Chương 11


Chương 11

Sáng hôm sau, cô Webley mắng chúng tôi tới tấp. Chúng tôi vừa đưa được chân vào những cái cùm ở trong lớp, thì cô đứng lừ lừ nhìn chúng tôi, chúm môi và bảo: "Ái chà! Cuối tuần vừa rồi mấy cô chơi bời cũng khá đấy chứ. Elizabeth, sáng nay cô có là áo trước khi mặc không?"
Elizabeth, cô gái tóc nâu duyên dáng của bang Nevada, trả lời: "Ồ, thưa cô Webley, em nghĩ áo này không cần phải là"
"Không bao giờ được mặc áo chưa là đến lớp, cô hiểu chứ?"
"Vâng, thưa cô Webley"
"Joan, tóc cô làm sao thế?"
"À, thưa cô Webley, hôm qua em bơi ngoài biển..."
"Không đội mũ bơi?"
"Dạ, em quên đội"
"Lisa, cuối tuần rồi cô có ngủ không?"
"Thưa cô Webley, có chứ ạ"
"Ngủ mấy tiếng?"
"Em không thể nói chính xác..."
"Trông cô như không mở mắt nổi nữa"
Và v...v..., và v...v... Cuối cùng, sau khi đã xạc khoảng hơn chục người, cô quay ra chỉnh cả lớp. Cô đứng thẳng người, tay chắp sau lưng và nói: "Các cô! Trước khi học tiếp, chúng tôi cần hiểu rõ thế này. Miami là nơi nghỉ tuyệt vời. Người ta có thể nghỉ ngơi xả láng: ngày tắm nắng, tối vui chơi nhảy múa. Song rất tiếc, các cô đến đây không phải để nghỉ. Các cô đến đây để học. Tất nhiên không ai phải đối các cô xả hơi đôi chút vào cuối tuần. Các cô cần nghỉ ngơi, giải trí, nhưng chúng tôi không cho phép lạm dụng điều đó. Đấy! Cứ nhìn các cô xem. Đến gần nửa lớp không mở nổi mắt. Các cô sẽ không qua được hết khoá nếu thứ hai nào cũng như thế này, phải hết cả ngày các cô mới lại sức sau những trò du hý cuối tuần. Các cô! Tôi hy vọng trong tương lai, các cô đến lớp ngày thứ hai không phải trong tình trạng kiệt sức, mà là khoẻ khoắn hơn. Các cô rõ cả chứ?"
"Thưa cô, rõ"
"Nào, các cô ngồi thẳng lên, cố mà tỉnh táo"
Chúng tôi cố gắng, rồi lao ngay vào bài học. Tuần trước chúng tôi học về nhiệm vụ của cô ong chúa trên máy bay Martin 404 chỉ có một chiêu đãi viên.
Tôi đoán ý của họ là cho chúng tôi bức tranh tổng thể về nhiệm vụ của chiêu đãi viên nói chung. Bây giờ chúng tôi nghiên cứu loại máy bay có hai, hoặc ba chiêu đãi viên, như loại Constellation chẳng hạn. Học xong phần này, chúng tôi sẽ chuyển sang loại phản lực cánh quạt có bốn chiêu đãi viên. Rất đơn giản. Chúng tôi chỉ cần tiêu hoá và thuộc độ một ngàn trang trong cuốn sổ nhỏ màu đen. Nhưng đấy mới là loại máy bay cánh quạt. Rồi nếu còn sống sót, chúng tôi sẽ nghiên cứu loại máy bay phản lực trong cuốn sổ tay hoàn toàn mới, có trọng lượng và kích thước tương đương cuốn đang học. Chương trình học phải nói là nặng.
Ngày trôi qua nhanh đến mức không ngờ. Toàn những điều phức tạp, mới mẻ đến nỗi không còn thời gian mà buồn chán nữa. Bộ óc của tôi, một vũng lầy tù đọng chất xám bị buộc phải làm việc, và đến cuối buổi, đầu tôi đau buốt. Tôi đoán chắc cũng giống như chứng đau vai mà bạn có thể bị vì vận động quá sức trong quần vợt, hoặc chứng khô khớp trong bơi lội. Khô não, đấy, tôi bị cái bệnh như thế.
Ba chúng tôi trở về phòng 1412, người mệt rã rời. Donna và tôi cho rằng xuống tắm một lát có thể đỡ mệt, nhưng tôi chưa kịp thay quần áo đã nghe tiếng Jurgy gọi từ buồng bên cạnh: "Này, Carol"
Nó ngồi trên giường, mặt nhợt nhạt. Tôi hỏi '''' Chuyện gì thế?"
"Annette đi rồi. Tớ đoán là về nhà. Đồ đạc của nó không còn ở đây. Quần áo, túi gói không thấy đâu"
"Nhưng tại sao? Có chuyện gì vậy?"
Jurgy đáp: "Sáng nay nó bị gọi ra ngoài, sau không thấy quay lại. Tớ đoán là lên gặp ông Garrison hoặc bà Montgomery"
"Thôi chết! Có nghĩa là nó bị đuổi học ư?"
Jurgy buồn bã gật đầu.
Mới nghe có vẻ không ổn, nhưng xem chừng lại có lý. Annette là đứa hiền lành, dễ thương, song có đôi lần tôi tự hỏi liệu nó có đủ sức chịu đựng một cuộc sống gò bó sắp tới không? Annette quá dịu dàng, quá mềm yếu.
Jurgy bảo: "Còn có ba đứa nữa cũng bị gọi ra ngoài"
Tôi sực nhớ ra: "Lạy Chúa, lớp tớ cũng có ba. Không thấy họ quay lại, chẳng biết thế nào".
"Đi hỏi thử xem", Jurgy giục.
