tạ ân vào trước tâu quì,2460.- "Việc công đâu dám bận vì tình riêng."Tưởng khi lánh nạn băng miền,"Theo chân cậy có một tên Hỉ Đồng."Nghĩ trong thầy tớ xét công,"Mấy cơn nguy-hiểm, mấy vòng gian-nan."Tìm vào nhạc-phụ Hầu Loan,"Hay đâu cùng với quyền gian một lòng."Cũng toan bắt nộp lấy công,"Giả hình khi ấy Hỉ Đồng đỡ thay,"Rày nhờ rộng bước đường mây,2470.- "Ngậm-ngùi đạo tớ, nghĩa thầy chưa quên."Móc mưa xin tưới cửu-tuyền,"Gọi là tinh-biểu "để đền chút công."Vua Đường nghe hết thỉ-chung,Khen rằng tiết nghĩa hiếu-trung một nhà.Của kho ban dựng miếu thờ,Chức ban Thất phẩm. gọi là tặng phongTạ từ năm lạy đền rồng,Trở ra rước cữu Mai-công xuống thuyền.Tiễn đưa xe ngựa như nêm,2480.- Trống ran mặt đất, cờ liền bóng sông.Đồ hiếu-sự vẻ quân-dung,Sông lồng giới-trượng gió tung biển-kỳ.Đến đâu quyền được tiện nghi,Một tay thưởng-phạt hai bề công-minh
- lôi-dình: Sấm sét. Giao Tam-pháp: tức Tam-pháp ty: Tòa Tam-pháp. Tòa này mỗi khi có việc xét xử gì quan-trọng mới lập, cũng như tòa án đại hình. Gồm có quan-chức ba tòa là Đô-sát viện, Đại-lý-tự và Hình bộ họp nhau xét nghị người ta quen gọi là "Ba tòa". cung-đình: Sân trong cung, cũng như triều-đình, nơi công-đình. Nha-môn: Thuộc trong dinh. long-đình: Cái án có mui chạm rồng gọi là long-đình, để đặt những giấy tờ sắc-chỉ hay đồ-vật gì do nhà vua ban ra cho được tôn-kính, ngục-viện: Nhà giam. Thái-phó: Một chức quan cao-cấp vào hàng Tam-công. ba bác: Đây là Lư Kỷ gọi ba quan Tam-pháp. Binh sự: Việc binh. Lư Kỷ sai đem binh đi bắt Khâu Khôi. thần-tử: Tôi con.
Khi quân: Dối vua. lộng quyền vi phi: Lộng quyền làm bậy. trở đậu quân-cơ: Làm ngăn-trở, chậm-trễ việc quân. can liên: Dính-dáng giây-dưa đến, liên-lụy, vạ lây. họ Hoàng: Đây là trỏ vào quan Hoàng-môn tức hoạn-quan hay quan Thị-hầu chực ở hậu-cung. Long-côn: Roi của vua. niêm hoàng: Tờ chiếu chỉ của vua viết bằng vàng và niêm phong lại, nên gọi là "niêm hoàng" cũng như đằng hòang. tận pháp: Hết phép. súc-sinh: Giống vật nuôi trong nhà, tiếng khinh-bỉ, đây trỏ Lư, Hoàng. Đông-cung: Cung bên đông, nơi Thái-tử (con cả nhà vua) ở, nên cũng gọi Thái-tử là Đông-cung.
Bố mầy: các hoạn-quan theo tiếng xưng hô chữ Hán thường gọi là "Công-công" hay "lã công". Chữ "Bố mầy" phải chăng do những chữ đó dịch chạnh đi, Lỵ Giang-tây đạo: Nhậm chức ở đạo Giang-tây. Thái Câu: Xem chú-thích ở trên. thanh giản: Trong-sạch, giản-dị. nhân tình: Do chữ tố cá nhân tình, ý nói giao-thiệp thù phụng người cho được việc. thông phỉ: Giao-thông với giặc. thâm-trầm: Sâu, chìm, ý nói người sâu-sắc. Lòng người là sắt, phép công là lò : Câu này do câu chữ " nhân tâm như thiết, quan pháp như lô ". Đỉa, giăng thẳng nọc, đuối, vì-vụt roi: Câu này nói nọc thẳng ra như con đỉa và dùng roi xương đuôi cá đuối mà đánh. Mặt rồng gang tấc không xa: Câu này do câu " Thiên uy bất vi nhan chỉ xích ".
