Thuở Phật tại thế, có nhà triệu phú sinh được người con gái xinh đẹp đã trồng căn lành từ vô lượng kiếp, có trí tuệ của bậc xuất trần thượng sĩ. Khi lớn lên nàng không màng chuyện chồng con, mà muốn xuất gia trong Pháp và Luật của Phật. Nàng xin cha mẹ: - Thưa cha mẹ, con không ưa đời sống gia đình, xin cha mẹ cho con xuất gia, sống đời giải thoát như Phật Thế tôn. Ông bà triệu phú kinh hoảng bác ngay lời nàng: - Này con yêu dấu, đừng nói bậy. Nhà ta đại phú, con muốn cúng dường bố thí bao nhiêu cha mẹ cũng không cấm. Nhưng con là con gái cưng độc nhất của cha mẹ, không đời nào cha mẹ lại cho phép con xuất gia. Bị từ chối, cô gái suy nghĩ: "Vậy, khi nào cha mẹ gả chồng, ta sẽ xin chồng xuất gia." Và cha mẹ đã chọn người rể xứng đáng, gả nàng. Cô gái theo về nhà chồng, thâm tâm vẫn nuôi ý định xuất gia. Vào một ngày hội lớn trong nước, mọi người đều trang sức lộng lẫy, nhưng cô gái vẫn không đeo đồ nữ trang, y phục vẫn đơn giản như thường ngày. Chồng nàng hỏi: - Tại sao em không trang điểm phấn son gì cả? Hôm nay là ngày hội vui cả nước, em không tham dự sao? - Thân này là đãy da chứa toàn ô uế, phấn son trang điểm cho nó chẳng khác gì trang hoàng một cái thùng phân. - Em nói nghe như là người đã thoát vòng tục lụy. Vậy sao em không vào chùa tu luôn đi? - Nếu được phép, em sẽ xuất gia ngay bây giờ. - Vậy thì được, cho phép em xuất gia. Nàng hoan hỉ cảm ơn, và chồng nàng đưa nàng tới một ni viện dưới sự lãnh đạo của Ðề bà đạt đa (Devadatta). Ðề bà đạt đa đã gây chia rẽ trong tăng chúng, bằng cách đưa ra năm điều luật khắc khe hơn giới luật Phật chế, và nhờ vậy thâu được một số đông đệ tử mới của Phật về phái mình, những người có khuynh hướng cực đoan, khoái khổ hạnh. Thiếu phụ khi xuất gia, hoàn toàn không biết mình đã mang thai. Sau khi thọ giới cụ túc, bụng càng ngày càng lớn. Chúng tỳ kheo ni trông thấy, bèn đi mách với Ðề bà. Ðề bà ra lệnh trục xuất ngay, vì cho là cô ấy phạm giới. Cô cực lực phản đối, bảo: - Tôi xuất gia với đức Ðạo sư, không phải xuất gia với sự lãnh đạo của Devadatta. Xin cho tôi đến yết kiến đức Phật Thế tôn. Chúng ni bèn đưa nàng đến trước Phật. Phật biết nàng vô tội, song vì nàng ở trong tăng đoàn Ðề Bà, nên ngài muốn làm sáng tỏ vấn đề trước vua Ba tư nặc để quần chúng khỏi dị nghị, cho rằng Ngài tranh giành đệ tử. Một phiên xử công khai được triệu tập để xét xử nội vụ. Nhiều trưởng giả, đại thần, mệnh phụ tham dự, trong đó có bà Visakha là một phụ nữ nổi tiếng. Bà được đề cử để khám xét thiếu phụ tỳ kheo ni. Sau khi khám, bà công bố cô có thai khi còn là gia chủ, và do đó cô vô tội. Phiên xử kết thúc mỹ mãn, tỳ kheo ni được trở về chùa. Ðến kỳ khai hoa nở nhụy, cô hạ sanh một bé trai được nuôi trong chùa. Khi vua Ba tư nặc đi dạo chơi ngang chùa, nghe tiếng trẻ khóc bèn hỏi quan hầu cận: - Quái lạ, sao trong chùa lại có tiếng trẻ khóc nhỉ? - Tâu đại vương, đó là hài nhi của vị ni cô được triều đình tuyên bố vô tội dạo trước. Vua nhớ ra, bèn xin Phật cho đưa đứa bé về cung để hoàng hậu và các cung nữ nuôi giùm. Ðến kỳ đặt tên, hài nhi có tên là "hoàng tử Ca Diếp", được nuôi dạy chung với các hoàng tử. Khi lên bảy, hoàng tử Ca Diếp xin Phật xuất gia. Sau khi thụ đại giới, trưởng lão Ca Diếp trở thành vị thuyết pháp đệ nhất trong tăng đoàn của Phật. Trưởng lão ni mẹ của ngài và ngài đều chứng quả A La Hán. Một hôm, tại Diệu pháp đường trong tinh xá Kỳ hoàn, chúng tỳ kheo đang ngồi ca tụng ân đức Thế tôn, đã cứu được hai mẹ con và lại còn đặt lên ngôi vị thánh. Ðức Phật đi vào biết chuyện, dạy: - Này các tỳ kheo, không phải trong đời này Như lai đã cứu hai mẹ con Ca Diếp, mà trong đời kiếp lâu xa khi còn làm súc sanh, ta cũng đã từng cứu hai mẹ con ấy. Rồi Ngài kể lại chuyện tiền thân ngài làm Nai chúa như sau. Thuở ấy đức Phật làm một con nai chúa tể cả đàn nai trong rừng. Nai chúa có bộ lông và đôi mắt tuyệt đẹp. Vị vua trị