Chúng tôi đi hết các phòng thì được biết có bảy cô tất cả. Bảy cô bỏ về, hoặc bị đuổi về. Không ai để lại chữ nào. Tôi có thể hiểu được tại sao - giá tôi ở trường hợp ấy cũng sẽ làm như thế. Rồi tôi chợt nhớ thêm: sáng qua trong Salon de Fragonard, Ray Duer bảo tôi ông ta tới gặp ông Garrison. Chắc khi đó họ quyết định gạch tên những cô này. Đúng hay không chưa biết, nhưng rõ ràng đây là bằng chứng sống cho thấy ông G, bác sĩ D, bà Montgomery, cô Webley, cô Pierce - đại diện cho Hãng hàng không quốc tế Magna - đã nói là làm, và các cô gà mái trong chuồng tầng 14 bắt đầu hoảng.
Chúng tôi ngồi thầm thì bàn tán, được một lúc Jurgy đứng dậy. Mặt nó tái xanh, trông rất sợ, nên tôi theo về buồng và hỏi: "Jurgy, cậu không làm sao chứ?"
"Tất nhiên. Carol, đóng cửa lại"
Tôi đóng cửa. Và khoá vào nữa. Jurgy muốn vậy.
"Chiều nay lúc về, tớ thấy cái này gửi cho tớ", nó nói và lôi dưới gối ra một chiếc hộp trang trí rất vui mắt. "Cậu xem khắc biết"
Tôi cầm chiếc hộp và mở ra. Bên trong là một chiếc hộp nhỏ bọc nhung xanh, tôi mở tiếp và thốt lên: "Ôi, lạy Chúa". Trong hộp là một chiếc lắc bằng vàng, trang trí theo kiểu hiện đại mà tôi luôn ngưỡng mộ và thèm khát.
"Thế nào?" Jurgy lạnh lùng hỏi.
"Ở đâu ra thế? Ai gửi cho cậu?"
"Luke. Bằng vàng, đúng không?"
"Lạy Chúa, tớ không biết". Tôi nhấc chiếc lắc khỏi hộp. "Nó nặng đến một tấn. Lạy Chúa, Jurgy, chắc phải là vàng"
"Chúng mình sẽ biết ngay thôi", nó bảo. "Cậu thấy chữ in trong hộp chứ?"
Trên nền lụa trắng có hàng chữ: "Hiệu kim hoàn khách sạn Charleroi, Miami, Florida". Tôi bảo: "Đó là hiệu kim hoàn sang trọng ở gian chính dưới nhà. Lạy Chúa, ở đó còn đắt hơn ở hiệu Tiffany".
Jurgy ngồi ngay đơ, mặt càng xanh xám hơn.
Tôi bảo: "Jurgy, cậu định giải quyết sao đây? Cứ giữ hay là thế nào? Lạy Chúa, cái lắc phải đến một ngàn đôla"
"Hôm nay ông ấy đáp máy bay về Kansas, vì thế tớ không trả lại được. Tối thứ Sáu ông ấy trở lại". Nó quay lại nhìn tôi và hỏi: "Cậu nghĩ tớ có nên trả lại không?"
Nó định bắt tôi phải nói rõ ý kiến của mình. Tôi bảo: "Tự cậu quyết định. Cậu sẽ gặp ông ta cuối tuần này chứ?"
"Ừ"
"Lại đi xem giống Brahman à?"
"Không. Ông ấy muốn mình đi chơi thuyền suốt cả cuối tuần. Rồi nó nhăn nhó bảo: "Cậu đừng lo. Trên thuyền có nhiều người khác nữa". Cô ta bắt đầu lắc lư: "Tớ chẳng biết làm thế quái nào nữa, đã bao giờ gặp chuyện thế này đâu. Phải làm gì bây giờ, Carol?"
"Về cái lắc này à?"
"Về cái lắc, về chuyến đi cuối tuần. Tất cả"
"Tuỳ cậu quyết định"
Nó nhìn tôi, vẻ cáu kỉnh: "Ông ấy đã già, 56 tuổi. Con gái không nên nhận đồ tặng của ông già chứ gì?"
Tôi không trả lời.
Nó lại bảo: "Chỉ có điều là...", rồi dừng, mắt nhìn tận đâu đâu. Lát sau nó thở dài với vẻ đau khổ: "Có lẽ tớ phải suy nghĩ thêm về chuyện này, Carol ạ. Thôi, cám ơn cậu. Đừng nói gì với mấy đứa kia nhé".
"Tất nhiên", tôi trả lời và đi ra.
Tối hôm đó Donna quên cả cái lệ đi uống rượu vào lúc 9h. Trong mấy đứa, nó là người run nhất trước sự tàn nhẫn thầm lặng của Hãng Magna. Tôi đã nhầm khi đánh giá nó. Tôi nghĩ nó là người thích vui, bất cần đời, không quan tâm đến bất cứ việc gì, v...v... Song không phải như vậy. Một tối, chúng tôi dứt ra khỏi những trang sách về thiết bị dùng cho trường hợp khẩn cấp trên máy bay loại Constellation, xuống bể bơi tắm vội trước khi cửa chuồng đóng lại vào lúc 10h30, và chúng tôi đã nói với nhau về chuyện ấy. Tôi nói xa xôi về việc nó bắt đầu hết lòng vì hãng Magna và nó nói một thôi một hồi với giọng rất nghiêm trang: "Này, đối với cậu thì không sao. Cậu đã đi đó đi đây, đã qua nhiều việc khác nhau. Nếu Garrison mà nện cậu, cậu có thể tìm được một công việc khác mà cậu thích. Với tớ thì lại khác. Tất cả những gì tớ đã làm là ở cái nhà trọ ấy. Tớ không biết đánh máy, chẳng biết cóc gì về những việc đơn giản ở văn phòng; tớ sẽ chết nếu phải đứng đằng sau quầy bán hàng. Đơn giản là tớ không biết nên làm cái quái gì nữa. Tớ nghĩ có khi phải bán mình nữa chưa biết chừng"
"Donna, cậu vẫn có thể quay về cái nhà trọ ấy cơ mà"
Nó gạt phăng ngay: "Về khi ông già tớ đã lấy con chó cái Marion ấy ư? Ồ, không có chuyện đó. Những năm trước, cha con tớ sống rất vui vẻ, còn bây giờ mụ ta là chủ mới của gia đình, tớ sẽ sống như người thừa trong nhà. Không đâu, cô bạn ạ". Nó ngồi với vẻ tư lự: "Và cũng không thể xin mãi tiền ông già được. Tớ muốn nói tất nhiên ông cũng sẽ cho thôi, ông là người hào phóng nhất trên đời. Nhưng tớ cũng hiểu ông còn phải chi những khoản rất lớn cho việc lắp đặt hệ thống cáp lên núi cho khách trượt tuyết hoặc đại để như vậy. Vậy thì miễn, từ nay tớ sẽ phải tự kiếm lấy mà sống".