thiên-ân: Ơn trời. sớ-văn: Tờ sớ tâu vua. hành-lang: Dãy nhà ngang chạy dài ở các cung điện. chân, giả: Thực, dối. Bạch oan: Tỏ nỗi oan. Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan: Núi băng do chữ băng sơn: Trương Triện đời nhà Đường nói: Các ông coi Dương Hữu-tướng (Dương Quốc Trung) như núi Thái, tôi thì cho là núi băng hễ mặt trời mọc là tan, các ông trông-cậy mãi được ru! tân khổ: Cay đắng. Thái bảo: Một chức quan cao-cấp về Cung-hàm hàng tam công. liệt-trung: bậc nghĩa-liệt kiên-trung, Học-sĩ: một chức quan văn-học. yếu thanh: Trọng yếu mà thanh-cao. Đô-ngự-sử: Một chức gián quan.
Trật gia tam cấp: Chức thêm ba bực. Lại cùng Trần Hạnh, lại cùng Vân Anh: Hai vợ Trạng-nguyên Mai Bích. Vân Tiên với lại Ngọc Thư: Hai vợ Bảng nhãn Xuân-sinh. khai táng: Mở huyệt ra mai táng lại cũng như nói cải táng. Hoàng-thân tế điện, triều-thần trợ nghi: Nghĩa là họ nhà vua đến tế điện, quan trong triều đến giúp lễ. Duyên đồ hộ-tống: nghĩa là đi đưa đám theo dọc đường. tiện hành: Nghĩa là được tiện nghi hành sự, cứ tuỳ tiện nên làm thế nào thì làm. đại tuần: Đi tuần thú như vua. Hoàn-hôn ngự tứ nghênh thân: Vua cho đón dâu về làm lễ thành-hôn. thôi-ma: Áo sô gai, áo tang. tảo phần: Quét mả.
Điển-nghi: Điển-chương và nghi-thức. triều-thần: Các quan trong triều. dụ-chỉ: Tờ dụ của vua. tam nghiêm: Ba hồi. Lúc mới bắt đầu tế, người ta xướng: " Chung cỗ các tam nghiêm " nghĩa là chuông và trống đều đánh ba hồi, bát âm: Tám thứ tiếng về âm-nhạc. sinh lễ: Lễ thịt chín như thịt lợn, trâu, tư thình: Cỗ xôi. trung hiếu nhất môn: Trung và hiếu trong một cửa. linh-cữu lên đường: Quan tài đựng xác chết gọi là cửu Linh nghĩa là thiêng. tinh-biểu: Tinh-biểu: người có nết tốt được nhà vua ban khen hoặc bằng biển ngạch, hoặc bằng cờ hoặc bằng bia nêu ra để làm gương cho người khác bắt-chước, đều gọi là "tinh-biểu", như tinh biểu nghĩa phu tiết phụ v. v...- tinh biểu nghĩa đen là cờ nêu - Thất phẩm: Quan tước của triều-đình có 9 phẩm, từ nhất đến cửu, nhất phẩm là trên hết, cuối cùng là cửu phẩm, mỗi phẩm lại chia ra hai trật là chính và tòng.
hiếu-sự: Việc hiếu, việc tang. quân-dung: Nghi-vệ của quân đội. giới-trượng:Khí-giới của quân lính. biển-kỳ: Biển và cờ cũng là đồ hành nghi của quân-đội, dùng làm biểu-hiệu khi đi đường hay đóng tại đâu. thưởng-phạt: Thưởng kẻ có công, phạt kẻ có tội.