vì lúc bấy giờ rất khoái thịt nai, ngày nào cũng bắt dân chúng vào rừng săn bẫy nai đem về cung cấp cho đầu bếp nhà vua. Vì phải bỏ bê việc nhà vào rừng săn nai hàng ngày, dân chúng bàn nhau huy động toàn lực để bắt hết tất cả nai trong rừng về, vây lại trong vườn thượng uyển để đầu bếp mỗi ngày vào đó mà bắt nai, khỏi phiền nhiễu tới dân chúng. Ðàn nai của Bồ tát bị tóm trọn, cùng với một đàn nai khác cũng do một nai chúa cầm đầu, là tiền thân của Devadatta. Khi cả hai đàn nai đều bị bắt về ngự uyển, vua đến xem, và trông thấy hai con nai chúa xinh đẹp, liền bảo đầu bếp chừa lại đừng giết. Những con khác thì cứ mỗi ngày làm thịt cho vua dùng. Từ đấy hàng ngày tên thợ săn và đầu bếp của vua lại đến, dùng cung nỏ bắn hạ một con trong hai đàn nai để về làm thịt. Mỗi khi thợ săn đến, hai đàn nai chạy tán loạn, thợ săn bắn tên vào chúng, nhiều con bị trúng thương, phải chịu đau đớn nhiều ngày trước khi chết. Thảm kịch tái diễn hàng ngày, khiến cho đàn nai hãi hùng khủng khiếp. Bồ tát nai liền họp tất cả đàn mình và đàn nai Ðề bà để thương nghị: - Ðể tránh tình trạng kinh hoàng cho hai bầy nai, chúng ta hãy luân phiên bắt thăm, ngày hôm nay đàn nai tôi nạp một mạng, ngày mai đàn nai anh nạp một mạng. Như vậy những nai còn lại được sống yên ổn, cho đến khi tới phiên mình nạp mạng. Toàn thể đều chấp thuận sự sắp đặt ấy. Một hôm, đến lượt đàn nai Ðề bà bốc thăm, trúng phiên một chị nai có bầu sắp sinh. Nai mẹ khẩn khoản với nai chúa: - Xin hãy tha cho tôi, nếu tôi bị giết thì chết tới hai mạng chứ không phải một, Như vậy không công bằng. Tôi sẽ xin nạp mình sau khi sanh nở xong. Nai Ðề bà nhất quyết không chịu. Nai mẹ bèn đến cầu cứu nai Bồ tát. Bồ tát nói: - Ðược, chị yên tâm trở về đi. Ngày mai, chị khỏi phải đến nạp mạng. Nai mẹ mừng rỡ cảm ơn ra về. Hôm sau, khi tên đầu bếp của vua đi đến chỗ hành quyết nai, thì thấy Bồ tát nai chúa đang nằm kê đầu trên cái thớt chờ lát đao chặt xuống. Ðôi mắt Nai trong sáng đượm buồn, nhưng bình an. Nai ngước nhìn tên đầu bếp với vẻ thương xót, không lộ vẻ gì là sợ sệt, thù hận. Ðầu bếp ngạc nhiên hỏi: - Này bồ đi, sao nằm đó? Vua bảo tha chết cho bồ kia mà. Ðàn nai của bồ chết tiệt cả rồi sao? - Không phải đâu, đầu bếp. Ðàn nai tôi còn nhiều, nhưng hôm nay tới phiên một chị nai có bầu nạp mạng. Nếu chị ấy chết thì chết cả mẹ lẫn con. Tôi không nỡ bảo ai thay thế chị, vì ai cũng tham sống sợ chết cả. Do vậy tôi nạp mình thay cho chị. Ðầu bếp cứ việc hạ đao đi. Người đầu bếp trở về tâu vua chuyện lạ. Nhà vua đích thân theo ông đến vườn nai, thấy Nai chúa vẫn nằm kê đầu trên thớt, đôi mắt long lanh như hai viên ngọc ngước nhìn vua. Do năng lực từ tâm của Bồ tát, vua phát sinh một lòng thương vô hạn. Vua ngồi xuống bên nai: - Này nai chúa, hãy đứng dậy. Ta tha chết cho ngươi. - Tâu đại vương, ngài tha chết cho tôi, nhưng còn những nai khác trong vườn thì sao? - Ta cũng tha luôn tất cả nai trong vườn. - Nai trong vườn được tha, còn tất cả loài nai thì sao? - Ta cũng tha giết tất cả loài nai. - Loài nai được tha, nhưng các loài thú khác trên mặt đất thì sao? - Ta cũng tha nốt. - Loài thú trên đất được tha, nhưng cá dưới nước thì sao? - Ta cũng tha luôn loài cá. - Loài dưới nước được tha, còn loài chim bay trên không thì sao? - Loài chim bay cũng được tha luôn. - Lành thay, đại vương. Tất cả chúng sinh đều tham sống sợ chết, bởi thế không nên giết hại, đánh đập, gieo rắc sự sợ hãi. Ngài hãy sống với từ tâm, thì đời này được an lạc, giấc ngủ nhẹ nhàng, sống không bệnh tật, chết được an lành, sinh lên các cõi trời trường thọ. Nhờ bồ tát Nai cảm hóa, từ đấy nhà vua phát tâm ăn chay, không còn ý tưởng giết hại. Nai mẹ được bồ tát cứu, về sau sanh hạ một chú nai con kháu khỉnh, đó là tiền thân hoàng tử Ca Diếp ngày nay. Nai mẹ chính là tỳ kheo ni được Phật giải oan trong kiếp hiện tại, còn nhà vua là tiền thân của A nan tôn giả.