"Đừng lo, cậu sẽ qua khoá này nhẹ nhàng như không"
"Tớ lo chứ, cậu có bảo tớ đừng lo cũng chẳng ích gì. Còn điều này nữa, Carol. Cậu đã đi khắp thế giới, còn tớ chưa hề được đi đâu. Lạy Chúa, đây là cơ hội lớn của tớ. Tớ muốn nói tớ sẵn sàng xoay trần ra mà học nếu đó là cách duy nhất giúp tớ được thấy London, Paris và Rôma. Hãy tưởng tượng xem! Cuối tuần ở Paris! Với tớ, đó là thiên đường"
Tôi bảo: "Lại nói chuyện cuối tuần, cậu có định đến thăm những người mà cậu gọi là bà con ở Palm Beach nữa không?"
Nó cười ngặt nghẽo và hổn hển trả lời: "Không, tớ nghĩ nên nghiền cuốn sổ tay chết tiệt này thì hơn".
Donna đã thay đổi, thay đổi rất nhiều. Tôi còn nhớ nó đã công phẫn như thế nào sau cái vụ tôi gặp ông Garrison ngay sáng đầu tiên. Lúc đó nó bảo: "Họ không thể đối xử với tớ như cô bé Annie mồ côi ấy được". Bây giờ nó đành phải chịu.
Còn Alma thì lại xây tổ trong cuốn sổ nhỏ màu đen và đố ai lôi nó ra được. Đó lại là điều đáng ngạc nhiên nữa. Trông nó hừng hực dục tình, đến độ ta chỉ có thể nghĩ rằng lúc nào nó cũng muốn trưng ra những chỗ lồi lõm của mình trước đám người trầm trồ thán phục. Không đâu. Nó vùi đầu vào học hoạ hoằn lắm mới ra khỏi phòng. Về nó, tôi cũng lập luận như sau: xuất thân trong một gia đình Ý nghèo khổ, và mặc dù có biết bao chuyện tình lãng mạn với rặt những kẻ đẹp trai và đàng hoàng nó vẫn muốn tự mình tạo dựng cuộc sống của mình. Làm chiêu đãi viên trên các tuyến bay quốc tế là bước rất quan trọng. Nó sẽ có dịp gặp các nhà ngoại giao, luật sư, thợ săn các trò chơi lớn, bọn trộm cắp vàng bạc, nghĩa là đủ các hạng người lý thú, trong khi nếu ở nhà, cùng lắm nó cũng chỉ có thể là cô tình nhân bị bỏ rơi của tay chủ hiệu bán xe hơi. Trong tình hình này, chẳng cần phải nói lại những gì N.B đã báo trước về Sonny Kee.

°

Chiều thứ Năm, chúng tôi được hướng dẫn kỹ về cách ăn mặc, điều mà cô Webley đã hứa từ đầu khoá học.
Sau bữa trưa, chúng tôi thay đồ, mặc quần và áo sơ-mi rồi trở về lớp nghe bài giảng ngắn về cách đi đứng. Cách ngồi ghế thế nào, chúng tôi đã học. Song tôi ngạc nhiên khi thấy phải học cả cách đứng dậy khỏi ghế. Đâu phải cứ khom người đứng vụt dậy mà được. Ồ, không đâu. Bạn phải c túi giấy màu nâu để tôi không biết là loại rượu gì. Tất nhiên tôi đoán được, đó là loại Old Paralysia mà cô ta thường dùng. Tôi không muốn uống, vì không muốn ra đi mồm toàn mùi ruợu, nhưng lại nghĩ còn hai tiếng nữa mới tới giờ bay, thì lúc ấy mùi rượu chắc cũng hết. Thế là ba đứa chúng tôi ngôi xuống trên chiếc xô-pha ba chân của tôi, trong khi Eena nói như hét vào tai bên phải, còn Angel thầm thì bên tai trái tôi. Họ đều là chỗ bạn bè, và là những người bạn tốt, song tôi hầu như chẳng nghe được họ nói gì. Tôi ngồi thẫn thờ nhìn quanh, bụng nghĩ:" Lạy Chúa, tôi đã sống cả sáu tháng trời ở đây, trong gian buồng tồi tàn này, chiều dài 20 fut, rộng 8 fut, trần long vách lở, thảm trải đầy vết nhạy cắn, thiếu khí trời, không có ánh sáng lọt qua chiếc cửa sổ vàng xỉn, và cũng không hơi ấm toả ra từ chiếc lò sưởi han gỉ. Mà để làm gì? Để phát hiện ra một Thompson đích thực, hoặc để nếm qua cái diễm phúc thánh thiện ư? Tại căn phòng này, tôi đã có những bữa tiệc vui, đă nghe mồm Angel đọc thơ và chấm câu bằng tay. Đủ mọi hạng người đã cười đùa, la hét ở đây, nằm ngủ trên sàn nhà này, nôn mửa ra đấy và có lần họ đã đổ dầu máy lửa định đốt cuốn Thơ ca Anh của Oxford của tôi. Tất cả, từ căn phòng tồi tàn tới những cuộc vui ầm ĩ thâu đêm suốt sáng ấy chắc chắn đã tác động sâu sắc đến tôi. Nhưng đến mức nào?
Những chuyện ấy nhìn chung cũng chẳng đến nỗi nào. Tôi mới chỉ dùng hết một phần bốn mươi tư sinh lực để tìm lấy sự hoàn thiện bản thân ở làng Greenwich. Đúng khi tôi đang đầy những suy tư sâu sắc ấy, Charlie Hộ Pháp bước vào mà không gõ cửa, miệng cười rộng toác đến mang tai, và hai cánh tay trần cuồn cuộn bắp thịt.
"Này, em vẫn chưa đi à?" Hộ Pháp hỏi tôi.
"Chưa, em chưa đi"
Eena mời "Hộ Pháp, làm một ly chứ?"
"Uống cái thứ thuốc độc ấy ư?", anh ta bảo vậy.
Anh đến bên ghế xô-pha, lấy tay xoa đầu tôi, làm tôi có cảm giác như chiếc gầu xúc đất của máy đào móng nhà chọc trời đang cào tóc tôi vậy. Lần đầu tiên thấy anh, tôi hầu như ngất xỉu trên hè đường. Anh đứng dựa lưng vào tường dọc phố Mac Dougal, chân bắt chéo, hai tay đút trong túi quần thụng. Trông anh cao to lừng lững, đến nỗi tôi có cảm tưởng như bức tường sắp đổ đến nơi. Da anh đỏ au, tóc vàng hơn tóc tôi, mắt cũng xanh hơn; cái dáng vẻ Bắc Âu từ đầu đến chân ấy của anh làm tim tôi như ngừng đập. Những bắp thịt cuồn cuộn kia! Nụ cười mê hồn ấy! Đôi mắt xanh thăm thẳm làm sao! Tôi xin nói ngay, tôi không phải cô gái đầu tiên ăn phải bùa mê cháo lú của anh. Với anh, chuyện đó thường xảy ra luôn. Tôi dám nói anh có thể mỗi giờ thay một cô, nếu anh muốn. Song anh lại không muốn. Anh đã giải thích cho tôi tại sao lại như vậy, ngay buổi đầu tiên chúng tôi ở bên nhau. Chúng tôi ngồi uống cà phê trong một quán nào đó, và một lát sau anh bảo không thể ngồi hết đêm ở đó, tại sao chúng tôi không kiếm một chỗ khác mà trò chuyện, ví dụ như phòng tôi chẳng hạn. "Tại sao lại không?", tôi đáp, rồi cùng anh bước trong bóng đêm nặng trĩu mùi của phố số 4 khu phía Tây mà cứ tưởng như đang đi vào cõi cực lạc. Tôi chưa hiểu gì nhiều về đàn ông, trừ mấy phút ngắn ngủi tồi tệ với Tom Ritchie ở cuối vườn tại Greenwich. Còn bây giờ, tôi đã là một cô gái hơn 21 tuổi, làm sao tôi có thể bỏ qua một cơ hội chung đụng tuyệt vời với một người như Charlie Hộ Pháp mà vòng bụng chỉ có 15 insơ. Không một cô gái nào có thể làm được như vậy. Tôi gần như mê mẩn khi chúng tôi trèo 4 bậc cầu thang để lên phòng. Tôi không sao mở được cửa vì cái chìa khoá cứ tuột khỏi tay tôi, nhưng cuối cùng, mọi trở ngại cũng qua, chúng tôi ngồi bên nhau trên chiếc xô-pha ba chân, và tôi chờ đợi bầu trời kia sẽ đổ sụp xuống đầu mình. Trong lúc ấy, Hộ Pháp lại giảng giải cho tôi bài học trứ danh của anh về ảnh hưởng của việc Làm Tình đối với cơ thể người đàn ông. Trời ạ, đúng là Hộ Pháp đã mở mắt cho tôi. Đối với đàn bà, Làm tình là một chuyện bổ béo, nó làm họ đỏ da, thắm thịt. Nhưng với đàn ông, nó còn tồi tệ hơn là tự sát, nó là cái chết kéo dài chậm chạp. Nó hút cạn sinh lực của người đàn ông, chưa nói gì đến những chất khác như canxi, phôtpho, natri. Nó làm xương cốt rã rời, làm cơ bắp tã ra như mớ giẻ rách phất phơ trong gió. Nó tiêu hao ý chí, phá huỷ tế bào thần kinh, làm lục phủ ngũ tạng rệu rã như bún rối. Anh kể cho tôi nghe sự thật khủng khiếp đó bằng một giọng đầy hiểu biết, đến nỗi nghe xong, tôi bắt đầu căm ghét cả bản thân mình. Tôi cảm thấy mình như con điếm ở thành Babylon: mày là một sinh vật tởm lợm xấu xa, dám nghĩ đến chuyện biến các cơ bắp tuyệt đẹp của Charlie Hộ Pháp thành giẻ rách, hút cạn kiệt chất phôtpho của anh ấy!
Đó là mảng đời tình ái của tôi ở làng Greenwich.
°
Uống cạn cốc rượu, tôi nói:" Thôi xin lỗi các bạn nhé, mình phải đi bây giờ cho kịp chuyến bay".
"Carol này" Eena nói "Cậu không cần đi Albuquerque làm gì. Mà sao cậu cứ muốn đến đó là thế quái nào nhỉ?"
"Đây là dịp may hiếm có của mình", tôi đáp.
Trừ mẹ tôi và Tom Ritchie, tôi nói với mọi người rằng tôi đến Albuquerque để làm người mẫu. Tôi không thể nói toạc ra rằng tôi không chịu nổi cuộc sống ở đây nữa, và tôi phải đi khỏi nơi này. Tôi nói với Hộ Pháp: "Anh mang mấy cái vali này ra tắc xi giùm em."
Anh nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, ngây thơ: "Ấy chết, không được đâu. Anh bị đau lưng, chả nhấc nổi thứ gì cả".
Lẽ ra tôi phải biết điều ấy. Anh lúc nào cũng sợ hết hồn về chuyện có thể làm hỏng những cơ bắp quý giá của mình.
"Để mình mang cho" Eena vừa nói, vừa nhấc một vali kẹp vào nách trái, rồi hai tay xách luôn hai chiếc khác, trông nhẹ như không. Tôi mang hộp đựng mũ và cái ví xách tay. Hộ Pháp theo sau, miệng huýt sáo, còn Angel đi sau Hộ Pháp, miệng rên rỉ than vãn, làm tôi có cảm giác như đang đi dự đám tang của chính mình. Chúng tôi vẫy được tắc xi ở đại lộ số Sáu. Sau khi hành lý được xếp vào xe, Eena ôm chầm lấy tôi và hôn lên khoé môi. Tôi cảm thấy má mình ướt đầm nước mắt của Eena. Tôi chỉ kịp nói: "Đi nhé" với Charlie Hộ Pháp, nhưng không k nghe tôi nói".
Chúng tôi ngồi thẳng người, ngực ưỡn, gối khép lại, v...v...
"Nào, các cô trông đều thật đáng yêu. Tôi không thể nghĩ tôi được phụ trách một lớp toàn những cô đẹp mê hồn như thế này. Từ nay trở đi, hàng ngày các cô chỉ dùng một loại son phấn này thôi".
"Ôi, ngày nào đến lớp cũng phải thế này ư? Nhưng phải mất hàng tiếng, chúng em sẽ phải dậy từ bốn giờ sáng mới xong được. Ôi, thưa cô Webley, hàng ngày sao được!"
Chúng tôi kêu chỉ hoài hơi. "Nào, các cô", cô Webley bảo. "Bây giờ chúng ta nói về chế độ ăn uống".
Vậy là chúng tôi chuyển sang nghiên cứu về chế độ ăn uống.

°

Trên xe trở về khách sạn, mặt tôi cứ kêu cót két. Đó là loại âm thanh kỳ lạ nhất trên đời - mặt bạn cót két như đôi giày mới. Tôi bảo Donna: "Mình không bao giờ ra khỏi khách sạn nếu không đeo chàng mạng"
"Lạy Chúa, sao thế?"
"Chả lẽ cậu nghĩ mình muốn mọi người thấy mặt mình thế này sao? Mình sẽ phải kiếm tấm chàng mạng đen, khoét hai lỗ để nhìn và sẽ đeo suốt ngày đêm".
"Nói thực là trông cậu rất kháu, Carol ạ"
"Vậy ư? Thế mà tớ lại nghĩ bất cứ lúc nào họ cũng có thể đánh một chữ A màu đỏ (dùng đánh dấu lên người phụ nữ phạm tội ngoại tình thời xưa) lên người tớ cơ đấy."
Jurgy đang ở trong phòng, mặt mày vô cùng rạng rỡ. Tôi thốt lên: "Ôi, tuyệt chưa. Hôm nay cậu có chuyện gì thế?"
"Bọn tớ cũng học về cách ăn mặc mà"
"Chà, rất hợp với cậu đấy Jurgy ạ. Tuyệt, tuyệt vời"
"Cậu cũng thế"
"Đâu có", tôi đáp. Mặt tôi vẫn đang kêu cót két. "Tớ sẽ không bao giờ quen được kiểu này mất"
Nó bảo: "Carol, lúc nào cậu rảnh, mình nói chuyện với cậu được không?"
"Được chứ, có chuyện gì nào, tớ đang được tự do như làn gió đây"
Chúng tôi vào buồng trong, rồi Jurgy lại ôm gối trên giường như vẫn thường ngồi. Và cũng lại như mọi khi, hàng tiếng đồng hồ mới rặn ra được một từ. Mắt nó nhìn mãi ra xa trong khi tôi ngồi chờ đợi. Cuối cùng nó quay lại, nhìn tôi rất lâu với vẻ dò xét và nói: "Carol, cậu biết gì về chuyện câu cá không?"
"Câu cá! Cậu lôi tớ vào đây chỉ để nói chuyện ấy sao? Tớ ghê tởm chuyện ấy. Tớ cho đó là việc dã man nhất mà người ta có thể làm...".
Nó bảo: "Tớ đang nói về chuyến đi chơi thuyền với Luke cuối tuần. Ông ấy muốn đi câu cá ngoài biển"
"Câu cá biển thì lại là chuyện khác. Ôi chao! Cái đó mới thật tuyệt vời".
"Tớ cũng chẳng biết nữa", Jurgy cười thiểu não. "Ở Buffalo chúng tớ chưa bao giờ làm chuyện đó. Tớ còn không biết phải mặc thứ gì nữa"
"Cái đó thì tớ chịu, Jurgy ạ. Gượm nào, để tớ hỏi Donna..."
"Đừng", Jurgy nói sẵng. "Tớ không muốn cậu ta dúng vào chuyện này"
"Đừng lo, tớ sẽ hỏi khéo thôi. Mà ở đây cậu ấy là chuyên gia về câu cá đấy".
Tôi ra ngoài. Donna đang mặc đồ tắm. Tôi bảo: "Này Donna, bảo tớ cái này nhé. Khi đi câu cùng ông già, cậu mặc quần áo gì?"
Nó nhìn tôi chằm chằm: "Thế quái nào cậu lại hỏi chuyện đó chứ?"
"Thì cứ nói đi nào"
"Đi ủng. Bằng cao su, cao đến tận bẹn để khỏi ướt khi cậu lội nước"
"Chà, nghe có vẻ hay đấy chứ. Cậu có mang theo đây không?"
"Cậu điên à, chúng nặng cả tấn. Mà cậu cần ủng làm cái đếch gì thế?"
"À, bọn mình đang trao đổi với nhau thôi. Thế khi đi câu ngoài biển cũng đeo ủng à?"
"Ôi Carol, lạy Chúa, cậu phải tự hình dung ra chứ! Khi câu ngoài biển, cậu đâu có lội, biển sâu lội sao được. Hiểu chưa?"
"Việc gì phải gào lên thế! Thế cậu mặc gì khi cậu câu ngoài biển? Đeo chân vịt à?"
"Này, cậu đâu có lội dưới nước. Cậu ngồi trên thuyền mà câu. Cậu mặc thứ gì gọn là được - quần và áo chui cổ chẳng hạn. Tại sao cậu hỏi kỹ thế?"
"Tớ đã bảo là chúng tớ đang tranh luận nhau mà lại"
Tôi trở lại nói cho Jurgy biết.
Nó bảo: "Ngày mai sau khi lĩnh học bổng, tớ phải đến cửa hàng Burdine. Cậu đi cùng tớ nhé".
Ngày mai thứ sáu, là ngày phát tiền. Tôi bảo: "Tiền học bổng cậu lĩnh không đủ mua đâu. Cậu không có quần áo nào mặc được sao?"
"Chẳng có cái nào ra hồn. Trên thuyền Luke còn có nhiều bạn bè"
"Khỏi lo đi. Tớ có khối thứ mặc được"
"Tớ không thể cứ mượn cậu mãi"
"Thôi, im đi Jurgy, cậu làm tớ phát ốm lên. Suốt ngày lúc nào cũng hằm hè, như sắp đánh ai, cự nự, cãi vã. Cậu phải hiểu chúng mình còn sống với nhau chứ".
Thế là nó im, và khi Donna vừa ra khỏi phòng, chúng tôi liền lục lọi đống quần áo của tôi trong tủ. Và đã có được đôi giày thật duyên dáng, có kẻ sọc hình răng cưa trông vui mắt, chiếc quần túi chéo màu xanh biếc rất hợp khi đi biển, hai áo sơ-mi khá đẹp và một chiếc khăn lụa màu tươi gần như làm riêng để đón những ngọn gió ngoài khơi xa. Khá lắm, Lord và Taylor! Mi đã nghĩ đến mọi việc để đẩy nhanh con người ta vào những chuyện tình lãng mạn.
Jurgy bảo: "Carol..."
"Hãy mang những thứ này vào phòng cậu, kẻo Alma ra khỏi nhà tắm lại tò mò rách việc"
Chúng tôi mang các thứ vào đặt cả lên giường nó. Rồi chợt nhớ ra còn cần túi xách nữa, tôi về mở tủ mang sang cái túi nhỏ nhất bằng da lợn màu trắng trông rất sang và bảo: "Còn cái này. Nếu cậu cần gì thêm thì cứ bảo tớ, hiểu chưa?"
"Carol..."
"Thôi thôi, dẹp chuyện ấy đi. Rồi khắc có ngày cậu được đền ơn đáp nghĩa tớ".
Tôi không hiểu nó có chuyện gì, cứ như người mất hồn. Nó mở ngăn kéo, quờ quạng lung tung, lôi ra thứ gì đó, quay lại và cố ấn nó vào tay tôi. Đó là chiếc hộp bọc nhung xanh, trong đó có cái lắc vàng rất nặng.
Hai đứa gần như cãi nhau. Tôi hét: "Cậu làm cái trò gì thế?"
"Tớ muốn cậu nhận cái này. Cầm lấy, Carol, cầm lấy đi"
"Cậu điên à?"
"Cầm lấy, nào"
"Đồ ngốc. Cất đi"
"Cầm lấy"
Tôi bảo: "Mary Ruth Jurgens, hãy tỏ ra người lớn một tý chứ"
Nó cắn môi, không nói một lời đặt trả cái hộp bọc nhung xanh vào ngăn kéo. Nó không nhìn tôi, quay mặt nhìn ra cửa sổ. Lát sau tôi ra phòng ngoài đọc cuốn sổ tay.

Khi đến chỗ bọn tôi, cô ta giơ tay chào rất điệu: "Đây rồi! Các bạn đang chờ máy bay tới trường huấn luyện ở Miami chứ gì?"
Tôi đoán mò, nhưng trong trường hợp này không phải là không có cơ sở. Cảm giác của tôi bao giờ cũng chính xác trong những việc như thế này. Vì thế, tôi trả lời bằng tiếng Ý:" Đúng, chúng tôi đang chờ ra máy bay. Mời bạn tới đây với bọn tôi. Cho phép tôi tự giới thiệu: tôi là Carol Thompson".
Cô ta nhìn tôi từ đầu đến chân với vẻ thích thú lạnh lùng, như thể nếu cho tôi vào nồi ninh mười hai tiếng cho nhừ là có thể ăn được. Tôi hơi ngạc nhiên tại sao cô ta lại không vạch mồm xem răng của tôi. Cô ta bảo:" Ra thế đấy! Cô cũng nói được tiếng Ý".
Tôi cho là thế. Tôi mới chỉ vừa nói với cô bốn câu bằng tiếng Ý. Vì vậy tôi trả lời: "Được".
Cô ta nghiêng đầu nhìn tôi rồi hỏi: "Cô học đâu cái thứ tiếng Ý rẻ tiền ấy?"
Tôi trả lời, vẫn bằng thứ tiếng mà tôi cho là mình nói thạo: " Ở Florence. Ở đó bác tôi có một Cử hàng" Tôi luôn nghĩ, một khi đã muốn làm nhục nhau thì cứ việc thẳng thừng, không phải vòng vo làm chi cho mệt.
Rõ ràng tôi nói vẫn hơi quá xa xôi, cô ta bảo:" Giọng ấy không phải của vùng Florence, mà là một giọng rẻ tiền. Mình ở Rôma. Tên mình là Alma Di Lucca".
Donna đột nhiên hỏi chen vào bằng một giọng nanh ác đến lạnh lùng:" Chắc không phải nữ bá tước Alma Di Lucca chứ?"
Alma lặng người. Mũi tên nhỏ đó đã trúng đích. Cô ta không nhìn Donna, mà cũng không trả lời. Tôi nghĩ thầm: "Được đấy! Biết tay nhau chưa! Mới có một phút mà đã có chuyện rồi. Chắc sẽ thú vị lắm đấy.
Donna ngáp dài, rồi bảo: "Mình phải làm gì để giết thời gian chứ các cậu. Ai chơi bài nào?".
Một lát sau, người đàn ông hay cáu gắt ấy đến chỗ chúng tôi. Ông ta nói:" Xin lỗi đã bắt các cô phải chờ, nhưng tôi không còn cách nào khác". Ông đọc lướt mấy tờ giấy rời: " Ta xem nhé, các cô tất cả mấy người?"
"Chúng tôi có 5 người", Alma trả lời. "Ai đếm cũng chỉ có 5 thôi".
"Còn thêm ai nữa không?"
"Thêm ai nữa là việc của các ông chứ không phải của chúng tôi", Alma bảo. "Bây giờ chúng tôi lên máy bay, đến nơi chúng tôi cần đến được rồi chứ?"
Rõ ràng ông ta không nghe thấy những gì cô ta nói. Ông ta dùng bút chì đánh dấu lên tờ giấy đang cầm, rồi cau mày. Sau đó ông lại nhìn chúng tôi, lại gạch gạch xoá xoá, rồi lại cau mày. Trông ông ta thật tội nghiệp và hình như đang phải tính toán, nghĩ ngợi. Chúng tôi gồm ba cô gái hết sức dễ thương, cộng với một cô gái Ý đẹp mê hồn và tôi, thế mà ông ta chỉ coi chúng tôi như những kiện bông đầy mối mọt. Lúc này, lần đầu tiên tôi mới thấy được những đòi hỏi của các hãng hàng không đối với nhân viên của họ.
Cuối cùng ông ta bảo: "Thôi được, các cô có thể lên máy bay. Các nhân viên phục vụ trên đó sẽ bố trí chỗ cho các cô. Các cô hãy lên cầu thang phía đuôi".
"Đuôi là đâu nhỉ?", Annette hỏi.
"Ở phía sau máy bay", ông ta thất vọng thốt lên. "Lạy Chúa, cô không biết đuôi là ở đâu sao?"
Alma bốp chát:" Nếu biết, cô ấy đã không phải hỏi. Xin ông nhã nhặn cho một chút, nếu không tôi sẽ báo cáo chuyện này với ông Benjamin cho mà xem".
Lời đe doạ ấy làm ông ta hoảng. Khi qua khỏi cửa 12, tôi hỏi Alma:" Này, ông Benjamin là ai thế?".
"Một người rất được việc, quan chức lớn trong hội đồng quản trị của hãng. Rất quan trọng". Rồi cô ta tủm tỉm cười:"nhưng chỉ là cái bóng, tớ bịa ra từ trí tưởng tượng. Thế mà ai cũng sợ hết hồn. Tớ nói tên ông ta ra một cái là họ co giò mà chạy."
Tôi chẳng bao giờ nghĩ ra việc ấy cả. Chà, cô bé này cần phải được nhận bằng sáng chế. Đằng sau mỗi người mà có một ông Benjamin nào đó thì cuộc đời có lẽ đỡ khốn khổ hơn.
Đến gần chiếc Boeing to tướng, tôi cứ mê mẩn như người mất hồn. Chiếc máy bay khổng lồ đang nhẫn nại đứng chờ chúng tôi, cánh chéo dài về phía sau, các động cơ nhô hẳn ra phía trước, cái đuôi nổi rõ trên nền trời xám lạnh. Trông nó giống như một đoá phong lan rừng khổng lồ, tôi nghĩ, hay giống như chú cá trắng cực lớn bị chiếc Bumơrăng xuyên qua bụng, hoặc tức cười hơn, như con ngựa giống Arập đứng trên cái cân bàn khổng lồ. Tôi những muốn bay lên mà vỗ về mũi nó một cách thân thương. Tôi yêu những chiếc máy bay, bao giờ tôi cũng yêu thương chúng, để mỗi khi gần chúng, tôi lại cảm thấy người nhũn ra như bún.
Mary Ruth Jurgens và Annette lên cầu thang trước rồi đến Alma, tôi và Donna. Ở đầu cầu thang, một nhân viên khác mặt mày cau có khoác áo mưa xem vé của chúng tôi, rồi lẳng lặng để chúng tôi qua. Một cô chiêu đãi viên đứng đợi ở cửa cabin, và vừa thoáng thấy cô ta, tôi lập tức có cảm giác như mình vừa từ khu Casbah đến thẳng đây. Với tôi, đó là giây phút bẽ bàng nhục nhã bởi bên cạnh cô ta, tôi thấy mình chỉ là cái thứ ăn mày ở làng Greenwich. Bộ đồng phục màu huyết dụ là phẳng lỳ, mái tóc gọn gàng dưới chiếc mũ rất xinh, nước da và bàn tay trắng mịn, trông cô ta bóng lộn như một đồng bạc mới bóc tem.
Cô ta xem vé của chúng tôi. "Được rồi" cô ta nói và đưa trả lại. Sau đó cô nói nhỏ: "Hai cô ngồi ở lô vé hạng nhất phía trước. "Hạng nhất ư?" chúng tôi hỏi. " Những cô bạn tôi thì sao?"
"Họ ngồi ở lô ghế hạng ba. Có được chỗ nào, chúng tôi thu xếp chỗ đó".
Cô ta ra hiệu bảo chúng tôi vào cabin. Một cô khác vẫy bảo chúng tôi đi tiếp về phía trên. Cô ta bảo: "Các cô cứ đi nữa đi" và thế là chúng tôi đi mãi, cảm thấy như đây là chuyến đi dài nhất trong đời. tôi nghe tiếng gọi khàn khàn của Alma nhưng không trả lời được, vì hễ bước vào máy bay là tôi cứ như kẻ mất hồn. Tôi chỉ còn thấy lối đi hẹp giữa hai hàng ghế phía trước mặt dài như vô tận, bồng bềnh trong ánh xanh da trời và màu trắng dìu dịu. Sau đoạn đường dài như một dặm, một cô khác hướng dẫn chúng tôi đi tiếp, và rồi cô thứ tư đưa chúng tôi tới ghế ngồi. Tôi thấy mình ngồi cạnh một người đàn ông mặc complê màu xám nhạt, cravatte màu xanh nhạt và nhìn chung, màu sắc quần áo ông ta hợp với màu sơn bên trong máy bay. Tôi cảm thấy hài lòng. Tuyệt.
Trước khi máy bay cất cánh, trong khoang mọi người rì rầm nói chuyện và tôi lắng tai nghe thích thú. Một cô chiêu đãi viên nói rất có duyên trên hệ thống truyền thanh, chào mừng tất cả hành khách trên máy bay phản lực Boeing 707, chuyến bay 21A của hãng hàng không quốc tế Magna. Cô giới thiệu tên những chiêu đãi viên khác và tên cô, sau đó vui vẻ giới thiệu những đặc tính và các chi tiết mới lạ và thú vị về loại máy bay chúng tôi đang đi, rồi giảng giải rất lâu về chuyện dưỡng khí. Trước nay tôi không để ý lắm đến chủ đề này.
"Dào ôi, lại dưỡng khí!", người đàn ông ngồi cạnh tôi lẩm bẩm.
"Dạ, ông bảo sao?"
"Dưỡng khí chỉ cần thiết trong các ca phẫu thuật", ông ta lại nói tiếp". Giọng ông khàn khàn, mà lại thô thô, nên tôi tự hỏi liệu mình có nghe nhầm hay không. Tôi nhìn ông ta; ông ta nhìn, bắt gặp ánh mắt của tôi liền quay đi. Nhưng tôi nghĩ đã có cơ sở để đoán xem ông ta là người như thế nào. Mặt ông gầy gò, đầy vẻ khắc khổ nhưng rất nhạy cảm. Tôi liếc nhìn những ngón tay ông, ngón tay dài và thon. Có lẽ là bác sĩ phẫu thuật, tôi nghĩ thầm, chỉ có bác sĩ phẫu thuật mới có thể nói ôxy dùng cho phẫu thuật chứ.
Một cô chiêu đãi viên tay cầm mặt nạ thở ôxy đi dọc theo các hàng ghế, giới thiệu cách sử dụng. Ở trần máy bay, trên mỗi hàng ghế, ngoài ngọn đèn đọc sách và cửa thổi gió mát cho mỗi người còn có một cửa ngầm giấu rất khéo; khi cửa này mở ra, mặt nạ thở ôxy sẽ rơi xuống treo lủng lẳng trước mặt và hành khách có thể dùng nếu cần. Chỉ mỗi việc là giữ cho mặt nạ ép sát mũi và mồm, rồi hít thở bình thường. Thật không còn gì dễ dàng hơn.
Cách thức ấy hoàn toàn mới mẻ đối với tôi, và có lẽ tôi đã tròn xoe mắt vì ngạc nhiên. Người đàn ông ngồi cạnh tôi thấy thế liền bảo: "Đừng sợ, họ loè cô đấy. Toàn nói nhăng nhít cả".
"Tôi đâu có sợ, thật mà"
"Thế thì tốt, cô đừng lo. Chẳng sao đâu".
Ông ta mỉm cười với tôi, vẻ thân tình, cốt để tôi an lòng. Ông ta cũng tử tế, chuyện trò với dụng ý tốt đấy chứ, tôi thầm nghĩ. Nó làm tôi thay đổi cách xét đoán lúc đầu về ông ta. Mặc dù ông ta có những nét thanh tú và đôi tay mềm mại, nghe ông ta nói thì không thấy giống bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ nha khoa thì đúng hơn. Chỉ có bác sĩ nha khoa mới hay bảo mọi người an tâm, đừng lo lắng gì.
Mấy phút sau, máy bay từ chỗ đậu từ từ lăn bánh ra phía đường băng. Chúng tôi chờ đợi, và đột nhiên máy bay như sống lại. Người đàn ông ngồi cạnh tôi khoanh tay trước ngực, nhắm mắt ngủ, đúng như lời ông ta khuyên tôi. Máy bay bắt đầu chạy nhanh dần, rồi lao đi với tốc độ phi thường. Sau đó không ai có cảm giác là máy bay đã ở trên không, xuyên qua sa mù trắng mỏng và những đám mây vàng rực. Phía dưới chúng tôi là mặt nước màu xanh, những dải đất nhỏ và những cụm nhà bé tý. Tôi thầm nghĩ: đây quả thật luôn luôn là điều thần diệu nhất trong thế giới này. Hãy tưởng tượng bạn ngồi trong toa tàu sang trọng được gắn thêm đôi cánh, thêm động cơ vào đôi cánh ấy, và toa tàu kia vụt bay lên, thực sự bay lượn ở trên không. Người ta đã giảng giải cho tôi cả ngàn lần tại sao máy bay có thể bay lượn được, nhưng các số liệu khoa học ấy vẫn không làm tôi hiểu nổi. Nó bay được hẳn phải do phép màu nào đó.
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: Trái Tim VN online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 3 tháng 3 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--